Bổ sung và đính chính vài chi tiết về tiểu sử Nguyễn Huy Lượng

Đoàn Xuân Kiên

Nguyễn Huy Lượng 阮輝諒 (1749-1807) là tác giả của bài phú Tây Hồ tụng, làm ra trong dịp tế đàn ở Thăng Long, mùa hạ 1801. Tương truyền lúc bài phú mới lưu hành, người người đua nhau sao chép, khiến giá giấy tăng vọt… Bài “phú ông Lượng” – như được gọi thân mật như vậy một thời – đã gắn tên tuổi ông với Tây Hồ, với Thăng Long. Hình ảnh đó vẫn gắn bó với Thăng Long, rồi Bắc Thành, rồi Hà Nội về sau này. Ngày nay, ông nghiễm nhiên là một “danh sĩ” đất Thăng Long, như nhiều sách vở về đất và người Thăng Long từng ghi nhận. Điển hình là những ghi chép của Nguyễn Vinh Phúc trong bài Nguyễn Huy Lượng in trong sách Hà Nội: Cõi đất – con người (nxb Thế Giới, Hà Nội, 2005, tr. 295-317). Sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản năm 2009, trong đó bài viết về Nguyễn Huy Lượng vẫn không thêm gì mới, ngoài những điều soạn giả đã viết từ trước. Cũng đáng ngậm ngùi là chỉ sau một trăm năm, hình ảnh Nguyễn Huy Lượng trong lòng người đời sau chỉ còn mờ ảo như một người lạ mặt.

Cho đến đầu thế kỉ này, sau hơn trăm năm tìm tòi, những gì chúng ta biết về Nguyễn Huy Lượng có thể tóm tắt trong mấy điểm sau đây: (a) năm sinh năm mất chưa rõ hoặc chỉ là phỏng đoán không rõ ràng; (b) quê quán ông là làng Phú Thị, nhưng gia đình ông lại thiên cư lâu dài, từ Thăng Long qua làng Chương Mỹ (Hà Đông); (c) ông đỗ Hương Cống đời Lê Trịnh; (d) trước ông làm chức quan nhỏ trong triều Lê Trịnh, sau làm quan triều Tây Sơn tới chức Hữu tham tri Bộ Hộ, tước Chương Lĩnh Hầu; (e) ông được triệu làm Tri phủ Xuân Trường (Trấn Sơn Nam Hạ) và chết mấy năm sau đó, có lẽ 1808; (g) Thơ văn ông hiện chỉ còn bài phú Tây Hồ, tập Cung oán thi. Có thuyết còn cho bài Trận vong tướng sĩ văn tương truyền là của Tổng trấn Nguyễn Văn Thành, là của ông. Ngoài ra những thơ văn khác còn trong nghi vấn hoặc chưa tìm thấy đích xác văn bản còn lưu lại… Những thông tin như trên chưa phải là nhiều và xác đáng dành cho một “danh sĩ” như ông. Đã thế, có thể nói, cho đến tận bây giờ, 2025, sách nghiên cứu và sách giáo khoa, các bài viết đăng báo… vẫn nhắc đi nhắc lại những thông tin mơ hồ, hoặc sai lạc về Nguyễn Huy Lượng.

Lúc sinh tiền, Nguyễn Huy Lượng được xem là một khuôn mặt văn học khá nổi tiếng, được giới nho sĩ văn gia xem như một đại biểu của “phái” Phú Thị – là một khuynh hướng văn chương trong số mười hai “phái” của thời Lê Mạt (nửa sau thế kỉ XVIII). Có lẽ Lê Dư là người đầu tiên ghi nhận chỗ đứng của nhà nho văn gia này khi đăng tải bài báo trên Nam Phong[1]. Trong bài báo này Lê Dư ghi nhận mười hai khuynh hướng văn học đương thời Lê Mạt như sau:

– Phái Liễu Ngạn là phái Nguyễn Gia Thiều

– Phái Mộ Trạch là phái Vũ Duy Đoán

–  Phái Tiên Điền là phái Nguyễn Du

–  Phái Thụy Khuê là phái Phan Huy Ích

–  Phái Cổ Đô là phái Nguyễn Bá Lân

–  Phái Thanh Nê là phái Trương Đăng Quỹ

–  Phái Lai Thạch là phái Nguyễn Huy Tự

–  Phái Phú Thị là phái Nguyễn Huy Lượng

–  Phái Cổ Liêu là phái Phạm Công Trứ

–  Phái Cổ Am là phái Nguyễn Bỉnh Khiêm

–  Phái chúa Nguyễn

–  Phái chúa Trịnh.

Sự chia nhóm, phái như thế chưa phải là thỏa đáng vì chỉ dựa trên địa bàn khu vực lớn nhỏ không đều nhau, qua những thời đoạn khác nhau. Vả chăng, khi nói đến “phái”, người xưa chỉ đơn giản xem một số nhà văn có cùng khuynh hướng làm văn, hay đơn giản hơn, một nhóm nhà văn đồng hương, thậm chí chỉ trong một dòng họ mà thôi. Tuy vậy, có thể thấy là tác giả bài báo, được tiếng là đọc nhiều sách vở Hán Nôm xưa, nên có lẽ cũng theo bước các nhà nho xưa mà ghi nhận Nguyễn Huy Lượng có một chỗ đứng nhất định trong khung cảnh sinh hoạt văn học giai đoạn Lê Mạt (nửa sau thế kỉ XVIII). Hẳn là những ghi nhận như trên phải xuất phát từ thực tế đầy biến động của lịch sử, và nhiều nhân vật đã một thời sôi nổi trong cơn lốc xoáy của lịch sử đã không còn được nhận diện rõ ràng về sau này. Điều đáng ngạc nhiên đối với hậu thế là chỉ hơn trăm năm sau khi Nguyễn Huy Lượng qua đời, sách vở viết về ông thật mơ hồ, như thể ông là một người xa lạ của sinh hoạt văn học giai đoạn Lê Mạt (nửa sau thế kỉ XVIII).

Hành trình dài tìm lại chân dung “danh sĩ” Nguyễn Huy Lượng

Lần theo kho sách cũ còn lưu lại trong thư viện Viễn Đông Bác Cổ Hà Nội, từ những năm đầu thế kỉ XX đã có một số văn bản sao chép thơ văn nôm xưa. Chẳng hạn, Trận vong tướng sĩ văn (AB. 297, 383) ghi rằng: “Gia Long nguyên niên, của ông Vũ Lượng (!) làm, ông Nguyễn Văn Thành chủ tế”, bài phú Tây Hồ tụng được chép trong Tây Hồ phú (AB. 299) và Phong cảnh biệt chí (AB.377), tập Cung oán thi ghi là của Bạch Liên Am Nguyễn, được chép trong tập văn nôm có mã số AB 549, và chép rải rác trong Quốc âm thi ca tạp lục (AB. 296)… Kho văn nôm cũ kia chỉ được phiên chuyển sang chữ quốc ngữ khá muộn, khởi đầu từ tạp chí Nam Phong. Năm 1924, tạp chí Nam Phong số 85 (thàng 7, 1924) cho đăng lần đầu bài Phú Tây Hồ nhưng thiếu hẳn một đoạn dài. Vài năm sau, một vị độc giả gửi về bài phú chép đầy đủ, nhưng nhà bỉnh bút Nam Phong chỉ có thể giới thiệu sơ sài trong một lời chú ngắn ngủi về tác giả bài Tụng Tây Hồ: “… Truyền rằng bài này của ông Trương lĩnh hầu Hữu hộ Lượng làm ra từ đời Lê mạt.”[2]

Mười lăm năm sau, Dương Quảng Hàm (1942) cũng không cho độc giả biết thêm gì về nhà văn này, ngoài vỏn vẹn hai dòng tiểu sử: “Nguyễn Huy Lượng: trước làm quan với nhà Lê, sau làm quan với Tây sơn, được phong tước Chương Lĩnh Hầu.”[3] trong khi đó soạn giả đã ghi khá chi tiết tiểu sử Phạm Thái, trong 13 dòng chú thích ở cùng trang (tr. 319). Cũng năm này, Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố (1942), trong bài Tài liệu để đính chính tài liệu văn cổ, cho biết thêm một chi tiết liên quan đến tiểu sử Nguyễn Huy Lượng: năm 1801, ông làm Phụng Nghị Bộ Lễ, và soạn bài Phú Tây Hồ.[4] Được tiếng là vị học giả cẩn trọng, cụ Tố cũng bị nhầm lẫn chức vụ của ông Hữu tham tri Bộ Hộ đời Tây Sơn với chức quan nhỏ ở Bộ Lễ thời Lê-Trịnh.

Tám năm sau đó, Hoàng Thúc Trâm cũng không cho biết thêm gì về tiểu sử Nguyễn Huy Lượng, ngoài những thông tin dẫn lại từ Dương Quảng Hàm trước kia:Nguyễn Huy Lượng: tức Hữu hộ Lượng, trước làm quan với triều Lê, sau theo Tây Sơn, được phong tước Chương Lĩnh Hầu.”[5]. Tuy vậy, đáng lưu ý là chính Hoa Bằng cũng đã cho ta biết từ năm 1950, rằng Nguyễn Huy Lượng còn là tác giả Cung oán thi để tả cái hận “dê ngấy lá dâu” ở nơi cung cấm. Không thấy soạn giả dẫn nguồn tài liệu nào cho điều khẳng định này.[6]

Trong sách Chinh phụ ngâm bị khảo (1953), Hoàng Xuân Hãn cho chúng ta nhiều thông tin mới về Nguyễn Huy Lượng khi ông sao lục được một bản phỏng dịch Chinh phụ ngâm không đề tác giả, chỉ biết là của “… một người họ Nguyễn, hiệu là Bạch Liên Am, quán làng Trung Nghĩa, huyện Gia Lâm, xứ Kinh Bắc (tỉnh Bắc Ninh ngày nay). Tác giả sống vào khoảng cuối Lê, đầu Nguyễn, và có để lại một tập thơ đề là Cung oán thi, hình như cũng phỏng theo văn cũ.”[7]

Không lâu sau đó, Phạm Văn Diêu cũng cho ta thêm nhiều thông tin về Nguyễn Huy Lượng trong tác phẩm Văn học Việt Nam (nxb Tân Việt, 1960): “Nguyễn Huy Lượng: tức Hữu hộ Lượng,trước làm quan với triều Lê, sau ra thờ nhà Tây Sơn, được phong tước Chương Lĩnh Hầu. Nguyễn Huy Lượng là tác giả  các tác phẩm nôm như sau: Bình tây khúc, Cung oán thi, Hồi loan khúc, Ngự đạo hành cung nhật trình, Tây Hồ tụng”. (Chú thích 1: Theo Hoàng Xuân Hãn thì Nguyễn Huy Lượng còn là tác giả bài Văn tế trận vong tướng sĩ danh tiếng xưa nay vẫn truyền tụng là của Tiền quân Nguyễn Văn Thành. (Lê Thành Khôi, Le Vietnam. Histoire et Civilisation. Tome I: Le milieu et l’Histoire.Edition de Minuit, Paris, 1955, tr. 348, cước chú số 42 bis).[8]

Cũng thời gian này, tại Hà Nội, nhóm Trần Văn Giáp & Nguyễn Tường Phượng trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I (nxb Sử ọc, 1962) do Trần Văn Giáp chủ biên, sau khi nhắc lại quê quán của Nguyễn Huy Lượng là “làng Phú Thị, huyện Gia Lâm” lần đầu tiên cho ta biết thêm một chi tiết: “… sau di cư sang làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây”, và cũng ghi Cung oán thi là tác phẩm của Nguyễn Huy Lượng.[9]

Như thế là cho đến 1962, chúng ta chỉ được biết rất sơ sài về hành trạng và văn nghiệp của Nguyễn Huy Lượng. Ngoài Phạm Văn Diêu liệt kê một bảng dài các thơ văn của Nguyễn Huy Lượng, các nhà nghiên cứu Hoàng Thúc Trâm, Hoàng Xuân Hãn và Trần Văn Giáp đều nhắc đến tập Cung oán thi như một tác phẩm của ông dưới bút danh là Bạch Liên Am Nguyễn hay Nguyễn Huy Lượng.

Từ đó về sau, cho đến những năm gần đây, các tác giả biên soạn sách vở về Nguyễn Huy Lượng như Nguyễn Hữu Sơn[10] và Bùi Hạnh Cẩn[11] cũng không cung cấp thêm gì nhiều về hành trạng và văn nghiệp Nguyễn Huy Lượng, ngoài những thông tin ít ỏi đã có từ trước.

Trong số những soạn giả sách giáo khoa có viết nhiều về Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Lộc đã biên soạn tài liệu giảng dạy văn học sử trong nhà trường đại học, và đã thực hiện sách Văn học Tây Sơn (1986). Nếu trong Văn học Tây Sơn, Nguyễn Lộc chỉ lặp lại theo những tài liệu trước kia, cho là “không rõ năm sinh năm mất”[12] thì trong Từ điển văn học (bộ mới) (nxb Thế Giới, 2004), khi viết mục “Nguyễn Huy Lượng”, ông đã ghi theo những phỏng đoán của một số nhà nghiên cứu trước đây, rằng “Nguyễn Huy Lượng (?-1808)… chưa rõ năm sinh…), cho công chúng một bản tiểu sử có nhiều chi tiết đúng như trước nay vẫn biết, nhưng cũng nhiều thông tin không xác thực. Chúng ta biết được gì từ bản tiểu sử này? Mở đầu bản tiểu sử, Nguyễn Lộc cho biết: “Chưa rõ năm sinh”. Về quê quán thì tác giả cho ta biết: “Nguyên quán làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, nay thuộc ngoại thành Hà Nội, sau dời sang làng Lương Xá, huyện Chương Mỹ, nay thuộc tỉnh Hà Tây”, (mà nhóm biên soạn Lược truyện (1962) đã cho biết. Nguyễn Lộc cũng cho biết thêm: “Các đời trước từng có người đậu Tiến sĩ, làm quan. Nhưng ông thân sinh Nguyễn Huy Lượng thì không đỗ đạt gì, ở nhà chuyên làm ruộng.” (tr. 1148). Nguyễn Huy Lượng thi đậu Hương cống, tức cử nhân. Dưới thời Lê Trịnh, ông được bổ làm Phụng nghi, một chức quan nhỏ ở Bộ Lễ. Sau khi vua Quang Trung  (1753-1792) ra Bắc đại phá quân Thanh, ông ra cộng tác với nhà Tây Sơn, giữ chức Hữu thị lang Bộ Hộ (nên mới gọi là Hữu hộ Lượng). Năm 1802,  triều Tây Sơn sụp đổ, triều Nguyễn lên thay, Nguyễn Huy Lượng bị bắt trong khi quân Tây Sơn rút khỏi Bắc Thành chạy lên phía Bắc. Nguyễn Huy Lượng buộc phải nhận chức Tri phủ Xuân Trường của nhà Nguyễn.” (tr. 1148). Về chung cục của Nguyễn Huy Lượng, soạn giả cho biết: “Theo tác giả Minh đô sử, hình như ông bị giết chết trong một trường hợp nào đó năm 1808.” (tr. 1148). Về văn nghiệp của Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Lộc chỉ nhắc lại một số những thông tin đã được người trước công bố. Ông chỉ cho biết thêm rằng: “Bài Lượng như long phú (phú Lượng như rồng) của ông cũng viết trong thời gian này. Ngoài ra ông còn là tác giả của tập Cung oán thi  (thơ về nỗi oán hận của người cung nữ, có tài liệu nói đây là tác phẩm của Vũ Trinh, hoặc Nguyễn Hữu Chỉnh) (tr. 1148). Cũng trong bản tiểu sử này, Nguyễn Lộc cho biết thêm là “Tất cả sáng tác của Nguyễn Huy Lượng đều viết bằng chữ Nôm. Cung oán thi là tập thơ gồm 100 bài thất ngôn bát cú (AB 549) gần đây mới được Bùi Hạnh Cẩn xác định chắc chắn là của ông… ” (tr 1149).[13]

Đoạn văn trên có một số điểm cần bàn thêm: (a) ông thân sinh Nguyễn Huy Lượng không đỗ đạt gì, ở nhà chuyên làm ruộng. Điều này có lẽ không đúng. Một tài liệu cũ có nhắc tới Nguyễn Huy Bá có thái độ không ưa ông nên viết với giọng chê bai, như Hoàng Lê nhất thống chí[14], nhưng cũng cho biết là Huy Bá đương có chức phận ở trong triều, có nghĩa là không “ở nhà chuyên làm ruộng” rồi! (b) Nguyễn Huy Lượng bị buộc phải nhận chức Tri phủ Xuân Trường: không có tài liệu xác đáng nào nói thế. Thực tế Bắc Thành (Thăng Long cũ) có vẻ phức  tạp và phong phú hơn nhiều: từ nhà vua mới (Gia Long) đến các trọng thần như Nguyễn Văn Thành đã có những động thái cầu hiền như được ghi trong Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỉ. (c) Nguyễn Huy Lượng chết mờ ám năm 1808: soạn giả dẫn theo tài liệu Minh đô sử của Lê Trọng Hàm, là bộ sách viết hơn 70 năm sau khi Nguyễn Huy Lượng mất, nên có nhiều việc trong sách này chỉ là qua những nguồn tin không còn chính xác. (d) Văn chương của Nguyễn Huy Lượng chỉ toàn văn Nôm: Điều khẳng định này có lẽ còn quá sớm. Thư viện Viện Hán Nôm có một bản thơ chữ Hán có tên Hy Minh thi tập (A 2092). Mặc dù văn bản chưa được giám định để có kết luận về tính chân ngụy của nó, nhưng chúng ta có thể tin được là bút hiệu Hy Minh là một trong những bút danh của ông, như đã được xác nhận ở bài tựa một bản sách của người bạn ông, Tiến sĩ Trần Bá Lãm.[15]

Đến thời gian ấn hành Từ điển văn học (2004), bài Phú Tây Hồ của Nguyễn Huy Lượng đã được phổ biến rộng khắp và lâu năm rồi, các nhà giáo và các nhà nghiên cứu hầu như đã nghiền ngẫm rất kĩ bài văn biền ngẫu dài này qua năm này tháng nọ. Chỉ có điều là phần đông dường như không chú ý đến câu văn ở gần cuối bài mà tác giả đã bộc bạch về tuổi tác của mình: “Ngoài năm tuần thẹn bóng tang du.”, nghĩa là năm 1801, khi ông làm bài Tây Hồ tụng, tuổi ông đã ngoài 50! Nếu chú ý đúng mức thì các nhà bình giảng đã có thể ức đoán năm sinh của Nguyễn Huy Lượng là khoảng 1750 hoặc sớm hơn, căn cứ từ chính lời ông viết. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc tuy cũng có để ý đến câu văn đó, lại lấy đúng năm 1750 làm năm sinh, bỏ quên lời tác giả là ông nói đã ngoài 50! Thảng hoặc có người lại phỏng đoán sai lạc khi chọn năm 1759 (?) là năm sinh Nguyễn Huy Lượng, không biết vô tình hay dựa trên một nguồn tư liệu nào.[16]

Về năm mất cũng có tình hình tương tự, hầu hết đều ghi năm ông qua đời là 1808 dựa theo lời truyền tụng của người đời sau, như theo sách Minh đô sử  của Lê Trọng Hàm chẳng hạn.

Bổ sung một số thông tin liên quan đến tiểu sử Nguyễn Huy Lượng

Từ sau Từ điển văn học (bộ mới), học giới đã có thêm nhiều thông tin giúp bổ sung vào bản hành trạng và sự nghiệp văn học của ông.

1. Về năm sinh của Nguyễn Huy Lượng: Nay ta có một bút chứng khá chắc chắn ghi chép trong bản gia phả Nguyễn gia phả ký (Siêu Loại – Bắc Ninh), là gia phả bên ngoại, trong đó có đoạn ghi như sau về người con gái út của Siêu Quận công Nguyễn Gia Châu, tức là thân mẫu của Nguyễn Huy Lượng:

“23g. Con gái út: húy Thị Tuệ, gả cho quan Đông các Đại học sĩ Nguyễn Huy Bá người Phú Thị huyện Gia Lâm, sinh được 4 người con trai và 2 người con gái (con trai cả húy Huy Lượng, đăng Hương tuyển khoa Tân Mão, sinh được 3 người con trai và 2 người con gái: con trai cả húy Huy Hanh, con trai thứ hai húy Huy Dự, con trai thứ ba húy Huy Đỉnh, con gái húy Lệ Hoa, con gái thứ húy Diễm Hoa; con trai thứ hai húy Huy Lãng, sinh được 2 người con trai: con trai cả húy Huy Phàn, con trai thứ húy Huy Mưu; con trai thứ ba húy Huy Đễ; con trai út húy Huy Hành; con gái lớn húy Thị Nhu; con gái thứ húy Thị Miên)”.[17]

Qua mấy dòng ngắn ngủi ghi trong gia phả này, chúng ta biết cha Nguyễn Huy Lượng là quan Đông các đại học cưới con gái út của Siêu quận công Nguyễn Gia Châu là bà Nguyễn Thị Tuệ, sinh được bốn người con trai và hai người con gái. Nguyễn Huy Lượng là con trai trưởng, đỗ Hương khoa năm Tân Mão, niên hiệu Cảnh Hưng 32 (1771). Nguyễn Huy Lượng có ba người con trai và hai người con gái.

Ở một đoạn khác, gia phả cho ta biết năm sinh của Nguyễn Huy Lượng: A3′. Giáp Tam Nữ*5* A3′.a. Chi Giáp thuộc Giáp Tam Nữ: Huy Lượng (Kỉ Tị) sinh ra: Huy Hanh, Huy Dự, Huy Đỉnh, Thị Lệ Hoa, Thị Diễm Hoa…[18]. Đoạn ngắn trên cho biết một thông tin chính xác về năm sinh của Nguyễn Huy Lượng: năm Kỉ Tị (1749), và đầy đủ tên họ những người con và cháu của bà con gái út Siêu quận công Nguyễn Gia Châu, ghi hai lần trong gia phả, không có sai chạy chi tiết.

Trong khi chờ đợi đối chiếu với gia phả dòng họ Nguyễn Huy ở Phú Thị, những ghi chép trong gia phả họ Nguyễn Gia ở Siêu Loại có thể tin được là không sai chệch lắm nếu không nói là đáng tin, vì những đoạn ghi về thế hệ 23 nhà Nguyễn Gia là từ một người con của Nguyễn Gia Thiều chấp bút năm 1803, khi người cậu của ông còn tại thế.

2. Trước nay sách vở chỉ ghi chung chung là Nguyễn Huy Lượng đỗ Hương Cống trong thời Lê Trịnh. Quả thật, nếu có truy lục trong những bộ Đăng khoa lục cũ hay cả bộ Khoa cử Việt Nam: Hương cống triều Lê (nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2019), cũng không tìm thấy thông tin về Nguyễn Huy Lượng đỗ Hương Cống khoa Hương thí nào. May thay, Gia phả họ Nguyễn Gia cung cấp cho ta thông tin quý giá ấy: Nguyễn Huy Lượng “đăng Hương tuyển khoa Tân Mão (1771)”.[19]

3. Về năm mất của Nguyễn Huy Lượng: Hiện nay, chúng ta có một chứng khá rõ. Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ, quyển XXXIII có đoạn ghi như sau: “Tháng 11: Ở Sơn Nam Hạ giặc nổi, vây phủ Thiên Trường. Tri phủ Nguyễn Lượng và Cai Đội Nguyễn Văn Đại đều chết trận… Tặng Nguyễn Lượng làm Hàn Lâm Viện, Nguyễn Văn Đại làm Cai Cơ, mỗi người được một người con tập ấm.”[20]. Đối chiếu với Tây lịch thì ông mất vào Tháng 12 năm 1807, niên hiệu Gia Long thứ 6.

Tóm lại, ngày nay chúng ta đã có thể có những thông tin xác đáng về Nguyễn Huy Lượng, qua rồi thời mà các nhà nghiên cứu phải phỏng đoán mơ hồ, nhiều khi sai lạc: Nguyễn Huy Lượng sinh năm Kỉ Tị (1749), đậu Hương Cống năm Cảnh Hưng thứ 32 (1771), và qua đời vì chết trận tháng 12 năm 1807.

[1] Lê Dư, Nguồn gốc văn học nước nhà và văn học mới, Nam Phong số 190 (tháng 6, 1933), tr. 399-408.

[2] Văn cổ đời Lê, Nam Phong số 113 (tháng 1, 1927, tr. 50).

[3] Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu. Bản in kì 10. Bộ Giáo Dục, Sài Gòn, 1968, tr. 319.

[4] Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Tài liệu để đính chính tài liệu văn cổ, Tri Tân, số 51, 17/6/1942, tr. 10.

[5] Hoàng Thúc Trâm, Quốc văn đời Tây Sơn, nxb Vĩnh Bảo, Sài Gòn, 1950, tr. 115.

[6] Hoàng Thúc Trâm, sđd, tr. 118.

[7] Hoàng Xuân Hãn, Chinh phụ ngâm bị khảo, nxb Minh Tân, Paris, tr. 29.

[8] Phạm Văn Diêu, Văn học Việt Nam, nxb Tân Việt, 1960, tr. 659-660.

[9] Trần Văn Giáp chủ biên, Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập I, nxb Sử học, 1962, mục 374,  tr 347-348.

[10] Nguyễn Hữu Sơn, Cung oán thi, nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1994, tr. 11-12.

[11] Bùi Hạnh Cẩn, Tổng tập thơ phú nôm của Nguyễn Huy Lượng, nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 1996.

[12] Nguyễn Lộc, Văn học Tây Sơn, nxb Sở Văn hóa – Thông tin Nghĩa Bình, 1986, tr. 352.

[13] Nguyễn Lộc, mục từ “Nguyễn Huy Lượng”, Từ điển văn học (bộ mới), nxb Thế Giới, 2004, tr. 1149.

[14] Đoạn ghi trong  Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi 1): “Hồi đó, có Nguyễn Huy Bá người ở Gia Lâm (làng Phú Thị, huyện Gia Lâm) tính tình nham hiểm, giảo hoạt, thường vẫn quen thói tố giác kẻ khác để kiếm quan chức. Năm trước, chính vì Bá đã tố cáo âm mưu nổi loạn của Nguyễn Huy Cơ và Thuỵ quận công mà y được làm chức tham nghị ở trấn Sơn Nam, dần dà, y ngoi lên chức tiến triều, rồi lại thăng tới chức đốc đồng ở trấn Thái Nguyên. Lúc này vì có lỗi bị cách chức, y đang nóng lòng mong lại được ra làm quan.” (Bản dịch của Nguyễn Đức Vân & Kiều Thu Hoạch, nxb Văn học, 1987, tr. 20-21.

[15] Việt Anh, Hy Minh với Nguyễn Huy Lượng có quan hệ như thế nào?, Thông báo Hán Nôm học 2001, tr. 27-31.

[16] Việt Anh, bài đã dẫn, tr. 27.

[17] Chương trình nghiên cứu gia phả Việt Nam, Nguyễn Gia phả kýLiễu Ngạn – Bắc Ninh. Bản dịch của Nguyễn Văn Nguyên, nxb Thế Giới, 2004, tr. 173.

[18] Nguyễn gia phả ký, sđd, tr. 203.

[19] Nguyễn gia phả ký, sđd, tr. 203.

[20] Quốc triều Sử quán, Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ, quyển XXXIII bản dịch của Viện Sử học, nxb Giáo Dục, 2002, tr. 712.

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.