chàng gửi [chúng ta đang trôi đi đâu?!] ngay lúc đang nằm viện (chờ mổ mắt), sợ hậu phẫu cả tuần nên liều xé bao thư luôn. 3 lớp áo bao bọc cầu kỳ đủ hiểu Chát quý chữ nghĩa đến mức nào.
ngay trang đầu là [để bắt đầu một bài thơ],
“như cách chúng ta khởi động giấc ngủ / điều gì đã thực sự tồn tại / ngoài kinh nghiệm của lãng quên / nơi chúng ta từng hiện diện / để bắt đầu một bài thơ“
bắt đầu một bài thơ ngay nơi hiện hữu của chúng ta, sartre từng ghét chữ này mà thành hiện sinh, cái hiện sinh “biết rồi khổ lắm nói mãi” khi cứ nghe người ta hiện hữu / existence mà không để làm gì, những kiếp người vô ích còn hơn mối mọt.
bắt đầu một bài thơ, xong rồi nhà thơ không hát một mình, cũng như em, chàng
“không biết có đêm dài quá vậy / chẳng còn nhiều người thức đợi ngày mai / ai đó thi thoảng thắp lên ngọn đèn / chúng ta bay đến lúc hết hơi“
hết hơi rồi thở, còn thơ là còn thở, “quê hương hay ký ức gì cả / cũng chưa bao giờ là gì đó” mà chàng cũng chẳng còn làm chi với thế giới này. “chúng ta trôi đi đâu?!”
trồi lên mặt nước thở rồi trôi, gặp
“bài thơ của một người yêu nước mình / bên tập thơ của một người yêu nước khác.” đến đây sợ thật, chàng kiêu quá, không biết Trần Vàng Sao và chàng, ai thơ hay hơn ai, ai yêu nước hơn ai? “họ cùng nhau ngồi yên / chuyển lặng im = im lặng / để nhìn về thiên đường mất mát“
chơi với Bùi Chát, tôi thường nghĩ chàng như hiệp sĩ, mỗi lần xuất hiện là mỗi lần rút kiếm, làm bạn bè hết hồn. từ thành lập / làm nhà xuất bản, làm thơ đột nhiên qua vẽ, rồi quay lại thơ, những lần rút kiếm làm [giấy vụn] không còn / không phải là vàng mã mà là những giá trị. tự thân, ngôn ngữ không thực, nhưng mà cũng không giả, đơn giản vì tự nó sẽ có giá trị, hoặc không. những lề luật của văn chương trước chàng cần có sự ăn ý giữa nó với cuộc đời, để người ta còn có cớ mà bình tán mà ngợi ca, rủa xả hay ngả mũ, nhưng đến Bùi Chát rối tung hết cả. hiện thực nào cũng bỏ vì Chát không bao giờ chịu khép mình vào khuôn phép của những hệ thống niêm luật hay ký hiệu hay nghĩa từ điển nào. tác giả [nhà thơ] sẽ tự tạo ra tất cả và đem đến cho “văn chương” một cái nghĩa, rất ư là khác nhưng cũng rất ư là mạnh. nhà phê bình chẳng cần phải khen chê chi nữa ngoài việc tuyên bố là có [hay không có] thơ / nhà thơ đã xuất hiện ở đây. mà [bằng chứng] của thơ thì có gì nhiều, có khi chỉ là số lượng chữ [sara từng ngồi đếm thử mỗi bài thơ có bao nhiêu chữ, để so sánh chúng với nhau, vì cao thấp gì rồi cũng cần bằng chứng.]
số lượng ngôn ngữ mà nó [bài thơ] mang lại, có đủ để cho nó trở thành phổ biến phổ thông phổ cập ra công chúng chưa? nó cũng chẳng cần phải quá giấu kín, quá thâm sâu, quá bí ẩn [đến mức mãi sau này hậu thế mới khám phá, mới bất tri tam bách thì cũng sốt ruột]. “bằng chứng” của thơ bây giờ đang là những cung bậc của sự thật, số lượng của sự thật, nhiều khi dập mật, còn những bài thơ cứ ưỡn ẹo để chờ nhà phê bình chạm đến mới chịu [bật ra] thì đó không phải là thơ Bùi Chát [hay Lý Đợi, hay Khúc Duy, hay Nguyễn Quán, những “đồng đội” thơ khét tiếng của chàng. có thể kể thêm Phan Bá Thọ cho đại tá thơ thêm chút bùi ngùi.]
sự bật ra, tự bật ra chứ không chờ ai mời, trọn vẹn hiện hữu cả cơ thể của nó, tự nó có nghĩa. và bạn đọc, chứ không cần chờ thêm ai đến khám phá nữa, đó là thơ và cũng là tuyên ngôn thơ [chúng tôi không làm thơ] một thời của Mở Miệng.
không chờ ai “khám phá”, không cần ai “che chở”, thơ Bùi Chát [và của các thành viên nhóm mở miệng] đã tự viên mãn bằng chính ngôn ngữ chịu chơi / chơi chịu của nó, làm các ông / bà đỡ khệnh khạng của thơ cũng lo vì sợ thất nghiệp. hay là chúng ta tinh giản luôn các ông bà đỡ của thơ vào với thơ, khi đó các ông bà đỡ của thơ và thơ sẽ hiện hình, cho nó ra ngô ra khoai luôn một lần, cho vui?