Khi Giải Nobel Hòa Bình 2025 bị phỉ báng: Sự thật ở đâu?

Tino Cao

* English below

Khi Michelle Ellner, điều phối viên khu vực Mĩ La-tinh của tổ chức #CODEPINK, công bố bài viết “Khi María Corina Machado giành giải Nobel Hòa bình, thì hòa bình đã mất hết ý nghĩa”, dư luận mạng xã hội thế giới, và cả ở Việt Nam, lập tức chia rẽ. Nhiều người xem đó như một tuyên ngôn đạo đức chống lại “sự thao túng của phương Tây”, một tiếng nói dũng cảm từ miền Nam toàn cầu. Nhưng nếu đọc chậm và kĩ hơn, ta có thể dễ dàng nhận ra đằng sau giọng điệu phẫn nộ cực đoan ấy không phải là một phân tích chính trị mà là một bản cáo trạng được viết từ định kiến phản đế cố hữu, nơi mọi tiếng nói chống lại các chế độ xã hội chủ nghĩa ở Mĩ La-tinh đều bị quy chụp thành “sản phẩm của Washington”. Bài viết ấy không chỉ xuyên tạc về dữ kiện mà còn phản bội chính những giá trị mà nó nhân danh: hòa bình, nhân quyền và chủ quyền dân tộc.

Có lẽ chính vì thế, bài viết này – lời đáp lại của tôi – không chỉ nhằm phản biện Michelle Ellner mà thật ra để khơi lại một câu hỏi phổ quát hơn: liệu trong thế giới hôm nay, hòa bình có còn là giá trị chung hay đã trở thành công cụ biện minh cho quyền lực?

María Corina Machado sinh ra và lớn lên ở Caracas, trong một Venezuela từng được xem là hình mẫu phát triển của khu vực, với nền kinh tế dầu mỏ phồn thịnh và tầng lớp trung lưu năng động. Nhưng từ khi Hugo Chávez và sau đó là Nicolás Maduro lên nắm quyền, đất nước ấy đã biến thành một trong những thảm họa nhân đạo lớn nhất thế kỉ hai mươi mốt. Hơn bảy triệu người Venezuela đã phải rời bỏ quê hương, theo thống kê của Liên Hiệp Quốc. Lạm phát vượt quá bốn chữ số, đồng nội tệ gần như vô giá trị và hệ thống y tế sụp đổ hoàn toàn. Trong bối cảnh ấy, Machado nổi lên như một trong số ít chính trị gia dám nói sự thật, dám gọi đích danh kẻ phải chịu trách nhiệm và dám tin rằng dân chủ không phải là đặc quyền của phương Bắc mà là quyền phổ quát của con người.

Ellner mô tả bà như gương mặt tươi cười của cỗ máy thay đổi chế độ do Mĩ điều khiển nhưng không đưa ra được bằng chứng nào ngoài những kết luận suy diễn dựa trên định kiến phản đế. Thực tế, không có chứng cứ độc lập nào cho thấy Machado từng kêu gọi can thiệp quân sự hay “dâng chủ quyền” cho Washington. Các phát biểu của bà trong hai thập niên qua nhất quán kêu gọi áp lực quốc tế, thương lượng chính trị và bầu cử tự do, vốn là những những phương thức tranh đấu ôn hòa được luật pháp quốc tế thừa nhận. Trong các xã hội chuyên chế, chỉ riêng việc yêu cầu thế giới quan tâm đến nhân quyền đã bị xem là phản quốc; và Ellner đã lập lại luận điệu ấy một cách vô thức.

Điều cần nhắc ở đây là phần lớn những cáo buộc quanh nhân vật này đều bắt nguồn từ việc bà bị gán vai trò “đồng lõa đảo chính năm 2002”. Nhưng trong hồ sơ công khai, không hề có bằng chứng cho thấy Machado soạn thảo hay kí trực tiếp vào Sắc lệnh Carmona – văn bản tuyên bố giải tán Quốc hội và đình chỉ Hiến pháp. Bà chỉ thừa nhận có kí tên vào một danh sách điểm danh trong cuộc họp công dân. Việc biến một hành động xã hội dân sự thành chứng cứ phản quốc với cáo buộc “tay sai đảo chính” là một thủ thuật quen thuộc của tuyên truyền dùng để duy trì huyền thoại rằng mọi bất đồng ở Venezuela đều là sản phẩm của Mĩ.

Những ai theo dõi đời sống chính trị Venezuela đều hiểu, Machado không đại diện cho Washington mà cho hàng triệu người Venezuela đã mất niềm tin vào một hệ thống quyền lực cướp đi cả phẩm giá và miếng ăn của họ. Chính họ, chứ không phải Nhà Trắng, đã xuống đường đòi thay đổi. Cách Ellner gộp mọi phản kháng dân sự vào phạm trù “chống chủ quyền” thực ra chỉ phản ánh cái nhìn thực dân ngược: phủ nhận khả năng tự quyết của người Mĩ La-tinh, coi họ như kẻ bị giật dây.

Điều Ellner gọi là “chính trị thấm đẫm bạo lực” thực chất là nỗ lực bất bạo động kéo dài suốt hơn hai thập niên. Machado sáng lập Súmate, tổ chức giám sát bầu cử độc lập đầu tiên của Venezuela, với mục tiêu đơn giản: bảo đảm rằng lá phiếu của người dân được đếm đúng. Chính nhờ những nỗ lực ấy mà các vụ gian lận trong trưng cầu dân ý thời Chávez mới được phơi bày. Machado vận động bằng lí lẽ, bằng con chữ, bằng diễn đàn và bằng nghị trường. Bà chưa bao giờ kêu gọi chiến tranh. Điều bà kêu gọi là bầu cử tự do, minh bạch và quyền được sống không sợ hãi. Trong một xã hội nơi chỉ một lời phản đối có thể dẫn đến nhà tù, hành động ấy đã là một biểu lộ can đảm hiếm thấy.

Bạo lực thật sự không nằm ở những cuộc biểu tình mà Ellner gán cho Machado mà ở cách chính quyền Maduro dùng súng đạn đối phó với công dân của họ. Tổ chức Ân xá Quốc tế và Human Rights Watch đã ghi nhận hàng nghìn vụ bắt bớ tùy tiện, hàng trăm vụ tra tấn và hàng chục vụ giết người trong các cuộc đàn áp biểu tình từ năm 2014 đến nay. Các nhà báo độc lập bị mất tích, các tổ chức xã hội dân sự bị giải thể, internet bị kiểm soát và các tòa án bị chính trị hóa. Những ai nói “La Salida” năm 2014 là “âm mưu bạo loạn” quên rằng phong trào ấy được khởi xướng với tuyên bố công khai về một “lối thoát dân chủ và hòa bình”. Đúng là có bạo lực nổ ra, nhưng không ai từng chứng minh Machado ra lệnh hay cổ vũ cho điều đó. Trong một đất nước nơi mọi phản kháng đều bị vũ khí hóa, việc buộc tội người đối lập bằng cách tận dụng hành động vô tri của đám đông chỉ là cách nhà nước né tránh trách nhiệm của chính mình.

Một trong những luận điểm trung tâm của Ellner là lệnh trừng phạt của Mĩ đã gây ra thảm họa nhân đạo và Machado ủng hộ điều ấy. Nhưng đó là một sự đánh tráo nhân quả. Khủng hoảng của Venezuela bắt đầu từ trước khi Mĩ áp dụng các biện pháp trừng phạt, khi giá dầu sụp đổ và chính quyền Chavez-Maduro kiên quyết duy trì mô hình quốc hữu hóa toàn diện, triệt tiêu tư nhân và nuôi dưỡng tham nhũng có hệ thống. Hàng tỉ đô la thất thoát qua các mạng lưới thân hữu, ngân hàng trung ương in tiền vô tội vạ để bù thâm hụt và kết quả là siêu lạm phát chưa từng có trong lịch sử khu vực. Lệnh trừng phạt không tạo ra khủng hoảng, nó chỉ phơi bày một nền kinh tế đã bị làm mục ruỗng. Machado không ủng hộ trừng phạt như vũ khí mà xem đó là đòn bẩy để buộc giới cầm quyền phải thương lượng, phải trả lại quyền tự do bầu cử. Cần phân biệt giữa người đòi hỏi trách nhiệm và người cổ vũ cho khổ đau. Không có bằng chứng nào cho thấy Machado muốn “bóp nghẹt dân nghèo”. Chính hệ thống độc tài mới là nguyên nhân khiến người nghèo không còn phương tiện sinh tồn.

Ellner còn gán cho Machado tội “hợp tác với Washington để thay đổi chế độ” như thể đó là âm mưu cá nhân, trong khi các mối liên hệ ngoại giao, vận động quốc tế hay lời kêu gọi hỗ trợ dân chủ vốn là thực hành bình thường trong đời sống chính trị toàn cầu. Các cuộc gặp của Machado với giới ngoại giao Hoa Kì hay Nghị viện châu Âu đều diễn ra công khai với mục tiêu vận động cho bầu cử tự do và phóng thích tù nhân chính trị. Bà không kêu gọi quân đội Mĩ đổ bộ vào Caracas; bà kêu gọi thế giới đừng quay lưng. Giới tuyên truyền thân chính quyền đã cố tình đồng hóa mọi hình thức liên đới quốc tế với “can thiệp vũ trang” như thể chủ quyền đồng nghĩa với quyền bịt miệng công dân.

Không chỉ vậy, Ellner còn sử dụng lại những cáo buộc cũ rằng Machado “ủng hộ Trump đưa hải quân đến vùng Caribe” hay “muốn mở lại đại sứ quán tại Jerusalem”. Không có tài liệu, bài phát biểu hay đoạn ghi âm nào xác nhận điều đó. Việc trộn lẫn tên bà với các sự kiện quốc tế gây tranh cãi là cách tuyên truyền dễ đoán nhằm gắn nhãn tội lỗi bằng liên tưởng cảm xúc chứ không bằng chứng cứ. Nếu quả thật Machado từng có tuyên bố như vậy, hẳn nó đã được các cơ quan truyền thông quốc tế trích dẫn. Việc không có nguồn chứng minh cho thấy cáo buộc chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng chính trị của phe tuyên truyền.

Vấn đề “tư nhân hóa tài nguyên” mà Ellner nêu ra cũng bị bóp méo. Machado từng đề xuất cải cách cấu trúc dầu khí và mở cửa cho đầu tư tư nhân, điều này không đồng nghĩa với “bán rẻ đất nước”. Bà hiểu rằng quốc hữu hóa toàn diện đã khiến ngành dầu khí, vốn là xương sống của Venezuela, trở thành sân sau cho tham nhũng và vô dụng. Kêu gọi minh bạch hóa, cổ phần hóa và tái cơ cấu không phải là dâng hiến mà là nỗ lực cứu lấy nền kinh tế đang chết ngạt. Chính cái mô hình “chủ quyền tài nguyên tuyệt đối” mà Ellner bảo vệ mới là nguyên nhân khiến người dân Venezuela phải xếp hàng mua xăng ngay trên mảnh đất có trữ lượng dầu lớn nhất thế giới.

Trong khi Ellner ca ngợi “các sáng kiến cộng đồng” dưới chế độ Maduro, bà bỏ qua thực tế rằng phần lớn các tổ chức phi chính phủ độc lập đã bị bóp nghẹt. Nhiều nhà hoạt động bị bắt giữ chỉ vì nhận tài trợ nhân đạo từ nước ngoài. Các phương tiện truyền thông bị đóng cửa, còn mạng xã hội bị giám sát bằng hệ thống công nghệ do các nước khác cung cấp. Ủy ban Liên Hiệp Quốc điều tra về Venezuela đã nhiều lần kết luận rằng ở đó đang diễn ra các hành vi có thể cấu thành tội ác chống loài người. Những con số ấy không nằm trong bài viết của Ellner, bởi nếu sự thật khách quan này được phơi bày một cách công bằng, chúng sẽ làm sụp đổ toàn bộ khung diễn ngôn về một “Venezuela bị bao vây”.

Machado cũng bị gán là “kiến trúc sư của chính phủ lâm thời do Washington giật dây”, nhưng bà chưa bao giờ giữ vai trò trong bộ máy đó. Việc bà ủng hộ nỗ lực hình thành một chính phủ chuyển tiếp không biến bà thành “tay sai”. Nó chỉ phản ánh khát vọng dân chủ của người dân Venezuela đã bị tước đoạt. Sự hiện diện của một chính phủ lâm thời được quốc tế công nhận không phải là biểu hiện của chủ nghĩa bù nhìn mà là bằng chứng về mức độ khủng hoảng thể chế tại Venezuela.

CODEPINK, tổ chức mà Ellner đại diện, vốn được biết đến với các chiến dịch phản chiến có ý nghĩa nhân đạo trong quá khứ. Nhưng trong nhiều năm gần đây, tổ chức này sa vào thứ phản chiến mù quáng khi mọi hành động chống lại độc tài đều bị quy chụp là sản phẩm của đế quốc. Khi chống can thiệp trở thành phản xạ vô điều kiện, nó biến thành một dạng đạo đức giả: nhân danh hòa bình để bảo vệ bạo lực. Bài viết của Ellner là biểu hiện rõ của xu hướng đó. Nó không phê phán quyền lực mà chỉ đổi phe cho quyền lực, không chống chiến tranh mà chỉ biện hộ cho áp bức. Cái gọi là “chủ nghĩa phản đế kiểu cũ” mà Ellner theo đuổi không còn là lập trường đạo đức mà là sự phủ nhận tính phổ quát của nhân quyền.

Machado không phải sản phẩm của Washington, mà là kết tinh của truyền thống dân chủ Mĩ La-tinh, truyền thống mà những cái tên như Michelle Bachelet ở Chile hay Violeta Chamorro ở Nicaragua từng đại diện. Bà thừa hưởng một di sản lâu dài của những phong trào nữ quyền và xã hội dân sự ở các quốc gia Nam Mĩ, nơi phụ nữ không chỉ đòi quyền bình đẳng mà còn đòi quyền được nói thật. Trong một nền chính trị do quân đội và quyền lực nam giới thống trị, sự hiện diện của một người phụ nữ như Machado đã tự thân là một hành động chính trị. Bà không kế thừa dòng tộc, không có hậu thuẫn của giới tài phiệt và cũng không nương nhờ các lực lượng vũ trang. Bà chỉ có một thứ vũ khí duy nhất là khả năng nói thẳng và niềm tin rằng một quốc gia chỉ có thể phục hồi nếu người dân của nó được tự do chọn lựa.

Giải Nobel Hòa bình dành cho Machado vì thế không nên được hiểu chỉ là một sự công nhận mang tính cá nhân. Đó là thông điệp Oslo gửi đến toàn cầu rằng hòa bình không thể tách rời khỏi dân chủ. Giống như Nelson Mandela từng bị gọi là kẻ khủng bố trước khi được vinh danh hay Lưu Hiểu Ba bị giam cầm khi nhận giải, Machado cũng đang phải đối diện với cùng một logic của quyền lực: khi bạn đòi tự do, bạn sẽ bị buộc tội phản bội. Nhưng chính trong sự buộc tội ấy, giá trị của giải thưởng được củng cố. Nobel Hòa bình chưa bao giờ là phần thưởng cho sự ngoan ngoãn. Nó là tiếng chuông cảnh tỉnh rằng công lí không thuộc về kẻ mạnh mà thuộc về kẻ dám chống lại sợ hãi.

Hòa bình, như Machado nhiều lần nói, không phải là sự vắng mặt của xung đột mà là sự hiện diện của công lí. Một xã hội im lặng trước đàn áp không phải là xã hội hòa bình mà là xã hội đã bị thuần phục. Ở Venezuela, sự im lặng ấy đang bị phá vỡ từng ngày bởi những người phụ nữ đứng lên đòi quyền được nuôi con bằng sữa thật, những công nhân đòi được trả lương thật và những nhà báo đòi được nói sự thật. Machado là tiếng nói tập hợp của những con người ấy. Giải Nobel Hòa bình dành cho bà không làm mất ý nghĩa của hòa bình mà trả lại cho hòa bình ý nghĩa thực sự đã bị đánh cắp bởi tuyên truyền.

Nếu có điều gì cần cảnh báo, thì tôi tin rằng đó không phải là “sự phi lí của Nobel” mà là sự phi lí của việc một số tổ chức vẫn chọn làm ngơ trước khổ đau của người dân chỉ vì họ không phù hợp với định kiến ý thức hệ. Trong thế giới hôm nay, nơi chủ nghĩa dân túy và cực đoan đang trỗi dậy từ cả hai phía, việc một phụ nữ Mĩ La-tinh nói về dân chủ, pháp quyền và nhân phẩm là điều đáng để bảo vệ, không phải để giễu cợt.

Ellner đã sai khi cho rằng trao giải cho Machado là xúc phạm hòa bình. Sự thật là nếu cộng đồng quốc tế tiếp tục im lặng trước những gì diễn ra ở Venezuela thì chính hòa bình mới là kẻ bị xúc phạm. Trong tiếng nói của Machado, người ta nghe thấy lời nhắc nhở rằng tự do không có biên giới và dân chủ không có quốc tịch. Hòa bình thật sự chỉ có thể tồn tại khi con người được quyền lên tiếng về số phận của chính mình.

Những phản ứng dữ dội trên mạng xã hội hai ngày qua từ những người tự nhận là bảo vệ nhân quyền hay ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc đã bộc lộ một nghịch lí khác của thời đại. Nhiều người trong số đó, khi hô hào quyền tự do cho người Palestine chống lại Israel, hay ca ngợi tinh thần kháng cự của chính quyền Zelensky trước Nga, lại đồng thời phủ nhận quyền tự do của người Venezuela được lựa chọn vận mệnh chính trị của chính họ. Họ nhân danh công lí để biện minh cho định kiến, nhân danh hòa bình để loại trừ những ai không nằm trong sơ đồ tư tưởng của mình. Đó không còn là lập trường chính trị mà là một thứ tín điều phản đế đã hóa giáo điều khi mà mọi giá trị chỉ được công nhận nếu nó phục vụ cho niềm tin của “phe ta”.

Chính trong bầu không khí ấy, việc gán cho María Corina Machado là “con rối của Washington” trở thành một quy kết lười biếng và thiếu thuyết phục, phản ánh cái nhìn thực dân ngược, một thứ chủ nghĩa phản đế tin rằng mọi khát vọng dân chủ của phương Nam đều phải được giải thích bằng bàn tay xen vào của phương Bắc. Cách lập luận ấy, tưởng là chống lại bá quyền, nhưng thực ra lại phủ nhận năng lực tự quyết của chính người Mĩ La-tinh. Nó biến những người đang chiến đấu cho quyền sống và quyền tự do của mình thành những nhân vật phụ trong một vở kịch toàn cầu mà “đế quốc” luôn là trung tâm.

Cực đoan nào cũng giống nhau, dù khoác áo “chống đế quốc” hay “giải phóng dân tộc”. Khi những người từng khóc vì Gaza lại im lặng trước Caracas, khi họ tố cáo bạo lực của Israel nhưng làm ngơ trước bạo lực của một chế độ cùng phe ý thức hệ, thì sự nhất quán đạo đức đã bị đánh mất. Bởi hòa bình, nếu chỉ dành cho những ai ta đồng ý thì không còn là hòa bình nữa. Nó chỉ là một hình thức kiểm soát ngôn ngữ của lương tri.

Trao giải Nobel Hòa bình cho María Corina Machado không phải là hành động chống lại ai mà là chỉ dấu cho thấy rằng hòa bình không thể bị độc quyền bởi bất kì phe phái nào. Nó không phủ nhận nỗi đau của Palestine hay Ukraine mà khẳng định rằng tự do và nhân phẩm là giá trị không biên giới. Và nếu thế giới thật sự muốn nói về hòa bình, thì điều đầu tiên cần làm là trả lại cho những con người như María Corina Machado quyền được nói, được tin và được đại diện cho chính tiếng nói của mình. Chính sự cực đoan của những người nhân danh công lí để chối bỏ người khác mới là điều xúc phạm sâu sắc nhất đối với hòa bình.

  • •••

When the 2025 Nobel Peace Prize is defamed: Where does truth lie?

When Michelle Ellner, the Latin America coordinator of #CODEPINK, published her article “When María Corina Machado wins the Nobel Peace Prize, peace loses its meaning”, the reaction across global social networks, including in Vietnam, was immediate and polarized. Many praised it as a moral declaration against Western manipulation, a courageous voice from the Global South. Yet a closer reading shows something different. Beneath its anger lies not political reasoning but a habitual anti-imperialist reflex that reduces any criticism of socialist regimes in Latin America to a conspiracy directed by Washington. The piece is not only inaccurate but also betrays the very principles it claims to defend: peace, human rights, and national sovereignty.

This response, therefore, is not only a rebuttal to Ellner but a reflection on a broader question. Has peace, in our time, remained a shared human value, or has it become an instrument to justify power?

María Corina Machado was born in Caracas, in a Venezuela once considered a model of prosperity, blessed with oil wealth and a dynamic middle class. Since the rise of Hugo Chávez and Nicolás Maduro, that country has become one of the worst humanitarian disasters of the twenty-first century. More than seven million Venezuelans have fled their homeland. Inflation has reached four digits, the national currency has lost its value, and the healthcare system has collapsed. In this devastation, Machado emerged as one of the few politicians who dared to speak the truth, to identify those responsible, and to affirm that democracy is not a privilege of the North but a universal human right.

Ellner portrays María Corina Machado as the smiling face of a regime-change machine orchestrated by the United States, yet she offers no evidence beyond speculation shaped by an old anti-imperialist reflex. In fact, there is no independent proof that Machado ever called for military intervention or surrendered Venezuela’s sovereignty to Washington. Her statements over the past two decades have consistently urged international pressure, political negotiation, and free elections. These are peaceful methods of civic resistance recognized by international law. Within authoritarian systems, even the act of asking the world to pay attention to human rights is branded as betrayal, and Ellner repeats that accusation almost unconsciously.

Much of the controversy surrounding Machado rests on the claim that she was complicit in the 2002 coup. The public record, however, contains no evidence that she drafted or signed the Carmona Decree, which dissolved the National Assembly and suspended the Constitution. She admitted only to signing an attendance list during a civic meeting. Turning such a minor act of civil participation into proof of treason is a familiar strategy of propaganda that sustains the myth that every dissenting voice in Venezuela is a creation of the United States.

Anyone who follows Venezuelan politics knows that Machado represents not Washington but the millions of Venezuelans who have lost faith in a system that has stripped them of both dignity and livelihood. It was they, not the White House, who filled the streets demanding change. To categorize all civil resistance as an attack on sovereignty reflects an inverted colonial mindset that denies Latin Americans their own agency and assumes they can act only at the command of outsiders.

What Ellner calls a politics soaked in violence has, in truth, been a two-decade experiment in nonviolent resistance. Machado founded Súmate, Venezuela’s first independent election-monitoring organization, with a simple goal: to ensure that every vote would be counted. Through her work, electoral fraud during the Chávez era was exposed. She fought through argument, language, public debate, and parliament. She has never called for war. What she has demanded is the right to vote freely and to live without fear. In a country where a single protest can lead to imprisonment, that insistence itself is a form of courage.

The real violence lies not in the protests Ellner attributes to her but in the government’s response. Amnesty International and Human Rights Watch have documented thousands of arbitrary arrests, hundreds of cases of torture, and dozens of killings since 2014. Independent journalists have vanished, civil organizations have been dissolved, the internet is censored, and the courts are subjugated to the state. Those who call La Salida in 2014 a violent conspiracy forget that it began as an explicitly declared peaceful and democratic movement. Violence did occur, yet there has never been credible evidence that Machado ordered or encouraged it. In a country where protest itself is treated as a weapon, blaming the opposition for unrest is simply a way for the state to avoid responsibility for its own repression.

One of Ellner’s central arguments is that U.S. sanctions caused Venezuela’s humanitarian disaster and that Machado supported them. This confuses cause and effect. The crisis began long before sanctions were imposed, when oil prices collapsed and the Chávez-Maduro government clung to total nationalization, destroying private enterprise while nurturing systemic corruption. Billions of dollars disappeared through networks of patronage, and the central bank printed money without restraint, unleashing unprecedented hyperinflation. Sanctions did not create the catastrophe; they exposed an economy that had already been hollowed out. Machado never defended sanctions as punishment but saw them as leverage to force negotiation and restore electoral freedom. There is a difference between demanding accountability and endorsing suffering. No evidence suggests that Machado ever sought to strangle the poor. It is the dictatorship itself that has deprived them of the means to live.

Ellner also accuses her of collaborating with Washington as if diplomacy were a form of treason. In modern politics, international engagement is a normal and legitimate practice. Machado’s meetings with American and European officials were public and aimed at pressing for free elections and the release of political prisoners. She never called for foreign troops to enter Caracas; she asked the world not to turn away. Government propaganda deliberately conflates all international solidarity with invasion, as if sovereignty were the right to silence one’s citizens.

Equally baseless are the recycled accusations that she supported Donald Trump’s naval maneuvers in the Caribbean or promised to reopen Venezuela’s embassy in Jerusalem. There is no transcript, speech, or recording that confirms such claims. Linking her name to divisive global events is a familiar tactic of emotional manipulation designed to substitute suspicion for evidence. If she had ever made such statements, international media would have cited them. Their absence shows that the accusations belong to the realm of political fiction.

Ellner also misrepresents Machado’s economic vision. Her proposal to reform the oil sector and invite private investment was not an attempt to sell the nation. She understood that total state ownership had turned Venezuela’s greatest resource into a breeding ground for corruption and decay. To advocate transparency, shared ownership, and restructuring is not surrender but an effort to rescue a suffocating economy. The model of absolute resource sovereignty that Ellner defends is precisely what forces Venezuelans to queue for gasoline in a country that floats on oil.

While Ellner praises community initiatives under Maduro, she ignores the fact that most independent NGOs have been strangled. Activists have been arrested for receiving humanitarian aid. News outlets have been shut down. Social media are monitored through imported surveillance systems. The United Nations Fact-Finding Mission has repeatedly found evidence that crimes against humanity may be taking place. These findings are absent from Ellner’s text because they would collapse her narrative of a Venezuela besieged by the empire.

She further labels Machado as the architect of a Washington-backed interim government, though Machado never held a role in it. Supporting the idea of a transitional administration does not make her a puppet. It reflects a society’s desperate attempt to reclaim democratic governance after the collapse of its institutions. International recognition of such a government is not proof of foreign control but evidence of the magnitude of Venezuela’s constitutional crisis.

CODEPINK, the organization Ellner represents, was once respected for its moral opposition to war. In recent years, it has drifted toward a blind pacifism that condemns every act of resistance against tyranny as imperial manipulation. When opposition to intervention becomes automatic, it ceases to be ethical and turns hypocritical. It uses the language of peace to protect violence. Ellner’s article is an example of this new posture. It does not challenge power; it merely transfers allegiance from one form of domination to another. The anti-imperialism she defends is no longer a moral stance but a refusal to recognize that human rights are universal.

Machado is not a creation of Washington. She is the product of a long Latin American democratic tradition, the same that produced figures such as Michelle Bachelet in Chile and Violeta Chamorro in Nicaragua. She inherits the legacy of women who fought not only for equality but for the right to speak truthfully. In a political landscape dominated by the military and patriarchal power, her presence is a political act in itself. She belongs to no dynasty, enjoys no protection from the oligarchy, and commands no armed faction. Her only weapon is her voice, and her only conviction is that a nation can be restored only when its citizens are free to choose their future.

The Nobel Peace Prize awarded to Machado should not be understood as a personal distinction. It is a message from Oslo that peace cannot exist without democracy. Like Nelson Mandela, once branded a terrorist before becoming a symbol of reconciliation, or Liu Xiaobo, who received his prize from prison, Machado faces the same logic of power: those who demand freedom are accused of betrayal. Yet within such accusation lies the very essence of the award. The Peace Prize has never honored submission. It reminds the world that justice belongs not to the powerful but to those who dare to confront fear.

Peace, as Machado has often said, is not the absence of conflict but the presence of justice. A society that remains silent before oppression is not peaceful; it is subdued. In Venezuela, silence is being broken every day by women demanding real milk for their children, by workers insisting on real wages, and by journalists risking their lives to tell the truth. Machado embodies these voices. Her Nobel Prize restores to peace the meaning that propaganda had stolen.

The real danger lies not in what critics call the absurdity of the Nobel, but in the moral absurdity of those who choose to ignore human suffering because it challenges their ideology. In a time when populism and extremism rise from every direction, a Latin American woman speaking about democracy, justice, and human dignity should be defended, not derided.

Ellner was wrong to claim that honoring Machado insults peace. If the world continues to remain silent about Venezuela, then peace itself becomes the insult. In Machado’s voice, one hears a reminder that freedom knows no borders and democracy no nationality. Peace can exist only where people are allowed to speak of their own fate.

The violent reactions on social media in recent days, many from self-proclaimed defenders of human rights and national liberation, reveal another paradox of our time. Those who celebrate the resistance of Palestinians or Ukrainians often deny Venezuelans the same right to decide their political destiny. They invoke justice to justify prejudice and speak of peace while excluding those who do not fit their ideological frame. This is no longer conviction but dogma, a form of anti-imperialism that has turned into a theology where values are recognized only when they serve the faith of one’s own camp.

Within this moral confusion, calling María Corina Machado a puppet of Washington is an empty and lazy claim. It expresses an inverted colonial logic that assumes every democratic aspiration in the Global South must be explained by the North’s invisible hand. What pretends to resist hegemony ends by denying the South its own will. It reduces those who fight for life and freedom to background figures in a global theater that always centers the empire.

All extremisms resemble one another, whether they call themselves anti-imperialist or nationalist. When those who cry for Gaza fall silent before Caracas, when they condemn the violence of Israel but excuse the violence of an allied regime, moral coherence disappears. Peace that exists only for those we favor is not peace but the policing of conscience.

To award the Nobel Peace Prize to María Corina Machado is not an act against anyone. It is a reminder that peace cannot be owned by any faction. It does not negate the suffering of Palestine or Ukraine. It affirms that freedom and dignity are borderless. If the world truly wishes to speak of peace, it must begin by restoring to people like Machado the right to speak, to believe, and to represent their own voices. The extremism of those who exclude others in the name of justice is what most profoundly violates the very meaning of peace.

— tino

* Link to Michelle Ellner’s article:

https://countercurrents.org/…/when-maria-corina…/

* References: United Nations and OHCHR Reports on Venezuela

  1. UN Human Rights Council (2020)

https://www.ohchr.org/…/HRCouncil/FFMV/A_HRC_45_33_AUV.pdf

  1. UN Human Rights Council (2022)

https://undocs.org/a/hrc/51/43

https://www.ecoi.net/en/document/2079457.html

  1. UN Human Rights Council (2023)

https://www.ohchr.org/…/session54/a-hrc-54-57-en.pdf

  1. UN Human Rights Council (2024)

https://www.ohchr.org/…/advance…/a-hrc-57-57-en.pdf

https://www.ohchr.org/…/advance…/a-hrc-57-crp-5-en.pdf

  1. OHCHR (Press Release, 18 March 2025)

https://www.ohchr.org/…/venezuela-harsh-repression-and…

This entry was posted in Vấn đề hôm nay and tagged . Bookmark the permalink.