Văn Hải ngoại sau 1975 (kỳ 314): Trần Hồng Châu, nhà thơ

Nguyễn Vy Khanh

 Trần Hồng Châu

 

Trần Hồng Châu là bút hiệu của giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, sinh ngày 15-5-1921 tại Hưng Yên, Bắc Việt, theo học tại Trường Khải Ðịnh Huế, Ðại học Luật khoa Hà Nội 1943-1945. Du học Pháp, ông đậu Cử nhân Văn Chương năm 1950, Tiến sĩ Văn chương Quốc gia năm 1955 rồi về nước năm 1957, dạy Đại học Văn Khoa Sài Gòn, phụ trách các môn Văn chương Pháp và Văn chương Việt-Nam, đồng thời cũng giảng dạy tại Đại học Sư phạm Sài Gòn, Học viện Quốc gia Hành chánh và Viện Đại học Huế. Ông được bầu làm Khoa trưởng Ðại học Văn khoa Sài Gòn (1965-1969), và là Giáo sư thỉnh giảng về Văn chương Văn hóa Việt Nam tại Ðại học Southern Illinois University (Carbondale, Illinois Hoa Kỳ) từ 1970-1974. Vừa hồi hương không lâu thì xảy ra biến cố 30-4-1975, 15 năm sau ông cùng gia đình rời khỏi nước và định cư ở California.

Về hoạt động văn nghệ, nhà thơ Trần Hồng Châu đã từng cộng tác với các tạp chí Gió Mới Tiền Phong (1945-1946) tại Hà Nội, chủ trương tạp chí văn nghệ Thế Kỷ Hai Mươi tại Sài Gòn năm 1960 và đã cộng tác với các tạp chí Sài Gòn trước 1975 như Văn, Vấn Ðề, Văn Hóa Nguyệt San Văn Hóa Á Châu. Tại hải ngoại, ông đăng bài trên các tạp chí Văn, Văn Học, Thế Kỷ 21, Chủ Đề, Dòng Việt Khởi Hành cùng giữ trọng trách Viện trưởng Viện Việt Học từ tháng 12-2000 đến tháng 3-2003. Ông mất tại Quận Cam, California ngày 07-12-2003.

Tác-phẩm đã xuất bản thời hải ngoại: Thành phố trong hồi tưởng (tùy bút; Los Angeles: An Tiêm,1991); Nửa khuya giấy trắng (thơ, Thanh Văn, 1992); Nhớ đất thương trời (thơ; Los Angeles CA: Thế Kỷ, 1995); Hạnh phúc đến từng phút giây (thơ; Văn Học, 1999); Dăm ba điều nghĩ về văn học nghệ thuật (tiểu luận; Westminster CA: Văn Nghệ, 2001); Để tưởng nhớ Nguyễn Du (thơ; Viện Việt Học, 2002); Suối tím (thơ và đoản văn; Văn Nghệ, 2003) và Tuyển tập Trần Hồng Châu (thơ, tùy bút, tiểu luận; Viện Việt Học, 2004. 554 tr).

*

Các tác phẩm văn học nghệ thuật và sáng tác, bài viết của giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch tức nhà thơ Trần Hồng Châu, trên các tạp chí trước sau năm 1975 cho chúng tôi cảm nhận ông là một trường hợp liên-văn-bản đặc biệt tổng hợp Đông-Tây, qua tác phẩm cũng như nhân-thân (“Tôi sống hai con người, văn nghệ và giáo dục, một cách tương đối hài hòa…Dăm ba điều nghĩ về văn học nghệ thuật, tr. 373) và sự nghiệp. Bắt đầu với luận án về Tiểu Thuyết  chữ Nôm thế kỷ XVIII và XIX trình ở đại học Pháp, từ đó sang báo chí, giáo dục và sáng tác. Chúng tôi nhìn thấy ở ông tính liên-văn-bản  Nguyễn Khắc Hoạch – Trần Hồng Châu cuối cùng đã thành tân-văn-bản Trần Hồng Châu.

Liên-văn-bản của cách tân

– Làm báo: Văn học quốc-ngữ Việt-Nam đã bắt đầu từ giữa thế kỷ XIX, qua thế kỷ XX lần hồi phong phú, đa dạng thể loại và tác giả. Nhiều phong trào, khuynh hướng liên tục xuất hiện, nhưng khi đất nước bị thế lực quốc tế Cộng sản và thực dân chia đôi, văn chương cần được hiện đại hóa hơn nữa, vì nhận thấy “sinh hoạt văn nghệ hậu chiến ở Việt-Nam (1954-1960) còn nghèo nàn, buồn tẻ”. Đó cũng là lý do cùng lúc vào năm 1960, đã có ba tạp chí xuất hiện và cùng cổ võ cho việc sáng tạo văn chương, làm mới, làm khác và rời bỏ con đường đã quen; bên cạnh Sáng Tạo (bộ mới) và Hiện Ðại, Thế Kỷ Hai Mươi đã được khởi động, khơi dòng sáng tạo và đã gây tiếng vang đáng kể. Thế Kỷ Hai Mươi, “tập san sáng tác khảo luận phê bình văn nghệ” số 1 ra mắt tháng 7-1960 và đến sau số 6 ra tháng 12-1960 thì đình bản, do Nguyễn Cao Hách làm giám đốc, Nguyễn Khắc Hoạch (nhà thơ Trần Hồng Châu) chủ trương biên tập, phụ trách tòa soạn: Đoàn Tường (Lý Hoàng Phong), Tô Thùy Yên, Trần Lê Nguyễn, và Lưu Nguyên quản lý.

Trong bài “Đi vào đoạn đường hôm nay” dài 8 trang trong số ra mắt, chủ bút Nguyễn Khắc Hoạch mở đầu với lời chào “Như một lãng hoa đầu xuân trong ngọn lửa hạ vô cùng tận của miền Nam đất nước, Thế Kỷ Hai Mươi hôm nay đến với các bạn, mang theo tất cả chân tình thắm thiết của những con người sáng-tạo đã từ lâu thai nghén nó trong lòng…” trước khi cho biết chủ trương “… những người chủ trương TKHM mạnh dạn cho tập san ra đời, tuy thừa biết sự đóng góp nhỏ bé của mình, trước cảnh tượng bao la, chỉ có cái nghĩa vô cùng tương đối của một tảng đá nhỏ trên đỉnh Hy-Mã, một cây con trong trùng điệp mênh mông của rừng nhiệt đới. Vũ khí nào sẽ được sử-dụng trong cuộc chiến đấu xây dựng văn-nghệ đó? Chúng tôi ra đi chỉ vỏn vẹn mang theo một nhiệt tình say mê văn-chương, một tha thiết kiến tạo, và một siêng năng cần cù mài rũa kỹ thuật, cần gì phải nhắc lại rằng chỉ có thể đi tới đỉng nghệ-thuật bằng một tân truyện phong phú, chân thành và một kỹ thuật già dặn, sắc bén,  (…)

Trong bầu không khí chìm lắng của văn-nghệ hiện-đại, có lẽ chúng ta phải cùng nhau luôn luôn đưa mắt nhìn la-bàn tìm phương hướng… Là những con người Việt-Nam của nửa thế kỷ hai mươi chúng ta thấy cần sống, cảm nghĩ, làm văn-nghệ và tiếp nhận, hưởng thụ văn-nghệ theo tính chất những hoành đồ thời-gian và không-gian, xác định vị trí của chúng ta. Nghĩa là trên trục thời-gian trôi chảy chúng ta nhất định đứng ở đầu mũi, ở tiền tuyến, ở cái Hiện tại luôn luôn vươn mình đến Tương lai. Trên con đường văn-nghệ dài muôn dặm lý, tuy chỉ có vài cái hữu hạn của mỗi cuộc đời nhỏ bé của chúng ta, chúng ta sẽ gắng mạnh bạo thẳng tiến, hướng về phía trước, về phía Ngày mai, về phía của những động lực, những con người đang lên, đang lớn mạnh.

Nhất là thế kỷ chúng ta đang sống có nghĩa là động, là mới, là thế kỷ của những băn khoăn, những bất mãn, những đặt lại vấn-đề, những suy tư lại, những cái nhìn bình thản, nếu không phải là hoài nghi, trước những thần tượng. Nhất là bản chất của văn-nghệ có nghĩa là tìm tòi, khám phá không ngừng, là đi tới, là hướng về phía chân trời xa, là, nếu có thể, đi trước Hiện tại… Là từ phút Hôm nay xây dựng Hôm mai và Ngày mai…

Nhưng, nói như vậy không phải chúng ta hoàn toàn phủ nhận quá-khứ, hay theo mới một cách a-dua, nông cạn, vô trách nhiệm. Quá-khứ được xây dựng bằng những nhân tố đã là Hiện Tại và Tương Lai; Hiện Tại và Tương Lai cùng được bắt rễ, cũng có những điểm tựa trong quá-khứ. Chúng ta không tàn phá một cách vô ý thức cái đã có để  xây dựng cái sẽ có, nếu không chúng ta sẽ xây dựng trên Hư không...(…) Chúng ta không là những đãng-tử-chẳng-hẹn-ngày-về, những quái thai vong bản. Nhưng chúng ta nhất định xua đuổi những bộ mặt vị quốc hẹp hòi cau có, gớm ghiếc… Thế kỷ chúng ta là xao động, biến dịch, trao đổi, giao thoa… là không quan ải tinh thần… và người Việt-Nam từ muôn kiếp vẫn bỏ ngỏ cửa lòng cho gió bốn phương. Chúng ta sẽ có thái độ tinh thần truyền thống đó, sẽ hòa nhịp sống với biến động thế kỷ (…) Tập san Thế Kỷ Hai Mươi mong muốn được khai sinh dưới dấu hiệu của tự do và khoan dung tinh thần, điều kiện cốt yếu của mọi hoạt động văn-nghệ …”. Ông kết thúc với hy vọng “Chúng ta sẽ bền gan nỗ lực để cùng nhau mở hội liên hoan trong ngày huy hoàng đó”.

Thế Kỷ Hai Mươi sống không lâu, nhưng với 6 số, cũng đã để lại dấu ấn thời đại văn chương sang cả đến từ những quan điểm, nhận định của các nhà khoa bảng và lý thuyết mới cùng và sáng tác cách tân của các cây bút xông xáo làm mới như Tô Thùy Yên, Trần Hồng Châu, Duy Thanh, Trần Dạ Từ, Cung Trầm Tưởng, Quách Thoại, Viên Linh, v.v.

Giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch làm báo như một nhà văn hóa, và cũng từ tư cách một nhà giáo dục, ông chiêm nghiệm nhiều về văn hóa cũng như văn chương Việt-Nam phải hướng tới đỉnh điểm tự do khai phóng – tư duy ông vẫn giữ thập niên 1960 cũng như thời 1996: “trong bối cảnh mới cần xác định vị trí một Việt-Nam cởi mở, khai phóng với tinh thần được nuôi dưỡng bằng một tổng hợp giữa những yếu tố tích cực của truyền thống và sức đẩy không ngừng về tương lai” (Dăm ba điều nghĩ về văn học nghệ thuật, tr 353).

– Giáo dục như hành trình khai tâm:

Bài “Đi vào đoạn đường hôm nay” mở đầu cho tạp chí Thế Kỷ Hai Mươi mời gọi độc giả và các tác giả dấn bước vào vận hội mới ở phía trước, cũng là phân tích, suy tư về văn hóa Việt-Nam. Ông đã chứng tỏ là một nhà giáo dục đại học độc đáo, ít ra trong tư duy và ngôn từ: “Giảng bài, bình văn, phân tích, bố cục, nội dung, hình thức, là cái gì? Đây chỉ là mời chào viễn du. Hướng về cửa Thần Phù, về động bích nguồn đào của văn nghệ và những tâm hồn lớn, lôi cuốn theo đoàn người đồng hội đồng thuyền cho tới ngày hạ sơn. Đứng trên đỉnh Côn Luân cao vời vợi, sau khi trao tiên phù và thần kiếm, người trưởng môn ngậm ngùi theo dõi bóng dáng những kiếm khách trẻ tuổi, tiến xa, xa mãi vào những lũng thấp, đèo cao, sông dài biển rộng của cuộc đời”  (Thành phố trong hồi tưởng, tr. 74)

Ông phần nào bảo thủ theo truyền thống đại học, với các bậc thầy cổ điển. Khuynh hướng ấy thể hiện trong các giáo trình và diễn văn. Ông cho rằng “Vai trò của nhà giáo dục, vai trò khuôn mẫu, mực thước, ít nhiều hướng về việc bảo vệ truyền thống, bảo vệ di sản cổ điển và những giá trị đã có sẵn (Dăm ba điều nghĩ về văn học nghệ thuật, tr. 373). Ông đã nghĩ “Đại Học Văn Khoa có nhiệm vụ tổ chức cuộc hành hương về nguồn, tìm lại những vẻ đẹp xa xưa, lắng nghe tiếng thầm thì của quá khứ để từ đó xây dựng hiện tại và tương lai, để cảm thông với linh hồn đích thực và bất diệt của quê hương …”. Ngay sau đó, ông nhấn mạnh “dân tộc trên hết, dân tộc là căn bản, nhưng dân tộc và khai phóng” (Dăm ba điều nghĩ về văn học nghệ thuật, tr. 45).

Thi-ca – Nghệ-thuật

Trong tập tiểu luận Dăm ba điều nghĩ về văn học nghệ thuật, xuất bản hai năm trước ngày ông mất, ông đã tâm tình với người đọc và thế hệ mai sau: “Chung cuộc chỉ còn lại dăm ba điều nghĩ, một vài xúc cảm và ấn tượng, hoàn toàn gắn bó với thẩm quan và nhiệt tình của một cá nhân sáng tạo văn nghệ, thân mật đi bên những người đồng điệu giữa một vườn hoa nhiều màu sắc. Với cả tấm lòng tha thiết hướng về Chân Thiện Mỹ. Với phong thái rộng mở của con người không muốn bị ràng buộc bởi bối cảnh, thiên kiến, nhóm phái hay ý thức hệ nào cả. Một con người mong mỏi được hoàn toàn thoải mái đuổi theo và ghi lại mọi vẻ đẹp rơi rớt trên giải đất trần gian mến yêu của tất cả chúng ta.

Tất cả mọi vẻ đẹp. Vội vã, đam mê nắm bắt, ôm cho được nhiều, thật nhiều trong vòng tay hạn hẹp!

Vội vã, bởi chúng ta đều biết cuộc đời ngắn ngủi và nghệ thuật thì vẫn là con đường muôn dặm, đường đi không tới! Đam mê, bởi Keats từng nói lên sự thực “Một vật đẹp muôn năm vui” Nghệ thuật và Đẹp là nguồn suối hoan lạc không bao giờ ngừng chảy. Đam mê, bởi trong những chiều tâm sự với Delacroix, bên cột đèn mờ ảo của Place Furstenberg, hay trong phòng tranh độc đáo của Constantin Guys, Beaudelaire luôn luôn chủ trương gạn đục khơi trong để chỉ nhìn , chỉ giữ lại phần tích cực, phần đẹp, tạm quên những gì mà theo một nhãn quan khác, có thể gọi là khuyết điểm nơi các tác phẩm (critique des beautés).

Độc giả hãy cùng người viết khoan thai, nhẹ nhàng mở cửa vào vườn hoa của chúng ta. Tạm bỏ quên các hệ thống, các lý thuyết ở ngoài cửa. Không lý giải, không lý luận. Người viết tự coi đó chỉ là phong cách riêng của mình. Và biết rõ là trên văn đàn còn nhiều thái độ phê bình, nhiều cách thế, nhiều ý hệ khác nữa, khi đến với tác phẩm văn nghệ. Theo quan niệm nào, thái độ nào cũng có phần tích cực và xây dựng. Miễn là hăng say nhập cuộc, không thờ ơ nguội lạnh. Miễn là chân thành tìm hiểu, tất cả bởi và cho văn nghệ…” (tr. 9-10)

Năm 1998, trong một phỏng vấn trên tạp chí Văn Học CA, ông đã cho biết về kinh nghiêm làm thơ của mình:

Thơ là cái gì mung lung, dựa vào cảm xúc nhiều nên tôi cứ tự thả trôi theo thi hứng. Cho thơ hồn nhiên nở ở đầu cành như một bông hoa đến thời, đến lúc thì xuất hiện, tự nhiên ở đấy, như do sự thúc đẩy của một nguồn sinh lực hữu cơ tiềm tàng nào đó. Hãy bỏ rơi rụng lại những lớp bụi bậm: lý trí lạnh lẽo, “mốt” thời thượng, phấn son làm dáng, ấu trĩ tầm thường, khuôn mòn bảo thủ ù lì hay cái “mới” a dua, giả tạo, hung hăng.

Cuối cùng như tôi đã nói nhiều lần chỉ cần biết bài thơ có đạt, có tới hay không. Có tân kỳ, có độc đáo, có làm rung chuyển cả tình cảm và trí thức và tình cảm của người đọc không. Có chân chất, có thơ hay không? Thật ra những ý niệm này cũng rất mơ hồ, chỉ “cảm” thấy thôi, mà cảm thì là chủ quan, khó phân tích, khó định lượng. Nhưng trực cảm, mặc dầu là phi ý thức, mặc dầu không đường biên rõ ràng, vẫn là cái gì đưa ta thẳng vào tận trung tâm sự vật, để vươn tới xứ sở của Chân Thiện Mỹ” (tr. 376).

Trong một phỏng vấn khác của Viên Linh trên báo Khởi Hành khoảng năm 1999, nhà thơ Trần Hồng Châu cho biết: “Khi bước vào thơ, chúng ta rất sợ. Không có cái gì làm chúng ta run sợ bằng thơ hết tất cả. Khi viết bất cứ cái gì, chúng ta không sợ, mà khi bước vào thơ, ta rất sợ. Bởi vì dù sao đi nữa thì Thơ là tinh túy của ngôn ngữ. Ðó là kinh nghiệm bản thân của tôi. Trong suốt cuộc đời dậy học, luôn luôn phải mổ xẻ và phân tích, bây giờ thì tôi đã bão hòa về lý thuyết. Tôi cứ để tự tôi theo cái dòng cảm xúc, thế thôi. Làm thơ là phải tìm cái mới. Mà nghề sư phạm người ta lại sợ cái mới. Cho nên là phải trả giá” (1).

Bút hiệu Trần Hồng Châu xuất hiện trên văn đàn miền Nam trên Thế Kỷ Hai Mươi số 2 (8-1960) với một bài thơ trường thiên, Paris chiều chia ly, sau đó thơ ông tiếp tục xuất hiện không nhiều nhưng đều đặn trên các tạp chí văn học khác của Sài-Gòn. Trần Hồng Châu đã mang đến cho văn học miền Nam một ngôn-ngữ tâm hồn của thời đại, một ngôn-ngữ thi ca đẹp, trau chuốt bên cạnh những Nguyên Sa, Hoàng Trúc Ly, Mai Trung Tĩnh, Tô Thùy Yên, Nguyễn Tất Nhiên, v.v. Bài Nửa khuya giấy trắng:

Mênh mông sầu đoạn đòi cơn

Nửa khuya giấy trắng tủi hờn tuyết trinh

Vắng em nương bóng tạc hình

Rưng rưng lệ sáp bên mình cô liêu

Gió về tám hướng ưu phiền

Ðìu hiu tuyết phủ mấy miền tâm tư

Trắng đêm hồn nhỏ bơ vơ

Lênh đênh suối cảm lững lờ hoa tiên

Vắng em hồn mộng đỗ quyên

Nước non hiu hắt tiếng huyền bâng khuâng

Ly tao dòng cạn khơi vần

Mưa đan đan mãi giọt nhầu ý thơ

Cỏ vong ưu khói lam mờ

Nửa ly mai lộ nguyệt hờ tắm suông

Bút say vọng tưởng giòng Tương

Mực say ảo mộng lạc đường héo hon

Ngỡ ngàng giấy trắng lòng son

Tuyết rơi rơi mãi gói tròn thương đau…” (2).

Sự nghiệp thi-ca của ông thực sự dày bề sâu tâm tư sau biến động 30-4-1975. Với ngôn ngữ thi ca đầy hình tượng, sâu lắng, ông chuyển thơ thành thông điệp trao gửi cho độc giả nhất là những người cùng cảnh ngộ – con dân “nhược tiểu” của nước Việt.

Hiện sinh lưu đày trên quê hương mình

Chủ thuyết quốc tế Cộng sản theo bộ đội miền Bắc cưỡng chiếm và đày đọa con người và miền đất đã phồn thịnh và tự do, khai phóng của miền Nam. Nhà thơ Trần Hồng Châu cùng gia đình đã phải sống trong cái địa ngục đỏ đó 15 năm trước khi được rời khỏi nước và định cư ở California, Hoa Kỳ. Một tâm hồn nhạy cảm như ông dĩ nhiên đã cảm nghiệm và sống cái hiện sinh lưu đày đó ngay giữa lòng phố của chính mình nay đổi chủ. Ở hải ngoại, sau tạp bút Thành phố trong hồi tưởng là tập thơ Nửa khuya giấy trắng trong có bài Tháng Tư … Mưa ngâu dầm dề:

Ngã Sáu Sàigòn có những bộ lạc về từ rừng sâu tiền sử

Từ kinh tế mới âu sầu mất hướng

Trại lưu đầy dựng bên bờ đại lộ quê hương

Bên kim tự tháp rác rưởi trầm ngâm

Lửa hờn căm đốt sôi lòng nồi nhỏ

Sưởi ấm ruột gan rét cong giữa trưa hè

Bằng mấy hạt cơm trừu tượng

Bằng vài lời hứa … thiên đường trần gian

Áo quần tả tơi / Bướm say vào mắt bão

Thịt xương lỡ lói / Tranh lập thể mơ hồ (…)

Tôi đứng giữa Sàigòn hay vẫn còn trong chùa Ngọc hoàng

Ở đâu có những âm cung

Rợn tóc gáy sởn da gà

Đường xuống địa ngục khúc khuỷu

Đường lên dương thế quanh co

(…) Đêm Vu Lan đêm vô vọng

Trong mưa ngâu dầm dề

Mưa ngâu nhỏ lệ … tháng Tư

Trời hụt hẫng mười hai đau xót (…)

(Nửa khuya giấy trắng, tr. 143)

Liên văn bản của thời địa ngục

Víết văn và làm thơ thời đất nước chiến tranh rồi khi hết đạn bom ngươôi dân bị rơi xuống đáy địa ngục, phải im hơi lặng tiếng. Con chữ, ý thơ cần đến những chuyện xưa điển tích cũ, những hình ảnh ẩn dụ, càng trở nên u uẩn, nặng tình. Mười Lăm Năm đó biết bao nhiêu tình và chuyện:

“… Đời loạn lạc / chó nhảy bàn độc
hậu vận bố con mình chẳng ra gì!
Bố đi bộ suốt Chợ Lớn Mới / Về Đại Thế Giới
Để dành tiền vé xe buýt
Bố mua hai đồng ô mai
/ Một gói đậu phụng
Bên cửa bếp / Hai bố con ngồi nhấm nháp
Vị xí muội mặn chát / Chua ơi là chua
Ôi men đắng cuộc đời
Ngọn gió nào bỗng thổi tứ tung
Vỏ lạc lá vàng bay
/ Hai bố con lặng lẽ
Cắn từng miếng me khô
/ Muối ớt cay cay
Từng quả cóc ngâm đường
Dôn dốt ngọt chua
Bố bảo: bố con mình, thế mà gân ra phết!
Bố nằm xuống đất rồi, lại càng thương bố..
Đời loạn lạc!”

Mười lăm năm tang tóc,
Mười lăm năm hoang tàn.
Mười lăm năm trong sổ đoạn trường.
/ Có tên!
Thay đời đổi kiếp,
Hờ ơi! Bình minh nào
Đất trời mờ mịt bốn phương.
Lưỡi lê giáo mác chật đường âm binh.
Đô thành không người vuốt mắt,
Bức tử / Niềm oan khiên rừng rực
Thái hằng sơn!”.

Người dân bị “đồng loại” đọa đày, không còn lựa chọn, phải ra biển tìm sự sống còn và sống cho ra con người. Biển Đông đã là nơi hàng trăm ngàn thuyền nhân bị chôn vùi dưới lòng biển sâu. Biển đã trở thành phần thi ca bi hùng trong thơ Trần Hồng Châu. Cảnh khổ nạn có, nước mắt cho những sinh linh biến mất dưới lòng biển, những thân tình ngày nào nay đã về đâu? Quê hương mở rộng ra biển khơi – Biển Oan Khiên:

biển vẫn biển quê hương
nối dài muôn trùng sóng
hò khoan vẫn bắc cẩu vồng nhớ nhung
lửa tiếp sức vẫn từ lòng đất mẹ…

nhưng dưới sâu / sâu nữa
vạn hồn thuyền nhân / sớm đi tối về
vẫn oan khiên / ngập tràn biển đông!

nước biển có giải oan

trắng tinh hồn nhược tiểu?

nước biển có mặn chát / vạn niềm đau?

nuớc biển có rửa sạch

ý thức hệ đen / đồ thán

chất ngất trời xanh?

sóng vật vờ / sóng thành đỉnh Hy Mã
sóng thành vực A Tỳ
thuyền lá tre vút lên lời nguyện cầu
đỏ thương đau
một hạt cát trong vô cùng sa mạc
một giọt nước trong vô cùng đại dương
đoàn hải khấu / ác điểu đen
bỗng đổ sập xuống một trời bóng tối
nữ tu, thôi hết nữ đồng trinh
nghĩa phu thê, thôi lời vĩnh biệt
em gái nhỏ, thôi nhé
dẫm nát một búp hồng non!

mắt loạn thị / đầu hoang tưởng
nhân ngư, ngư nhân
điệu hò khoan, ơ hờ!
ta đã đi đến tận cùng của cchịu đựng
đi! cho ta nắm bàn tay tuyệt diệu
cho ta vào lòng biển sâu
vào giấc ngủ vô thường…

dưới sâu vẫn vô vàn cánh tay
dằng dặc / dây xích oan khiên
về lòng đất / ai đây tiếp dẫn
chúng sinh hồn trầm lạc?

nghĩa địa lớn / thủy cung đen
nghĩa địa lớn / nghiêng nghiêng rốn biển sầu
trầm tích, hồn oan và thủy quái
cùng đến đưa giấc ngủ ngàn đời

người thiếu nữ trên đảo san hô
một mình với biển đêm / nối liền ý sống
bằng nghêu sò và rong biển
đè lên biến / đè lên thời gian và nỗi sợ
để tồn tại / bằng sắt đá niềm tin…

người thiếu nữ trên đảo san hô
ta sẽ dựng tượng em / giữa muôn trùng sóng
hãy nói lên niềm đau dân tộc
hãy vẽ lên dáng đứng quê hương
!”

(Nhớ đất thương trời. Tuyển tập Trần Hồng Châu, tr. 77-79)

Người thiếu nữ trên đảo san hô đã thành biểu tượng của sống còn trong cảnh dữ – như câu chuyện cô gái tên Huế mà báo Paris-Match đã khuấy động lương tâm của những con người còn là người.

Nhà thơ mong sóng biển sẽ đưa oan hồn những kẻ vượt biển không may mắn và cả ván thuyền bị sóng đánh vỡ tan trôi giạt về cố hương:

Sóng hãy vỗ về / Mấy hồn người lạc lõng

Mấy ván thuyền đau buốt / Trôi giạt về bến xưa …”

(Xuân và biển thiếu quê hương)

Càng nhìn biển, nhà thơ càng thương nhớ quê hương:

[…] Nơi xa đó

Diện đối diện nửa vòng xích đạo

Có phải quê hương ta?

Bãi trước Bãi sau / Ngôi nhà tranh xiêu vẹo

Em bé thiếu dinh dưỡng

Người mỏng như sợi chỉ bàn tay

Vẫn biển một khối liền

Vẫn một gầm trời chung

Vẫn một em mây hồng lãng đãng

Mây cho ta nhắn gửi / Lời về thăm cố lý […]”

(Xuân và biển thiếu quê hương)

Biển đã là con đường hành hương tìm Tình người và Tự do. Biển cả đã như nổi ám ảnh của nhà thơ – cũng như nhiều người Việt-Nam khác, hãy đọc đôi đoạn bài Ở biển về ngòi trong tập Nhớ đất thương trời:

Biển là mây gió

Biển là Tự do không bờ bến

Ôi đau xót từ biển về ngòi

Ôi ta có tội gì kiếp trước

Để hôm nay đánh mất cả thiên đường!

[…] Ta ghì ôm biển vào lòng

Biển người tình bé bỏng

Ôi đau xót từ biển về ngòi

Ôi đau xót những thiên đường lỡ hẹn![…]

Biển cũng đưa con tàu “cuộc đời” nổi trôi theo định mệnh và thời gian:

“Tôi là con tầu lênh đênh sóng vỗ

Lắc lư say theo nhịp hải hành

Về những thương cảng buồm thuyền như bướm lượn

Về những chân trời lộng gió biển mù khơi

Hay con tầu là tôi ngoài biển đời nhấp nhô

Nổi trôi theo định mệnh sợi chỉ bàn tay …”

Con tàu nhắm đích đưa ta đi tìm sự sống, nhưng cũng có thể phải gặp trắc trở đưa vào chốn tù đày như “thân tàu chết đứng trong vũng nước tù…”:

Đêm nay chợt tỉnh giấc / Thế giới nào đây?

Thân tầu chết đứng / Trong vũng nước tù

Xiềng xích / Cửa đóng kín!

Mệt lả / Mình lở lói / Rêu xanh […]”

(Ở biển về ngòi)

Trong Ngủ ngon đi nhé biển tuyệt vời, biển là tình yêu:

Tôi mở rộng vòng tay

Ghì ôm biển vào lòng

Ngủ ngon đi nhé biển tuyệt vời!

Ngủ say giữa lòng vũ trụ

Trăng sao vằng vặc mịt mùng trăng sao …”

Biển là mắt em xanh

Mắt em từ đỉnh trời cao xuống

Hay từ lòng biển dấy lên?

… Làm sao có thể nhìn đáy mắt em

Trong võng mạc biển sâu màu trừu tượng”

(Nửa khuya giấy trắng. Tuyển tập Trần Hồng Châu, tr. 118-121)

Biển có thể dậy sóng khi bất bình, phản ứng. Nhà thơ sống với hy vọng và thơ làm sống dậy niềm tin và cái Thiện Mỹ không gì khuất phục được – trong Làm thơ sau cơn hồng thủy:

nhất định / sấm sét cuồng phong sẽ vùng dậy
từ những đốm lửa nhỏ
từ những di động vi ba
Tần Thủy hoàng chết khô
/ Trong lửa đỏ Hàm Dương
phần thư! phần thư!
nhưng bài thơ vẫn tồn tại
trọn vẹn / ung dung
/ trên nẻo đường khai phá
nẻo đường tự do”
(Hạnh phúc đến từng phút giây
Tuyển tập Trần Hồng Châu, tr. 266)

Liên văn bản lưu vong

Với tập Nhớ đất thương trời, nhà thơ một thời khoa trưởng đại học tư duy chín mọng, đi vào cái buồn triết lý, nhiều suy tư về hệ lụy làm người xa xứ và về tính nhân bản. Lưu vong như là hậu quả của chiến tranh và chia cắt, ly tán, đã được đa số các nhà thơ hải ngoại đưa vào tác phẩm của họ. Một ngày nọ, đứng ở Florida, vùng đất khá tương cận với khí hậu và thiên nhiên của quê nhà, nhà thơ không thoát khỏi nhớ nhung, thương tưởng và so sánh:

“Bên trời lận đận / Lau lách đìu hiu
Ta muốn hôn / Cánh vạc lẻ
Ngoài đầm vắng / Đất bùn xa lạ
Sình lầy quê hương  . . .
Cây si tùng bách / Linh hồn xứ lạ
Có những tổ chim / Nhìn về phương Đông  . . .
Người lữ khách cô độc / Bốn bề trùng vây
Thương cây hay thương mình? . . .
” – Florida
(Tuyển tập Trần Hồng Châu, tr. 80-81)

Đến tập thơ Suối tím được hoàn tất vào cuối cuộc đời nhà thơ, cạnh những bài thơ tự do thật mới là những bài thất ngôn khuôn cũ. Ở giai đoạn sinh-lão-bệnh của tuần hoàn này, màu tím mênh mang như từ xa xăm nhập vào thi ca như những lời buồn chứa đựng suy tư, triết lý nhân sinh cũng như siêu hình vượt mọi cương tỏa:

Nước trôi suối ngọc tê hồn đắm
Âm sắc tím chim gọi ngàn năm
Buồn cây chìm bóng cỏ đu võng
Vết thương sỏi trắng đau bộ lạc
Nằm nghiêng nôi lạnh có buồn không?

Liên văn bản của nhung nhớ quá vãng

Nếu Hà Nội và Sài Gòn là những mảng ký ức đẹp thì Paris đã là nơi chốn đưa nhà thơ đến với những vùng tâm thức sâu lắng của bước đầu văn chương nghệ thuật. Nếu trong Paris chiều chia ly của cuối thập niên 1950, nhà thơ khi hồi hương đã không thể không

(…) Nhớ một bông hồng Fontenay
Một hành lang biển rộng Sorbonne
Một thảm cỏ đồi Montsouris
Nhớ đôi chân son và hồn song song giữa lòng
ga Saint Lazare một chiều ly bôi mà ánh vàng
cô đọng trên tóc xõa
và trong rượu mạch hoàng hoa
(Thế Kỷ Hai Mươi, 2, tr. 19-25)

thì sau 1990, với cuộc sống lưu vong, ký ức, kỷ niệm càng trở nên thắm thiết, như trong tùy bút Paris chiều tái ngộ:

Gần nửa thế kỷ trước tôi đã từ biệt Paris trong một chiều rất Đường thi và cũng rất đô thị hiện đại. Hình như, với những hoàn cảnh gây xúc động lớn, mọi ý niệm không gian, thời gian đều nhạt nhòa, xáo trộn. […] Tôi đã đau xót giã từ một vùng kỷ niệm êm đềm. Chân đi nhưng mắt còn nhìn theo với, cố thu góp một lần cuối, tất cả đường nét, mầu sắc từng là thành tố của một thời xây dựng trứ thức và tình cảm. Nhất quyết không muốn vĩnh biệt Paris mà chỉ là tạm biệt. […]

Nay trở về thăm trường cũ, phân khoa xưa, cảnh đấy người đây đã đoạn trường: “Tôi lặng lẽ bước ra cửa trường. Chân lảo đảo, lòng trí bất định vì kỷ niệm xưa di động hỗn loạn, ngang dọc trong đầu. Nhưng ngoài cửa, hàng cột khổng lồ vẫn chắc nịch, thẳng vút, minh bạch, đen trắng, rất vô tình và tự tin, đứng đó từ bao thế kỷ rồi! Chúng chẳng buồn lý đến nỗi xao xuyến, bàng hoàng của một cá nhân nhỏ bé, vừa đặt bàn chân đè mạnh lên bóng chúng đổ xuống thành những vệt đêm dài giữa trưa hè, vẫn sắc nét và không cảm tính...” (3)

Tùy bút Trần Hồng Châu lãng mạn khơi mở những dòng cảm xúc thắm thiết nhập vào con chữ đam mê và hạnh phúc. Ông nhớ Hà Nội, nhớ về chợ hoa, ông như muốn sống lại một thời niên thiếu xa xôi: “… Ở đây, màu sắc quả là siêu đẳng nghệ thuật. Chợ Đồng Xuân ngày trước Tết là một trời hoa. Hoa giấy, hoa cây và hoa người. Hoa ngoài chợ, hoa trong chợ… khách si giữa hoa, thở hương hoa, chiêm ngưỡng sắc hoa… Ai đã dồn về đây tất cả người đẹp của băm sáu phố phường? Ai đã xê dịch những vườn hoa còn đẫm sương mai của Yên Phụ, Nghi tàm về đây, về trung tâm Hà Nội?

Cúc vàng, cúc trắng, hồng nhung, thược dược, lan nhất điểm,… một bản nhạc hoa mà nhạc công là những cô hàng, áo tứ thân, điểm thêm một giải thắt lưng màu hoa lý hay cá vàng, vì Tết sắp đến… Hoa sống và hoa cây tự tô điểm rồi cảm thông với nhau. Và tại sao hôm nay trong vườn hoàng cúc giữa chợ Đồng Xuân tôi lại gặp một bạn gái mặc áo vàng, trùng tên với hoa mùa thu? Có những tình cờ, những chuyện thực, nghe hoang đường như một bịa đặt, tuy vẫn là chuyện thực…

Thi nhân nhớ đến Hà Nội của ba mươi sáu phố phường ngày xưa, và những giai nhân một thời:

Một mùa hương cốm vòng
Ta thở đến trăm năm
Một bàn tay Hàng Đào
Ta mê đến triệu ngày
Bàn tay Tố Tâm / Vàng phai khuê các
Trầm thủy Hồ Gươm
Bàn tay cô Phượng ngoài mồ
Tay Liên gánh hàng đỏ tóc xanh …
Rưng rưng sông Hồng
Nghiêng mãi mái thu
Nơi đó ta từng yêu
Những người con gái bàn tay búp măng
. . .”
(Bàn tay Hàng Đào. Hạnh phúc đến từng phút giây, Tuyển tập Trần Hồng Châu. tr. 225, 227)

Nhưng với Sài-Gòn, mỗi khi nhớ đến thì hồi tưởng, thương nhớ, xúc động, trước hết là mái trường Đại học Văn-khoa:

Tôi yêu những tấm lòng trinh bạch và màu trắng đơn sơ, hồn hậu, màu thanh bần lạc đạo trên vách tường Văn Khoa, Văn Khoa linh hồn thầm kín của Đại học và quê hương trong những mùa lịch sử, nóng bỏng, sôi động. . . Tôi yêu màu trắng chiều đông, hơi ngả sang màu xám hay xanh nhạt, của trường cũ cũng như trường mới, thoáng gợi cái mong manh, u buồm của lớp phấn light blue shadow nằm dài trên mí mắt, khi những cửa sổ linh hồn bâng khuâng, ngỡ ngàng, dường như mở rộng, cuốn chúng ta vào muôn vạn nẻo đường mịt mùng, xa vời vợi, hun hút sâu như vực thẳm giữa lòng đại dương. […] Nhớ thương luôn nên mắt có quầng viền!

Tôi yêu màu trắng ngà của tơ lụa nõn, của áo vân Hà Đông trên mình người nữ sinh viên, trên mình đàn bướm trắng biết tha thiết yêu Văn, Triết, Sử ( nhưng cũng biết rùng mình sợ chính những đối tượng quyến rũ đó. . . . những khi mùa hè xích lại gần hay hoa phượng nở nhiều thêm). Đàn bướm trắng ngày ngày chập chờn, tản mác trong giảng đường, ngoài dãy hành lang xa tít tắp và trên ngọn cỏ lá cây của khuôn viên Cường Đễ, lúc nắng chia nửa bãi chiều rồi...”. (4).

Sài-Gòn, thành phố ấy, đã như sống mãi trong tâm hồn nhà thơ, sống động và cụ thể như những mảnh tình, mà đồng thời đã như những huyền thoại, truyện kể:

Thành phố cũng như một người thân thuộc. Sống gần nhau, gặp gỡ hàng ngày, vào ra đụng chạm, ta coi sự hiện diện của người quen, của tha nhân bên cửa sổ, như một yếu tố hiển nhiên, bình dị, không có gì đáng nói.

Bỗng vào một hôm nào, một giờ nào đó, ta chợt bắt trên khuôn mặt quá quen thuộc, bình thường của cô hàng xóm, một nét đẹp bất ngờ. Nắng quái chiều hôm, lúc đó, có thể viền một lớp vàng diệp lên mái tóc cô gái làm ta cảm động đến rạo rực, bồn chồn, vì nó có vẻ “mây” hơn, “suối” hơn. Hay, vào một buổi sớm, thoảng gió heo may làm se người và rụng tả tơi mấy chiếc lá vàng không thể thiếu được trong một cảnh thu cổ điển, ta bỗng thấy mắt cô bé “ướt” hơn, “sầu mộng” hơn. Và ta hối hận vì ngày thường trong cuộc sống vội vã, dồn dập, đã để trôi qua mất những phút giây quý báu, đáng lẽ phải được dành cho những khám phá trân trọng, những nâng niu đượm tình người hơn. […]

Ði xa hơn nữa tới vùng Nancy, mang tên con gái êm đềm của một vang vọng tình cảm, là đường Cộng Hòa mà tôi tạm gọi là sông Tương chảy vào Trường giang. Ngược dòng Tương thủy thì tới Ngã Sáu, công trường rộng lớn như một Ðộng Đình Hồ của những truyền thuyết xưa. Ở đây, có lẽ đã có nhiều mối tình dang dở, ngăn cách, quân tại Tương giang đầu… Ở đây, tôi cũng có những người bạn lớn tuổi, đã lặng lẽ ra đi như “tích nhân” của một Hoàng Hạc hay Nhạc Dương Lâu nào đó, nhất định phải có trên ven “hồ”, bập bềnh sóng vỗ, từng đợt ngựa xe, vào những giờ cao điểm.

Về phía hạ lưu của đại lộ đổ vào chợ Bến Thành thì cũng là một vùng Giang, Triết phồn hoa, mặc dầu mặt trái tiêu cực, của nơi thị tứ nhộn nhịp, bon chen. Ðây cũng là một trong vài tụ điểm của những người đẹp Sàigòn. Một trong vài vương quốc của phụ nữ đô thành, của những cái gì đem lại một tấm linh hồn yểu điệu, nồng thắm cho trái tim miền Nam này…

Phấn son, tà áo đỏ, xanh, vàng như cánh bướm, cộng thêm là muôn ngàn công việc nội trợ linh tinh. Có khi là những bước tản bộ khoan thai, có khi là những chiếc 403 đôn hậu, trang nghiêm hay Dauphine nhẹ nhàng, diêm dúa. Có khi là những chiếc Solex bé bỏng, tưởng chừng như có thể ôm lọt trong vòng tay cả nữ chủ nhân lẫn giàn xe duyên dáng […] Ai trong chúng ta, ở bất cứ tuổi nào, mà chả có lần rung động trước những ánh mắt, nụ cười chợt thoáng gặp ở vùng trung tâm Sàigòn? Và chắc nơi đây cũng từng in dấu ấn ngậm ngùi hay chua xót của hơn một mảnh tình, mong manh như cát bụi đang chìm nổi trong không gian Sàigòn hai mùa mưa nắng:

Hôm nay tôi buồn hỏi gió hỏi mây

Bước chân em lưu lạc phương nào hay vẫn vào ra sáu cửa Bến thành?

Những bước chân đó tôi đã từng theo dõi trong mấy phiên chợ Tết của một mùa xuân xưa cũ. Tôi còn nhớ gì không? Chỉ biết lúc đó vùng trung tâm Sàigòn, quanh khu chợ, là cả một biển ánh sáng rập rình, lung linh. Lớp lớp sóng người, trong vòng tuần hoàn lớn của niềm vui đầu xuân, cùng chen vai thích cánh, di động, bao vây chợ Bến Thành trong vòng tay lớn của tuổi trẻ đô thành… Hiện thân của nhiệt tình và hoan lạc… […]

Chiều và đêm xuân Sàigòn có khả năng biến hóa như thế đó! Những đường nét sắc cạnh gồ ghề, thô lậu của thực tiễn đã được gọt giũa, trau chuốt để tất cả dần dần chỉ còn là nhạt nhòa sương khói, trong những kích thước rộng mở, đưa đẩy dần dần vào vùng trời huyền diệu. Cái huyền diệu của sự vật hàng ngày quanh ta. Cái đẹp của con sông nước chảy đôi dòng, chập chùng giao thoa giữa thực và hư, giữa tỉnh và say…” (Buổi chiều hằng cửu. Thành phố trong hồi tưởng, tr. 147, 151, 152-153).

Nước và biển, đã là những ám ảnh, tình tự đối với nhiều nhà tư tưởng và làm văn học nghệ thuật. Với Trần Hồng Châu và trong Thành phố trong hồi tưởng, biển nước thêm một dịp hóa thân thành nghệ thuật như lời ông viết trong tùy bút Guam:

Hoàng hôn trên đảo Guam […] Biển vẫn rì rào vỗ sóng. Một giải xanh lợt viền sóng bạc. Xa và trên nữa vẫn là tấm lụa muôn màu của hoàng hôn. Ðây là đại dương, cánh cửa mở tung, trời nước không giới tuyến. Không một cánh hải âu, không một vết ngọc bích lờ mờ của đất liền ngoài khơi. Ở nơi mênh mông bát ngát này hình như mây cuối ngày cũng dàn trải rộng hơn, rực rỡ hơn […] Có phải người tín đồ họa sĩ, ở vào thời đạo giáo và nghệ thuật còn pha trộn, đã tìm thấy nguồn cảm ở bình minh và hoàng hôn trên mặt biển, để thể hiện cảnh khai thiên lập địa trong những pho kinh thánh huyền bí và thiêng liêng?[…]

Mây và mây, đủ màu sắc, đủ vóc dáng. Lúc đó mới thấy lời nói con người, tù túng, giới hạn, ngăn sông cách núi, lúc đó mới thấy khoảng cách giữa ý và lời. […]

Hãy cho tôi mượn cây bút sơn của họa sĩ! Lúc pha màu mới thấy những khám phá kỳ ảo, những gặp gỡ bất ngờ nhất. Muôn ngàn sắc tố, nhưng không sắc nào giống nhau, luôn luôn biến chuyển và không thể tái tạo được. […] Hôm nay tôi ý thức được rõ ràng mối thâm tình ràng buộc Thơ, Họa, Nhạc và mơ màng vươn tới một nghệ thuật toàn diện, bao trùm, điều hợp” (Guam, tr. 27, 30)

Cho nên tôi cũng không còn vương vương buồn trước dòng sông. Tôi không đứng im. Tôi vẫn chảy trôi không ngừng. Tôi là dòng sông. Ðạm đạm trường giang thủy. Trong tôi có biết bao nhiêu dòng chảy. Dòng máu luân lưu. Dòng điện thần kinh bén nhậy. Dòng sinh khí từng luồng âm ba lùa vào từng kinh, từng mạch. Cuối cùng là dòng sông tư duy, dòng thời gian tâm lý, bản thể và chứng nhân cho sự hiện hữu của tôi” (Guam, tr. 18).

Những bài thơ tình của Trần Hồng Châu là những bản tình ca độc đáo, trầm lắng, đa nghĩa. Tình ở ông là tình quê hương, gia đình, đồng loại, bạn hữu (Vũ Khắc Khoan, Nguyên Sa, Nghĩa trang Westminster gặp bạn cũ, v.v.). Một tâm hồn nhạy cảm và trung thành với cái Đẹp khi đặt bút sẽ “hiện thực” ra thành những “Nàng”, “Em”, … Giai nhân ở đây có thể là một “Em thơ trừu tượng”, hay nàng Thơ, nàng Ly Tao:

“Em Giáng Thơ kiều mị
Hôm nay ngày của Em
Ngày tôn vinh Thơ
Thơ xóa nhòa biên giới thời, không gian
Thơ không trường phái, không khẩu hiệu
Thơ hoàn toàn giải thoát. . . .
Em Giáng Thơ kiều mi
Gió đã lên!
Anh đang chắp cánh cho Em, cho Thơ
Trên hoa tiên những trang giấy rực màu ánh sáng!”
(Nửa khuya giấy trắng, Chắp cánh cho thơ. Tuyển tập Trần Hồng Châu, tr. 101+).

Hoặc “tình ta hạt cát biển đông / Cuốn theo chiều gió một vòng hư vô” (Hạt cát Biển Đông)

*

Trần Hồng Châu yêu thi ca và hiểu được thể tính và tính vĩnh cửu của giai điệu ngôn ngữ. Bàn luận về thơ – cũng như giáo dục –, ông có đam mê, nhiệt tình của một người đi tìm cái Đẹp, cái Chân lý và bảo vệ chúng tới cùng. Thơ của ông có cái tư duy của trừu tượng mà đôi khi giản dị và sát thực tế của nghệ thuật hiện thực. Thơ Trần Hồng Châu cũng như con người ông là sự kết hợp tài tình giữa kiến thức hiện đại với nghệ thuật truyền thống dân tộc.

Ông là một tác giả độc đáo của văn học Việt-Nam, hòa trộn Ðông phương và Tây phương trong thơ văn, tư duy chín mùi và cảm nhận nghệ thuật cùng trên một trang giấy, có khi trong một dòng chữ. Nhà thơ tự cho sứ mạng tổng hợp hài hòa hai nền văn hóa Ðông Tây, cảm tính và trí tuệ – như nội dung bài Tôi đi trên những cầu kiều:

Tôi đi trên những cầu kiều
Từng con phố nhỏ quạnh hiu trong lòng

Bâng khuâng mây trắng xây thành
Từng cơn nhung nhớ bên mành nhớ nhung

Cầu xưa vua đắp còn đây
Cầu em dải yếm cũng gầy tương tư

Tôi đi trên những cầu kiều
Từng nơi hò hẹn tiêu điều dấu chân
Ngậm ngùi vạt áo Hà Ðông
Một con bướm trắng bên sông hững hờ

Cầu xưa lá rụng tơi bời
Cầu tôi đuôi mắt mấy trời đam mê

Tôi đi trên những cầu kiều
Từng hồn thu cũ bóng chiều chưa phai”

(Hạt cát Biển Ðông, Tuyển tập Trần Hồng Châu, tr. 71)

Bướm trắng (Nửa khuya giấy trắng):

Sông xanh xanh, sông chở đầy ân ái

Trường hồng hồng, trường mang mãi tình non

Quá gần nhau sao vẫn nhiều quan ải

Mấy mươi lớp phù kiều dáng mắt em!

Chủ nhật đây nắn nót chữ thơ hồng

Lòng phơi phới hội mở gió như nhung

Ghé Thiên thai anh trao tình thứ nhất

Tay ghi dòng nhật ký buổi tương phùng

Áo trắng xưa bướm cũ còn vương vấn

Ðêm thao thức hồn chĩu nặng buồn thơ

Mộng mơ anh say say mầu hồng phấn

Tóc huyền châu trong khuôn cửa trường bên

Bờ sông thơ gió vương tình bướm trắng

Em đi nhanh nón nhỏ gót hồng son

Bỗng hoa lá chập chờn trong vắng lặng

Hồn bâng khuâng rực rỡ ánh lưu ly

Bước ngập ngừng vân vi mi chớp nhẹ

Tình mang mang hò hẹn mái đò xưa

Mộng thanh xuân tuổi ngọc về đây nhé

Về đây nhé bướm trắng mộng thanh xuân!

Chất trí tuệ lãng mạn, mà nguồn gốc cả từ Đông Phương lẫn Tây Phương đã làm sâu sắc thêm những suy tưởng, và thành chỉ nam cho những cuộc kiếm tìmtrong hành trình làm mới trong sáng tạo, đã có sáng tạo tân kỳ về phương diện văn học, một ngòi bút trong sáng, mới lạ để làm sao đi đến Thân phận con người, nhất là người Việt-Nam nhược tiểu, nhưng thiên nhiên may mà còn đó:

Trừu tượng hóa, tách lẻ, giữ lại những gì mang tính cách nguyên lý và tổng quát nhất, là một thao tác triết lý. Biểu tượng hóa từ cái phức tạp, máu thịt của sự vật, vươn lên cái huyền diệu thầm kín nhất ở trung tâm, ở thượng tầng, nếu không muốn nói ở thế giới ý niệm, để dựng xây nên một hình tượng đẹp, lý tưởng, đó là một thao tác nghệ thuật” (Guam, trang 27)

Bài Áo biếc mùa xưa (Nửa khuya giấy trắng):

“Lạc bước phiếm du mùa lửa đỏ

Cố đô ly loạn khói mờ say

Ai đi chập chờn trong nắng biếc

Mái nhạt đền xưa ẩn bóng mây

            Hành lang rêu phủ sầu hoa sứ

Áo vân phong gấm nhớ kinh thành

Mắt biếc hồn trao môi thần động

Ý thu khắc khoải mộng khôn đành

            Ai về ngất ngưởng hương men đắng

Tám hướng cửa ô say mềm say

Ngõ về gác trọ nửa vầng trăng

Lung linh gió biếc gợn ưu phiền

            Ai về mờ nhạt mơ Tình sử

Chơi vơi lửa sáp vờn yêu nữ

Ðiệu biếc hồn trinh thơ nở muộn

Trắng đêm ôm mộng trắng da ngà

            Một góc thế kỷ nhiều nhung nhớ

Áo biếc mùa xưa sương khói phủ

Hương sen lãng đãng vương niềm tục

Bến mê tiềm thức vẫn về chơi

            Liêu trai mộng biếc xa vời

Thiên thu nửa gối đất trời phút giây.

Bài Cỏ vong ưu:

Cỏ vong ưu cỏ tương tư

Thơ say mộng ảo lòng từ bến mê

Bên sông mưa tuyết não nề

Trăng khuya sầu tủi nghiêng về bình minh

Ai đi trong kiếp hóa sinh

Phù du rủ cánh bên mình héo hon

Ai đi mấy độ trăng tròn

Một ta đất trích mỏi mòn áo xanh

Khói lam xây ngất trường thành

Ðốt bao nhiêu cỏ cho vành môi se

Rượu mơ một đấu cay sè

Say bao nhiêu chuyến vẫn thề chưa say

Khói lam tuyệt đỉnh chân mây

Sầu lên đôi mắt vơi đầy lả lơi

Một ta một bóng một đời

Ta đi bóng mãi chẳng rời xác ve

Xót xa mấy thuở đê mê

Bướm bay cửa động lời thề nhân gian

Lênh đênh bọt biển tuần hoàn

Chiêm bao mộng triệu vô vàn lệ châu

Kim đâm vào thịt thì đau…

Mờ xưa kỷ niệm ban đầu còn dư

Cỏ vong ưu cỏ tương tư

Thơ say mộng ảo lòng từ bến mê

Trắng đêm đỏ lửa sơn khê

Khói lam tuyệt đỉnh đi về hư vô” (Nửa khuya giấy trắng)

Bài Nghĩa trang Westminster gặp bạn cũ:

Bạn cũ tìm thấy lại

(Nửa thế kỷ / Một đại dương)

Tuổi đời chồng chất chín đợt phù đồ

Sợi bạc phơ / Phất bụi trần

Ngàn trắng / Bướm hoa lau

Ngàn năm mây trắng / Trùm lấp nghĩa trang

Trắng tay cuộc đời!

Sao cỏ vẫn xanh / Trên thân chết lạnh

Sao môi con gái vẫn hồng

Ôm bó hoa vẫn vòng lửa bỏng

            Ta hờn / Màu xanh sắc đỏ

Ta hờn / Búp nhỏ bướm non

Nơi còn nguyên si / Chiếc bánh cuộc đời

            Ta đang đi về cửa mồ bỏ ngõ

Bước chân cùm nặng/ Kỷ niệm ngàn cân

            Người thiếu phụ gục đầu

Bia mộ rưng rưng / Hóa thạch khăn sô

Vai gầy rung lên

Không đỡ nổi trời đông xám chết

Không đỡ nổi nỗi đau đi thẳng vào tâm thất!

            Ta đứng ngây tượng đá

Ðời vỡ tan từng mảng lưu vong

Chân trời xa / Có trở lại hòn đất, ngọn cỏ

Cuống nhau? / Ðời vàng vọt

Thiếu quê hương!

            Không, ta chưa muốn chào vĩnh biệt!

            Chưa cạn hết đáy ly ân ái

Chưa quặn hết niềm đau sông núi

Chưa nói hết lời thơ hằng cửu

            Không, ta chưa muốn chào vĩnh biệt!

            Không gian hiển hiện

Trắng bạc nghĩa trang / Trắng hồn cô lữ

            Bạn ơi, mặc lá vàng rơi!” (Hạnh phúc đến từng phút giây)

Một trong những bài thơ cuối, Sinh nhật, 2000 Cõi trống – nhân dịp một sinh nhật, nhà thơ trãi lòng – cũng có thể xem là những lời độc thoại nội tâm, tâm sự về những hoài bão, những mối tình hoa văn và cuối cùng chỉ còn một màu tím và “ánh mắt em”:

đăm ngọn nến mỉm cười / trên boong tàu Vệ nữ

tàu bánh kem ngọt lừ

nên không thắp sáng cõi vô minh

sinh nhật không níu áo thời gian!

mênh mang mịt mờ / đỏ vàng xanh lơ trời buồn

châu thân hồng trần

bềnh bồng phù vân đêm trường  […]

chiếc lá vèo bay / thuyền tình sóng dậy

đưa đẩy bóng thời gian / ta có tan tác bàng hoàng

tịch mịch tinh cầu đi hoang

bằng thịt xương không gian

bằng tâm thức thời gian?

Nỗi chết, niềm tha hóa

đi trên cánh hoa … “bất diệt”

hữu hạn, vẫn tưởng không cùng! / chẳng còn gì!

ánh sáng lịm tắt cùng ta

những triết thuyết rụng rơi cùng mọt sách

những mặc khải sao đi mãi chẳng về

những thành đạo sao mất hút ngoài bến mê

chỉ còn em / hạt bụi rực rỡ

vào đây, hội mở trần gian

đón tay em / sinh nhật bến đỗ

sông kia bên lở bên bồi

chỉ còn ánh mắt em

thực, ảo / một, vô vàn

ánh mắt cầu vồng / ánh mắt tím

tím ngắt một bừng nở đào hoa!

đêm sinh nhật, 2000, cõi trống”.

 

Chú-thích

1- Người Việt CA, 1-3-2017.

2- Trích từ Vấn Đề, số 50, tr. 56.

3- Văn Học CA, số 128, 12-1996, tr. 66-85.

4- Tình Khúc Đại Học, Trích từ Vấn Đề, số 42-43, Xuân Tân Hợi, tr. 47-48.

 

[Văn-học Việt-Nam 50 Năm Hải ngoại. Q. Hạ, 2025, tr. 516-539]

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.