Thủ phạm của “nền văn học loạn giá trị”

Đinh Thanh Huyền

PHÊ BÌNH VĂN HỌC

Viết về “lịch sử phê bình” ở Việt Nam, có nhiều tác giả như Trần Đình Sử, Nguyễn Hưng Quốc, Inrasara, Trịnh Bá Đĩnh, Lã Nguyên, Đỗ Lai Thúy,… đã công bố các chuyên luận sắc sảo, với những ý kiến xác đáng giúp làm rõ thực trạng, những tệ lậu hay triển vọng của phê bình. Trong bài viết này, tôi tiếp tục nêu ra những nhận xét cụ thể, dựa trên thực trạng phê bình văn học hiện thời.

Hiện nay, người ta dễ dàng gặp hàng loạt bài “phê bình” đi kèm mỗi lần một cuốn sách ra mắt, một giải thưởng được trao, hay một “hiện tượng văn học” vừa bùng lên trên mạng xã hội. Nhưng đọc xong, độc giả thường chỉ nhớ được một điều: tác phẩm ấy rất hay mà… không rõ hay ở đâu. Bây giờ không hiếm kiểu nhà thơ bỗng “đá” sang “sân” phê bình, làm phê bình như một công việc kiêm nhiệm. Hầu hết các bài phê bình kiểu này mang hơi hướng PR tinh tế: lấp lánh những mĩ từ, tròn trịa như bài phát biểu tốt nghiệp lớp sáng tác. Đọc xong không biết tác phẩm hay thật hay chỉ là do người viết… quý mến tác giả quá!

Điều đáng lo không phải là sự tồn tại của phê bình cảm tính, mà là sự thiếu vắng đội ngũ phê bình chuyên sâu, được đào tạo bài bản. Nhiều cây bút viết phê bình không có nền tảng lí luận vững chắc, không cập nhật được các phương pháp phân tích mới của thế giới. Dường như với nhiều người, đọc tác phẩm và thấy “có cảm xúc” là đủ để cầm bút. Còn lí thuyết? “Không quan trọng!”.

Trong khi đó, các trường đại học dù vẫn đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ ngành văn học, nhưng số người “sống” với phê bình rất hiếm. Những người ở lại các cơ sở nghiên cứu thì lại rơi vào một không gian hàn lâm biệt lập, ít khi bước ra để đối thoại với công chúng rộng rãi. Kết quả, phê bình hàn lâm thì ít người đọc, còn phê bình đại chúng thì thiếu chiều sâu.

Vì không có “nghề phê bình” đúng nghĩa, nên cũng không có cơ chế nào để nuôi dưỡng đội ngũ này: không có giải thưởng độc lập, không có diễn đàn uy tín đủ mạnh, và tất nhiên là không có nhiều tiền. Tất nhiên, đây không phải là lí do để bào chữa cho sự thất bại (trên diện rộng) của phê bình văn học nhưng cần nhìn nhận nó như một tác động quan trọng. Vậy nên người viết, thay vì lao vào con đường đọc nhiều – viết khó – tranh cãi dễ mất lòng, thì chọn… viết review nhẹ nhàng trên Facebook cho nhanh. Thế là cây gậy chuyên môn – thứ “khí giới” mạnh nhất của phê bình – bị đánh rơi giữa đường. Và trong lúc chưa ai nhặt lại, công chúng vẫn cứ bơi giữa một biển tác phẩm, mà không biết đâu là ngọc, đâu là đá nhuộm màu.

Thật ra, đã có thời, phê bình là một nghề danh giá. Những cái tên như Trương Tửu, Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Đăng Mạnh… từng làm nên diện mạo một nền phê bình “có học, có hệ” – khi người ta coi văn học là trận địa tư tưởng, và phê bình là… chính ủy chiến tuyến. Tuy nhiên, cũng chính vì xuất phát điểm như thế, nền phê bình Việt Nam mang theo một “căn bệnh bẩm sinh”: gắn quá chặt với nhiệm vụ chính trị – xã hội, nhiều lúc đánh mất vai trò độc lập, trung lập và phản biện học thuật. Phê bình là công cụ để định hướng nhận thức, nhà phê bình đọc tác phẩm để quy chiếu vào lập trường cách mạng. Trong bối cảnh ấy, ưu tiên hàng đầu không phải là sự chuyên sâu về lí thuyết mà là lập trường tư tưởng vững vàng, không lạc đường chính trị.

Bước vào giai đoạn đổi mới (1986 trở đi), đời sống văn học dần mở rộng cửa nhưng đáng tiếc, việc cập nhật các lí thuyết phê bình mới chủ yếu nằm trong các giáo trình đại học hoặc tạp chí chuyên ngành, ít lan tỏa ra đời sống văn học. Trong khi đó, thị trường lại chuyển hướng nhanh hơn giới học thuật: độc giả bắt đầu quan tâm đến “sách hot”, “hiện tượng văn học”, “bestseller”… và thế là phê bình co giò… chạy theo. Kể từ đó, nhà phê bình dần rơi vào thế kẹt, bước tiếp con đường chuyên môn sâu thì ít người đọc, làm “phê bình truyền thông” thì dễ mất chất.

Có thể nói, phê bình văn học Việt Nam đang bước vào thời đại của tốc độ. Mỗi tác phẩm vừa mới ra mắt chưa ráo mực, chưa kịp ấm chỗ trên kệ sách thì đã có một lô bài phê bình “kịp thời” được đăng trên báo với văn phong hoa mĩ, và – như một loại luật bất thành văn – tràn đầy lời khen có cánh. Điều này không hẳn là tệ. Trong một nền văn học còn thiếu kênh truyền thông chuyên biệt, việc phê bình báo chí phản ứng nhanh, giới thiệu kịp thời các tác phẩm mới là điều cần thiết. Tuy nhiên, điều đáng nói là, phê bình báo chí đang chiếm luôn sân khấu trung tâm, khiến các thể loại phê bình học thuật – lí luận ngày càng teo tóp và lùi dần về phía sau hậu trường.

Rất nhiều bài viết mà người ta gọi là “phê bình” ngày nay thực chất là các bản giới thiệu hoặc cảm nhận văn chương, viết như một lời góp vui, một cái bắt tay thân thiện với tác giả. Nội dung quen thuộc: tóm tắt cốt truyện, tóm tắt nội dung, điểm qua vài chi tiết “ấn tượng”, rồi kết lại bằng một loạt mĩ từ như “giọng văn tinh tế”, “đậm chất nhân văn”, “một tiếng nói riêng biệt trong văn học đương đại”… Những bài như thế đọc lên thì dễ chịu, nhưng nghĩ kĩ lại, chẳng đọng được gì. Phân tích văn bản hời hợt, không có đối chiếu lí thuyết, không mổ xẻ về cấu trúc, kĩ thuật, tư tưởng. Tác phẩm văn học bị biến thành fast food, đọc vội, tiêu hóa vội, và khen vội.

Vì sao lại vậy? Một phần nguyên nhân đến từ cơ chế viết báo, phải nhanh, phải dễ hiểu, phải “thân thiện với người đọc”. Nhưng một phần khác – lớn hơn – là vì giới viết phê bình báo chí không muốn (hoặc không dám) va chạm.

Người trong làng văn nghệ vốn quen biết nhau, lúc này lúc khác từng chạm chén, vỗ tai, chụp chung kiểu ảnh, viết phản biện chẳng khác gì “gây chiến”. Mà ai lại muốn mất lòng bạn văn, mất chỗ dự hội thảo, lỡ suất chấm giải hay chỉ đơn giản là mất đi một vài “like” trong cộng đồng nhỏ bé ấy?

Vậy nên, người ta chọn giải pháp an toàn: nếu không thể khen thì tốt nhất… đừng viết. Dần dà, không khí phê bình trở nên “dịu dàng” một cách… nguy hiểm. Những vấn đề nghiêm trọng như lối viết hời hợt, tư tưởng cũ kĩ, sao chép văn phong, nhại giọng tác giả nổi tiếng… hầu như không ai đụng đến. Nếu có ai đó lỡ “chê thật lòng” thì hoặc bị cho là “ác ý”, “hằn học” hoặc bị phản đòn là “không có tác phẩm mà đi chê người khác”. Nếu nhà phê bình là nữ thì dễ bị tấn công bằng những quy kết về tính dục, tình ái một cách độc địa.

Thế là một cơ chế tự kiểm duyệt ngầm hình thành, ai viết phê bình thì phải “biết điều”, ai làm văn học thì cứ yên tâm, thơ văn dở cũng có thể được tung hô, miễn là có đội ngũ bạn bè hùng hậu, có “quan hệ” và biết tạo “điểm nhấn truyền thông”. Trong bối cảnh đó, nhiều khi, người viết phê bình chỉ còn làm một việc: nịnh bợ, tâng bốc, né tránh xung đột chuyên môn, vuốt ve tác giả một cách dễ dãi.

Một nền văn học lành mạnh cần có phản biện. Khi tác phẩm không được soi dưới nhiều lăng kính khác nhau, khi những câu hỏi quan trọng về giá trị nghệ thuật bị né tránh, thì văn học sẽ trôi theo “chiều gió”, dễ hài lòng với chính mình. Nhà văn không bị thử thách, người đọc không được tư vấn, còn phê bình thì trở thành “kẻ phản bội”.

Thử nhìn lại các nền văn học lớn: nhà phê bình ở đó không ngần ngại chất vấn tác giả, tranh luận về phương pháp, bóc tách cấu trúc tác phẩm. Những cuộc “đụng độ học thuật” có thể nảy lửa, nhưng chính chúng mới làm cho văn học phát triển – như một cơ thể được rèn luyện bằng đối kháng. Phê bình ở đây không phải là “phụ lục” của văn học mà là một “mặt trận” song song, nơi các nhà phê bình có khi còn nổi tiếng hơn cả nhà văn. Phê bình có thể mở ra cả một dòng đối thoại học thuật, tạo nên sự bùng nổ từ văn học sang triết học, rồi sang cả chính trị. Ở đó, nhà phê bình không phải bạn vỗ vai, mà là người kiểm tra chất lượng nghệ thuật. Văn học vì thế mà không thể xuề xòa, viết dở sẽ bị nói dở. Và bị nói dở, thì tác giả hoặc là sửa, hoặc là… giải nghệ nhưng không ai kiện, không ai giận. Xung quanh các tác phẩm văn học luôn có tranh luận, phản hồi. Cứ thế, các cuộc phản biện chất lượng cao liên tục ra đời, trở thành “sân chơi” cho cả  giới học thuật theo dõi.

Để phê bình thực sự có giá trị, chúng ta cần nhiều hơn những lời tán thưởng. Cần sự trung thực, góc nhìn độc lập, và sự dũng cảm phản biện, cho dù là trên báo chí, trang  cá nhân hay diễn đàn chuyên ngành.

Muốn làm được điều đó, cần đầu tư trở lại vào đào tạo lí luận phê bình, tạo môi trường học thuật mở, và quan trọng nhất: cần một cộng đồng văn chương biết chấp nhận lời chê, coi phản biện là một phần tất yếu của phát triển chứ không phải là “đòn chơi xấu”. Nếu không, nền phê bình sẽ mãi dừng ở mức “viết cảm nhận thân thiện”, còn văn học thì tiếp tục “trôi” trong biển lời khen mà không biết là đang chìm dần.

Phê bình không phải là “bạn thân khen khéo” của nhà văn. Phê bình là đối thủ nghiêm túc, luôn chất vấn, soi xét, phản biện, thậm chí là công kích. Nhưng chính nhờ thế, văn học mới giữ được nhịp sống khỏe mạnh, như một vận động viên cần những buổi tập cường độ cao để giữ phong độ. Phê bình phải tạo ra đối thoại thẩm mĩ giữa nhà văn và độc giả, phải giữ vai trò lương tâm của đời sống văn học, bảo vệ sự trung thực và giá trị của văn học. Nếu phê bình từ bỏ vai trò ấy, văn học dễ trở thành sân chơi hỗn tạp, loạn giá trị, điều đang diễn ra trong đời sống văn học Việt Nam hôm nay.

HỘI NHÀ VĂN VÀ VIỆN VĂN HỌC

Nếu ta đào sâu đến tận gốc sự khủng hoảng giá trị của nền văn học Việt Nam hiện tại, không thể không phân tích sự tha hóa của quyền lực chuyên môn khi những cơ quan được lập ra để bảo trợ giá trị lại dần trở thành bộ máy góp phần làm loạn giá trị. Đó là Hội nhà văn và Viện Văn học.

Hội Nhà văn và Viện Văn học từng nắm giữ quyền lực biểu tượng rất lớn vì họ vừa dại diện cho giới sáng tác, nghiên cứu, vừa là kênh chính thức truyền đạt định hướng của Nhà nước và nắm độc quyền các thiết chế phê duyệt, in ấn, giải thưởng, nghiên cứu, phê bình. Nói cách khác, họ đồng thời là người chơi và trọng tài trong sân chơi văn học. Uy tín ban đầu của Hội và Viện xuất phát từ tính chính danh chính trị (được Nhà nước bảo trợ, hợp pháp và có vị thế “lãnh đạo tư tưởng”) và tính chính danh học thuật (tập hợp các trí thức lớn như Nguyễn Đình Thi, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Nguyễn Huệ Chi, Vũ Ngọc Phan, Hoàng Trinh, Hà Minh Đức, Phong Lê, Trương Đăng Dung, Đào Tuấn Ảnh, Mai Hương,… có những người vừa là nhà văn vừa là biểu tượng văn học dân tộc, có những nhà nghiên cứu có đóng góp học thuật quan trọng). Lúc này, quyền lực chính trị và uy tín cá nhân hòa làm một, thiết chế  có tính chính thống cao, được xem là “ngôi đền văn học”.

Từ cuối thập niên 1980 đến nay, Hội và Viện chìm dần vào quá trình xói mòn uy tín. Thế hệ sáng lập ra đi, trong khi thế hệ kế cận không có nền tảng uy tín cá nhân tương đương. Tổ chức chỉ còn vỏ chức năng hành chính. Các Hội đồng, Ban chấp hành, Viện trưởng, Tổng biên tập… dần được chọn theo quy trình hành chính, cơ cấu vùng miền, độ tuổi, hơn là năng lực nghề nghiệp hay thành tựu học thuật. Trong thiết chế đó, người nắm quyền không nhất thiết là nhà văn có tác phẩm lớn hoặc người nghiên cứu có đóng góp học thuật đáng kể. Quyền uy của tổ chức chuyển từ quyền lực tri thức sang quyền lực chức vụ. Và điều nguy hại nhất đã xuất hiện: cơ chế về trách nhiệm giải trình hoặc cơ chế đánh giá đồng đẳng không được thực hiện đầy đủ. Các quyết định về giải thưởng, in ấn, đề tài nghiên cứu diễn ra trong nội bộ khép kín. Công chúng hoặc giới làm nghề không được tham gia, mọi quyết định đều bị nghi ngờ là “đã sắp xếp sẵn”. Khi cơ chế thị trường mạnh lên, có những sự kiện của Hội/Viện được tổ chức bằng nguồn tiền ngoài ngân sách, cái được gọi bằng cụm từ mĩ miều “xã hội hóa”. Lúc này, những cá nhân có tiền, có địa vị xã hội nhưng muốn có có thêm thứ trang sức đẹp đẽ là danh xưng nhà văn sẽ có điều kiện “mua” lấy danh xưng đó một cách dễ dàng. Điều này dẫn đến niềm tin sụp đổ, kể cả những quyết định đúng cũng bị nghi ngờ.

Câu hỏi quan trọng đặt ra là: vì sao một thiết chế đã mất tín nhiệm xã hội vẫn vận hành đều đặn, vẫn tổ chức đại hội, vẫn trao giải hàng năm? Câu trả lời nằm ở cơ chế “tự duy trì quyền lực”, một chu trình khép kín của hành chính – lợi ích. Hội và Viện là đơn vị hành chính trong hệ thống quản lí nhà nước, có ngân sách, biên chế, quỹ hỗ trợ, nhà công vụ, danh hiệu, giải thưởng nên dù mất uy tín chuyên môn nhưng còn sức mạnh hệ thống. Tiếp đó, cơ chế lợi ích chéo mạnh lên, giải thưởng, chức vụ, đề tài nghiên cứu, các chuyến công tác, danh hiệu gắn liền với quyền lợi vật chất hoặc biểu tượng dẫn đến việc nhiều người trong giới sáng tác “không muốn va chạm” vì vẫn cần Hội/Viện để đạt lợi ích cá nhân. Sự thỏa hiệp này khiến hệ thống tồn tại nhưng càng ngày càng trì trệ. Bên cạnh đó, Hội, Viện vẫn còn vai trò “gác cổng thể chế”: muốn in sách, xin kinh phí, xuất bản, tham dự hội nghị quốc tế,… vẫn cần xác nhận từ Hội/Viện. Vì vậy, Hội/Viện vẫn có quyền lực mà không cần được yêu mến, tin cậy, tôn trọng (thứ cảm xúc không cần thiết cho quyền lực).

Hệ quả từ đó là sự khủng hoảng niềm tin kép lớn dần. Khi Hội và Viện đánh mất uy tín chuyên môn, toàn bộ hệ giá trị văn học chính thống sụp đổ. Với nhiều nhà văn, việc được giải không còn là vinh dự nghề nghiệp. Độc giả không tin vào giải thưởng hay bình chọn chính thống mà họ tìm tiêu chí riêng, khiến giá trị phân giải. Viện Văn học không còn được xem là nơi khai phá lí luận mới, mà chỉ “tổng kết văn học” kiểu hành chính. Về phía truyền thông, các giải thưởng độc lập, diễn đàn mạng, hay cộng đồng đọc trẻ dần thay thế chức năng định danh giá trị. Từ đó, trật tự giá trị bị đảo lộn hoàn toàn.

Có thể thấy sự mất uy tín của Hội và Viện không phải chỉ là vấn đề cá nhân hay nhiệm kì, mà là khủng hoảng cấu trúc của thiết chế văn học.

This entry was posted in Vấn đề hôm nay and tagged . Bookmark the permalink.