Lê Thị Thanh Tâm
“Chao ôi! Chiến tranh là cõi không nhà, không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới bạt sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người!” (Nỗi buồn chiến tranh)
Bảo Ninh đã viết khác. Khác không chỉ ở ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu mà quan trọng hơn là từ cách gọi tên những trải nghiệm và hồi quang.
Một nhà văn hiện đại đối diện với trang giấy một cách cô độc, nhưng tâm trí hoàn toàn có thể đang “viết cùng” ai đó, “viết cùng” những ai đó – một “tập thể mơ hồ” của các ý niệm, quan niệm, định kiến, lập trường được chồng chất và đóng chặt trong tâm trí, trong sức tưởng tượng.
Bảo Ninh, qua những gì đã thể hiện, và qua cách mà (một nhóm) công chúng phản đối quyết liệt, đã cho thấy: nhà văn chẳng viết “cùng ai” cả. Đó là sự hấp dẫn tột độ của cái Mới, cái Dám.
Một nỗi buồn không nhân danh ai; Một nỗi buồn thẳm dưới các lớp ngôn ngữ của kí ức và linh hồn sống chiều ngược của thời gian. Phải chăng đó là thứ ngôn ngữ “bạt sầu” có thể đối thoại với những nỗi niềm dọc đường nhân loại? Việc một tác phẩm được chuyển dịch hơn 20 thứ tiếng phải được xem là một sự thật có giá trị về tính nhân loại của nó.
NỖI BUỒN NGUYÊN ỦY
Thiên sử thi vĩ đại của người Ấn Mahabharata được sáng tạo suốt gần một thiên nhiên kỉ (từ thế kỉ thứ III trước Công nguyên đến thế kỉ IV sau Công nguyên) là câu chuyện dài hỗn mang bi thảm của chiến tranh. Giá trị lớn nhất đọng lại của Mahabharata nằm ở chiều sâu nhân bản của nỗi buồn và sự day dứt tột cùng của hai người anh hùng: Yudhishthira và Arjuna. Cuộc chiến tranh khủng khiếp diễn ra giữa hai dòng họ: Pāṇḍava (năm anh em con trai của Pāṇḍu) và Kaurava (một trăm anh em con trai của Dhṛtarāṣṭra, đứng đầu là Duryodhana). Cuộc chiến nổ ra không chỉ vì câu chuyện quyền lực mà còn vì Dharma (luật pháp, đạo lý, công bằng) chống lại Adharma (phi đạo lý, bất công). Bi kịch đẩy thành xung đột đẫm máu vì tộc Kaurava từ chối trao lại quyền thừa kế hợp pháp cho Pāṇḍava sau khi họ đã hoàn thành thời gian lưu đày và sống ẩn dật. Sự tham lam, đố kỵ và lòng kiêu hãnh của Duryodhana (trưởng tộc Kaurava) là nguyên nhân căn bản nhất đẩy hai tộc họ đến bờ vực chiến tranh.
Cuộc trường chinh tàn khốc diễn ra, và cuối cùng: Chính nghĩa đã thắng. Nhưng với Yudhishthira, đó là một nỗi buồn vô hạn mà vì nó, ông không thể sống bình thường được nữa. Nỗi buồn của Yudhishthira mang tính chất đạo đức và tâm linh. Sau chiến thắng ở Kurukshetra – một chiến thắng phải trả giá bằng cái chết của hàng triệu người, trong đó có cả họ hàng, thầy giáo và bạn bè thân thiết – Yudhishthira không cảm thấy vinh quang mà chỉ thấy trống rỗng và tội lỗi. Ông từ bỏ ngôi vị và du mình vào rừng sâu. Trong chiêm nghiệm của Yudhishthira, một cuộc chiến chính nghĩa (Dharma Yuddha) cũng không thể che khuất và làm mất đi những tàn phá nặng nề tâm hồn con người.
Trường đoạn đối thoại giữa người anh hùng khác: Krishna và Arjuna trong Bhagavad Gita (Chí Tôn ca) trở thành kinh điển triết học phương Đông về nỗi đau tinh thần của con người bởi chiến tranh. Trước khi trận chiến Kurukshetra bắt đầu, Arjuna từ chối cầm vũ khí vì nhìn thấy phía bên kia chiến tuyến là thầy giáo và những người anh em của mình. Nỗi buồn chiến tranh được thể hiện dưới hình thức một cuộc khủng hoảng lương tâm không lối thoát. Khi ấy, thần Krishna, trong hóa thân người đánh xe cho Arjuna, đã dạy rằng: phải hành động (chiến đấu) vì đó là bổn phận (Dharma) của một chiến binh, nhưng phải làm điều đó mà không dính mắc vào kết quả. Hành động không vì lợi ích cá nhân, không sợ hãi tội lỗi. Và hơn hết, hãy chiến đấu với một tình yêu hiến dâng tuyệt đối (Bhakti Yoga). Cuối cùng, Krishna tiết lộ bản chất thần thánh của mình, kêu gọi Arjuna hãy phó thác mọi hành động và kết quả cho Ngài, thoát khỏi mọi nỗi buồn và sự bất an!
Cuộc đối thoại huyền ảo trên là một giải pháp triết học và tâm linh cho nỗi buồn và sự khủng hoảng đạo đức của chiến tranh, nhấn mạnh vào việc thực hiện bổn phận (Dharma) và tâm linh hơn là kết quả vật chất.
Cuộc đối thoại ấy, từ hàng nghìn năm trước, đã làm chứng cho những nỗi buồn lớn lao phổ quát của loài người trong “bản năng xung đột”. Con người dường như đã phải huy động tất cả: thần linh, tâm linh, lương tâm, sám hối, phó thác, danh dự để đối trị lại cơn ám ảnh của của sự hủy diệt. Những mất mát, cô đơn, mất phương hướng, cay đắng, tổn thương không phải là cái gì xa lạ với con người; nhất là những người đã sống sót qua chiến tranh với những vết thương vẫn tiếp tục tạo hình trong chặng dài hậu chiến. Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh không nói điều gì mới hơn nỗi buồn nguyên ủy của nhân loại. Nó chỉ khác biệt ở thời điểm nó xuất hiện và cách mà nó hiện diện trong dòng chảy của văn học chiến tranh phương Đông. Cuộc khủng hoảng lương tri không chỉ được nhìn thấy ở những tội ác chiến tranh. Nó còn được hé lộ ở những cuộc thử thách nhân tính, thông qua cơn ác mộng của người “chưa chết” với tư cách là người lính – chinh nhân. Đường nét khắc chạm của Bảo Ninh mang lại một gương mặt hiện đại khác cho một nỗi buồn thê thảm xưa cũ của dòng giống con người.
SỰ THẬT TRONG VĂN HỌC VÀ SỰ THẬT CỦA ĐỜI SỐNG
Sức nặng của sự thật trồi lên bề mặt của mọi thứ ý chí. Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh cho thấy người Việt (dường như có lúc nào đó) đã thực sự tự do trong suy nghĩ, sáng tạo, thực sự không xa lạ với những đỉnh cao văn chương thế giới.
Viết về hy vọng bằng nỗi tuyệt vọng. Đó là một mệnh đề khó.
Viết về tuyệt vọng bằng niềm hy vọng. Đó là thứ được chiết xuất ra từ dư âm của tác phẩm.
Bảo Ninh có lẽ đã làm cùng lúc hai thao tác này.
Lev Semenovich Vygotsky (1896–1934) gọi đó là “hơi thở nhẹ” trong tác phẩm Tâm lý học nghệ thuật (The Psychology of Art, 1925). Hơi thở nhẹ (Легкое дыхание) – một truyện ngắn của Bunhin được Vygotsky chọn phân tích như một nguyên lý về sự tồn tại của cái đẹp. Ở đó, ông phân tích bi kịch đau xót của nhân vật Olya Meshcherskaya nhưng thông qua cách kể chuyện nhẹ nhàng, thanh thoát của Bunhin để giải thích một nguyên lý thẩm mỹ trong nghệ thuật: sự đối lập giữa vật liệu (cảm xúc, cốt truyện) và hình thức (cách kể, sắp xếp). Những sự thật mà người ta có thể trích ra một cách ngay ngắn trong ngoặc kép cùng những lời bình nghiêm nghị về “tính dục”, về “thú tính”, về “sự vô cảm” trong văn chương Nỗi buồn chiến tranh trên thực tế là cách trích dẫn ngẫu nhiên trong một trật tự kết án hay phán xét.
Còn một cái trật tự khác của nghệ thuật, như Vygotski phân tích, nó nằm ở sự sắp xếp các chất liệu dưới một ánh sáng của giãi bày và giải phóng xúc cảm. Đó là một trật tự mang đến những cảm giác mới mẻ về những điều sâu sắc của cuộc sống, những trải nghiệm xưa cũ nhưng là trải nghiệm nhân bản của con người về sự lam lũ và vô định của mọi tồn tại.
Sự thật của cuộc sống hàng ngày khiến người ta có nhiều “chất sống” hơn, kinh lịch hơn.
Còn sự thật trong nghệ thuật khiến người ta được trút/ trải những thứ còn lắng dưới lòng sâu cảm xúc, trực giác, để thanh lọc (karthasis) chính cảm giác sống của mình. Sự thật ấy giúp người ta sống nhiều cuộc sống hơn.
Còn bạn hỏi: có bao nhiêu sự thật? – Sự thật là thứ không ai đếm được. Yêu mến và tìm kiếm sự thật là đức độ của con người ở trần thế. Thế là đủ khiêm nhường để sống. Còn sở hữu nó và nhân danh nó (sự thật) thì ai cũng thích. Đó là thú vui, không phải đức khiêm nhường.
Đã thật thì sẽ chạm. Nồng độ sự thật nhiều, thì sự chạm càng lớn.
Không ai có thể tự nhận mình sở hữu chân lý. Nhưng người ta có thể cùng thốt lên niềm cảm mến, sự tương giao cái đẹp khi Sự thật xuất hiện.
Chân lý nghệ thuật là một khái niệm mơ hồ. Mơ hồ vì chân lý nghệ thuật rất khó được mô tả như một thứ định danh cụ thể, có nội hàm để đo đếm, đong lường. Nó tồn tại dưới những cuộc đối thoại. Và nó cũng tồn tại dưới những cảm nhận vượt thời gian, những nhận định can đảm và trong sáng đối với sự hiện diện đa chiều kích của nó.
PHÂN CÁCH GIỮA CHÍNH TRỊ VÀ NGHỆ THUẬT
Người ta có quyền sống trong cái khung an toàn của quan điểm, ý niệm, hành động và lý tưởng. Nó được đảm bảo bằng sự thật của chính nghĩa và những mệnh lệnh sử thi.
Nhưng người ta cũng có quyền sống trong một (những) cái khung khác của ẩn ức, hoài niệm, trí tưởng với sự thật thô sạn. Nó không được đảm bảo bằng những mệnh lệnh, giải thưởng, lời tôn vinh, mà nó (trong đường đi oái ăm của số phận) được đảm bảo bằng sự bất định của tranh cãi – bảo chứng độc quyền của những tài năng sáng tạo!
Từ thời kì Cổ điển của Hy Lạp (thế kỷ thứ V-IV) trước Công nguyên, Plato trong Politeia (Cộng hòa) từng coi thơ ca là thứ gây nguy hại cho Nhà nước bởi: nó chỉ là sự bắt chước bậc 3 (xa rời chân lý và tri thức), nuôi dưỡng phần thấp kém của linh hồn con người. Vậy nên, theo Plato, thi ca bắt chước cần phải được loại bỏ khỏi Nhà nước lý tưởng. Với ông, kể cả Homer, tác giả của thiên sử thi Iliad và Odyssey, xứng đáng là “loại người không nên được thừa nhận”.
Hơn 2000 năm sau, những câu chuyện tranh cãi về một/ những tác phẩm văn học/ nghệ thuật thì có gì lạ đâu. Cả việc đề nghị “thu hồi”, “kết án” tác phẩm thì cũng không có gì mới so với tuyên ngôn “sang trọng” của Plato về việc loại bỏ Homer – nhà thơ vĩ đại nhất của Hy Lạp cổ đại, nguồn cảm hứng trong sáng và mênh mông của văn minh phương Tây – ra khỏi cộng đồng.
Plato vẫn còn nguyên vị trí trong ngôi đền huyền thoại triết học nhân loại, còn Homer vẫn là một tên tuổi bất tử trong dòng chảy văn học thế giới.
Đừng sợ ánh sáng sẽ làm mờ đi ánh sáng. Nguyên lý của ánh sáng là không bao giờ làm mờ nhau.
Niềm tin bất diệt của con người về cuộc chiến tranh chính nghĩa vệ quốc, về những tượng đài đổi bằng máu, luôn trường tồn cùng dân tộc.
Những thao thức tận cùng đau đớn, những chấn thương, những cái chết dài mà chiến tranh mang lại trong những vùng tối tăm của kí ức, cũng không ai có thể tắt đi được!
“Không phải là cuộc sống mới, thời đại mới, không phải là những hy vọng về tương lai tốt đẹp đã cứu giúp tôi mà trái lại những tấn thảm kịch của quá khứ đã nâng đỡ tâm hồn tôi, tạo sức mạnh tinh thần cho tôi thoát khỏi vô tận những tấn trò đời hôm nay.” (Nỗi buồn chiến tranh – Bảo Ninh).
Sofia, 6/12/2025
Lễ Thánh Nicholas