Đặng Văn Sinh

Đầu tháng 12 năm 2024, cùng với giai phẩm Giao cảm, tiến sĩ Đinh Tấn Phước còn gửi tặng tôi Tuyển thơ Kha Tiệm Ly do nhà xuất bản Hội Nhà văn cấp giấy phép. Cuốn sách khá dày, 372 trang, khổ 14 x 20,5cm, được chia thành các thể loại: Văn tế: 5 bài; phú: 7 bài; hành: 3 bài; thơ tứ tuyệt: 38 bài; thơ Đường: 95 bài; thơ xướng hoạ: 10 bài; thơ uống rượu: 25 bài; thơ tự do: 35 bài; thơ tình: 47 bài; bút danh hoa trong hoa: 9 bài; và thơ xướng hoạ: 4 bài.
Có thể nói, hầu hết văn bản trong tuyển thơ Kha Tiệm Ly đều chịu ảnh hưởng của thi pháp trung đại, trong đó không chỉ ở cách lập ý, lập tứ mà cả thao tác diễn ngôn cũng thể hiện khá rõ đặc điểm trên. Đây không chỉ là hình thức biểu đạt mà thực chất còn là tư tưởng thẩm mỹ được hình thành từ cách chọn điểm nhìn nghệ thuật cũng như nếp tư duy của một người thông thạo văn hoá Đường Tống với nhiều thành ngữ, tục ngữ và điển cố. Không chỉ ở những loại hình như văn tế, phú hay thất ngôn Đường luật, rất nhiều trường hợp người đọc nhận ra âm hưởng của thể văn tứ lục hay bát cổ nhiều khi cũng chen vào cả thơ thơ tự do, thơ tình thuần Việt.
Về phong cách, tuyển Kha Tiệm Ly nổi bật hai đặc điểm: buồn man mác và ngông mà phần đậm đặc nhất làm nên nỗi buồn là sự bất lực của con người trong dòng chảy xã hội với hiện tượng thăng giáng, có vẻ như không phù hợp với quy luật vận động của nhân loại thời đại kỹ thuật số. Sự bế tắc trong cuộc mưu sinh ở đây không phải do năng lực mỗi cá nhân mà bởi sự tha hóa phẩm chất của cả một cộng đồng, lâu dần tạo nên vô thức tập thể. Hành vi rối loạn nhân cách cùng với công nghệ tẩy rửa quá khứ nảy sinh hiện tượng một người tỉnh trong khi cả đám đông đang say khiến anh ta trở thành kẻ bệnh hoạn. Sự bất tương thích về học vấn, văn hóa và nhân cách ấy dần dần khiến chủ thể nảy sinh tính ngông. Mà một khi cá thể ấy vừa bất đắc chí, vừa buồn đương nhiên sẽ dẫn đến cách nhìn đời bằng con mắt “ngông”. Tuy nhiên, đây không phải cái ngông trong ứng xử xã hội mà là cái ngông văn chương như là một “thi pháp”.
Với đặc trưng ngông và buồn, Kha Tiệm Ly đã tạo cho mình những diễn ngôn mang tính cách cộng đồng hơn là tính cách cá nhân. Cho nên thơ Đường tứ tuyệt hay thơ Đường thất ngôn của ông đều diễn đạt hình ảnh “cái ta” mang dáng dấp sử thi. Những cái “ta” ấy, không hiếm trường hợp lại được đặt trong bối cảnh hài hước, phúng dụ, thậm chí còn không quên sử dụng một vài từ ngữ tục tĩu như một cách cố ý.
Về tác phẩm cụ thể, ngoài Văn tế đại thi hào Nguyễn Du được trao giải nhất cuộc thi viết văn tế đại thi hào Nguyễn Du nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của ông, theo chúng tôi, Kha Tiệm Ly còn có những bài khá hay, trong số đó có Văn tế đồng bào Sài Gòn tử nạn vì dịch Cô vi và Văn tế Uy Viễn tướng công. Đây cũng là hai là tác phẩm có nhiều câu văn biền ngẫu gắn liền với thể tứ lục hàm chứa tư tưởng tình cảm sâu nặng của người cầm bút khiến người đọc xúc động:
“Nào ngờ gió tụ mây đen, Cô vi làm héo nụ, tàn hoa, trái rơi tan tác!
Hỡi ôi!
Khói lò thiêu xót xa giờ ly biệt, chồng lìa vợ, vợ lìa chồng, lê rơi nhầy đất đau thương,
Mảnh khăn tang đau đớn kiếp đơn côi, con khóc mẹ, mẹ khóc con, uất nghẹ đầy trời bi đát.
(…)
Giữa chốn bụi hồng vẫn còn thừa tấm lòng bồ tát
Dù đường dài còn lắm khúc gai góc chông chênh
Nhưng đêm vắng luôn nhiều ánh sao trời vằng vặc!“.
Còn ở mảng phú thì bài Tự trào thật xứng đáng cho cả danh xưng “ngông” và “hài” trước một hiện tượng chướng tai gai mắt kinh niên mà có lẽ chỉ xuất hiện trong lãnh thổ Việt Nam:
“Năm xe kinh điển, quyển mất quyển còn,
Mấy lố bạn văn, đứa đi đứa ở.
Miệt mài trên báo, xem “thơ tự do” mà bụng dạ hãi hùng
Lang thang trên mạng, coi thơ “Đường luật” làm mặt mày mắc cỡ!
Chỉ vì,
Thẹn cho tài, dẫu gọt hết trúc rừng làm bút, mà chẳng thành danh,
Tủi cho phận, dù mài vơi nước sông làm mực, cũng chưa tiệm ngộ.
(…)
Thơ viết người không muốn đọc, mà “ca” ù tai hơn tiếng ve kêu,
Sách in mối chẳng thèm ăn, lại “bốc” điếc ráy còn hơn bom nổ!“.
Với tư chất kẻ sĩ thời mạt pháp, đồng tiền có thể thao túng mọi giá trị, tác giả hạ bút viết những vần thơ vô cùng sảng khoái trong Tri kỷ hành:
“Bút tang thương vẽ màu vân cẩu
Dăm chén rượu cay, mấy chén rượu đời?
Huynh ăn rau hoắc lê nhưng lòng trong leo lẻo,
Ta bận áo rách vai mà sáng rỡ mặt người! ”
Với Tri âm hành, cái nhìn thế sự của chủ thể trữ tình đầy cảm khái, hoàn cảnh của người cầm bút chẳng khác gì Đỗ Phủ thuở lang thang đói cơm rách áo mà lòng trong trẻo lạ thường:
“Huynh bao năm đã thành thân viễn xứ,
Nhưng tình núi sông há một sớm phôi phai.
Tôi vá víu từng câu thơ cơm áo,
Giữa quần sinh sao lại thấy lạc loài! ”
Và đây, cái hồn “Đường thi” chẳng biết từ lúc nào đã bất chợt hiện diện trong thơ dẫn dụ người đọc vào thế giới cổ thi cách thời nay cả ngàn năm:
“Mây viễn xứ xót thương người xa xứ,
Sương biên thùy có lạnh buốt hai vai.
Năm tháng đại ngàn nghe gió hú,
Mỗi bận chướng về lại thiếu một nhành mai.”
Vẫn với âm hưởng buồn và thói ngông của kẻ trốn đời, Kha Tiệm Ly luận về sự sống và cái chết như một triết lý nhân sinh trong bài Nẻo về:
“Kẻ mặc áo rồng kẻ vá vai,
Kẻ quyền lệch đất, kẻ tôi đòi
Mai kia cuối nẻo đường vinh nhục,
Chân đất hài thêu cũng thế thôi.”
Đọc Kha Tiệm Ly, người ta cũng nhận ra, thơ Đường luật thất ngôn bát cú, tuy niêm luật chuẩn chỉnh, từng cặp đăng đối, nhịp điệu uyển chuyển nhưng bởi lẽ chỉ có 56 chữ nên rất khó chuyển tải hết được ý tưởng tác giả muốn giãi bày. Trong số đó, có những bài khá ấn tượng như Vua Duy Tân, Quang Trung, Tráng sĩ hay Gửi cố nhân… Nhưng theo nhận xét của chúng tôi, đặc điểm ngôn ngữ Việt với 6 thanh điệu cùng với hệ ngữ âm thuần Việt, nhất là lớp từ vựng hiện đại rất khó tạo nên cấu trúc một bài Đường thi đẹp như thơ thất luật Đường Tống. Có lẽ vì thế, nên cho đến nay, thơ Đường luật của Bà Huyện Thanh Quan với những Thăng Long hoài cổ, Qua Đèo Ngang hay Chiều hôm nhớ nhà vẫn là những bài thuộc hàng kinh điển về cả nội dung lẫn hình thức chưa nhà thơ nào có thể vượt mặt. Ở bài Tráng sĩ, ngoài tinh thần hiệp khách, ta còn cảm nhận được yếu tố “ngông” cùng với nỗi niềm cảm thán của người tráng sĩ dám vì nghĩa quên thân:
“Mặt nước trường giang vạn sóng xô
Lênh đênh từ ấy biết đâu bờ
Trăng soi thẹn bấy lòng du tử
Sương giội ta chưa giấc hải hồ?
Nửa kiếp phiêu linh cùng vó ngựa
Trăm năm dang dở với con đò
Cạn bầu rượu nóng buồn tê tái
Gác kiếm bên thuyền, bút chép thơ“.
Trong khi ấy, ở bài Tự thán (3), cũng với nỗi buồn của kẻ sĩ bất lực trước thời thế, Kha Tiệm Ly âm thầm tái hiện thân phận mình bằng âm hưởng Đường thi như là những dòng cảm tác buồn trong nỗi đau thế sự:
“Muốn trả cho xong một kiếp người
Ván cờ thế sự vẫn chưa thôi
Cho dù còn chút vàng chịu lửa
Ngặt nỗi lấy đâu đá vá trời
Hảo hán hết thời thành kẻ dại
Kiếm cung nằm xó hóa đồ chơi
Ngựa Kỳ chưa mỏi đường ngang dọc
Áo đã sương phong, tóc bạc rồi.”
Một chuyện khá thú vị là trong tuyển của mình Kha Tiệm Ly có hẳn một mục thơ uống rượu. Kể ra cũng hy hữu, bởi ông dành đến 25 thơ tự do chạm cốc với đủ các nhân vật cổ kim từ Phan Thanh Giản, Phàn Khoái, Lỗ Trí Thâm, Kinh Kha rồi La Hán, Đạm Tiên, Diêm Vương thậm chí còn có cả đĩ, không phải một mà có đến hai bài:
“Em ở lầu xanh mà tâm hồn thánh thiện,
Kẻ ở lầu hồng, chưa chắc gái thuyền quyên.
Mang áo rách vai cũng vẫn là hảo hán,
Đội mũ ô sa đâu phải chẳng thằng hèn.”
Và rồi, nỗi trớ trêu ấy khiến thi nhân trăn trở về hình mẫu người tri kỷ của cô gái bán hoa:
“Em thổn thức khóc trọn đời làm đĩ,
Ta xót thương cho một kiếp giang hồ.
Em, vợ ngàn người mà không ai tri kỷ,
Ta, mấy cuộc tình mà chưa đẹp một câu thơ.”
Còn đây nữa, ý tưởng nhà thơ lúc này muốn “cố sự tân biên” dùng hình ảnh Lỗ Trí Thâm ngang tàng giữa đường gặp sự bất bình đã vung nắm đấm trị tội tên ác bá cứu cha con Kim Lão để ẩn dụ khí phách người quân tử:
“Trời đất rộng mà chẳng thấy người hảo hán,
Kẻ chân tu còn khó gặp hơn trời!
Uống đi đệ! Hẹn một ngày rực nắng,
Tới giang hồ trăng gió thảnh thơi chơi!”
Không chỉ quẩn quanh với thế loại tứ lục biền ngẫu của thơ văn Đường Tống và thơ văn trung đại, Kha Tiệm Ly còn là một “hiệp khách” đa tình. Chỉ xét về số lượng tuyển, ông có đến 47 bài thơ tình, trong đó có nhiều bài đáng đọc, chứng tỏ nhà thơ, vốn từng nhiều năm đứng trên bục giảng sở hữu tâm hồn “đi mây về gió” trong cõi hồng trần. Có điều, dù là thơ tình, âm hưởng chủ đạo của ông cũng vẫn là nỗi buồn triền miên bởi những cuộc tình dang dở:
“Người để lại làm chi làn mắt biếc
Đìm chết đời ai trên bể khổ muôn trùng
Hương nồng người ủ trong chăn chiếu
Đủ ấm nơi đây buổi lạnh lùng.”
(Chẳng trách chi người)
“Tình vỡ một lần ôm hận mãi
Cho ngàn năm mang nặng vết thương đời
Đớn đau nầy riêng ta giữ lại
Tất cả yêu thương trả lại người.”
(Đoạn kết chuyện tình)
“Lung linh đáy chén người năm cũ
Nên rượu chưa vơi lại rót đầy
Vắng em, hoa lá sầu muôn thuở
Ai uống cùng ta chén rượu cay?”
(Giọt buồn em cho)
Như phần trên dã nói, thơ Kha Tiệm Ly, dù thơ tình vẫn nhuốm màu bàng bạc chịu ảnh hưởng của cấu trúc thơ cổ Đường Tống pha chút lãng mạn của trào lưu Thơ Mới (1932 – 1945), mà nội hàm của nó đang là sự tranh chấp giữa cái ta và cái tôi cá nhân. Hầu như mọi nỗi đau cùng sự mất mát trong tình yêu đều mang yếu tố vô thức cộng đồng. Có không ít bài còn được tác giả vận dụng cổ mẫu (archetype) nên tính dị biệt (cá thể hóa) bị chìm đi nhường chỗ cái phổ quát là thứ đã được cô đúc thành hình tượng thẩm mỹ cho một cộng đồng.
Tuyển thơ Kha Tiệm Ly khá dầy dặn và nội dung phong phú, đa dạng. Trong phạm vi bài này, chúng tôi mới chỉ đề cập đến những đề mục liên quan đến văn tế, phú và thơ Đường luật. Những phần tiếp theo sẽ trình bày vào dịp khác.
Đ.V.S.