Khủng hoảng tác giả và sự trỗi dậy của độc giả trí tuệ nhân tạo

Tino Cao

Không phải đợi đến khi các mô hình tạo sinh văn bản bùng nổ thì câu hỏi “ai là người viết” mới rơi vào thế rối rắm. Văn học hiện đại từ lâu đã nhiều lần tìm cách phá vỡ tính trung tâm của tác giả: đặt lại vấn đề về giọng kể, thử nghiệm những đột biến trong cấu trúc tự sự và nghi ngờ cả khả năng tồn tại của “ý thức” như một điểm quy chiếu ổn định. Nhưng tất cả những chuyển động ấy vẫn là những cuộc nổi loạn nội tại của chữ nghĩa, diễn ra trong giới hạn của kinh nghiệm con người. Trí tuệ nhân tạo, trái lại, không xuất hiện như một đối tượng để văn học hấp thụ mà như một biên kiện ngoại lai (exogenous boundary event), một can thiệp đến từ ngoài phạm vi của đời sống chữ nghĩa, làm bật lên những giả định vốn được xem là hiển nhiên. Nó không thách thức tác giả bằng việc viết hay hơn; cái nó tác động là khả năng tạo ra văn bản mà không cần đến một đời sống thật sự phía sau văn bản. Chính sự vắng bóng của đời sống này mới khiến những nền tảng tưởng như vững chắc của lí thuyết văn học bắt đầu rạn vỡ: từ bản thể của tác giả, quan niệm về kinh nghiệm, đến cách ta hiểu thế nào là đọc và thế nào là phê bình.

Từ trước đến nay, khi nói đến tác giả, ta không chỉ nói đến người kí tên dưới một văn bản. Ta nói đến một chủ thể viết, một ý thức được tích tụ qua thời gian, được xác định bằng lịch sử cá nhân, bằng những va đập của hiện thực, những lựa chọn đạo đức và phần lắng đọng khó nhận biết của đời sống. Trong ý nghĩa ấy, tác giả không phải người “tạo chữ” mà là người có khả năng biến trải nghiệm sống của mình từ một hiện thực hỗn độn thành cấu trúc ngôn ngữ mang sức nặng. Viết, vì thế, không phải một thao tác mà là một phương thức hiện hữu. Và chính vì vậy, dù văn bản có xa cách đời thực đến đâu, nó vẫn là sản phẩm của kinh nghiệm. Khi một câu văn chạm đến người đọc, điều khiến ta rung động không nằm ở kĩ thuật mà ở lớp kinh nghiệm đã thẩm thấu qua câu chữ ấy.

Sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo đã làm lộ ra một lỗ thủng ngay trong quan niệm ấy. Nó tạo ra văn bản không khởi phát từ những trải nghiệm cụ thể, cũng không phải từ một ý thức có lịch sử. Không mang theo tích tụ tinh thần và những biến đổi được hình thành qua thời gian, nó vận động bằng xác suất, dựa trên những tuyến ngôn ngữ được tối ưu để diễn giải trôi chảy nhất. Vấn đề không nằm ở sự phân biệt giữa “giả” và “thật” mà ở chỗ chữ nghĩa được tạo ra theo cách này tuy đầy đủ về hình thức nhưng lại không mang trọng lượng của kinh nghiệm. Lần đầu tiên, ta đứng trước những văn bản không có cội nguồn nhân sinh nhưng vẫn đủ dáng vẻ để được đọc, được lan truyền, được bình phẩm và được xem như một phần của đời sống chữ nghĩa.

Chính sự tồn tại của những văn bản vô chủ thể sống này làm xuất hiện một loại khủng hoảng lạ: khủng hoảng đến từ sự vắng bóng. Tác giả không chết theo kiểu Barthes hình dung, vốn là một cái chết mang tính biểu tượng để giải phóng văn bản khỏi quyền uy cá nhân mà tan rã theo một cách phức tạp hơn: tác giả bị thay thế bởi một thực thể vốn không có gì để “chết”. Điều bị tấn công không phải quyền lực của tác giả. Nó là nền tảng của chính khái niệm này: ai là tác giả khi văn bản có thể được sinh ra mà không cần một ai? Nếu tác giả là người kí tên, câu trả lời rất đơn giản. Nhưng nếu tác giả là chủ thể chịu trách nhiệm cho ý nghĩa, là kẻ duy nhất của kinh nghiệm, thì chính ta lại đang đối diện với một khoảng trống chưa từng có.

Khoảng trống ấy khiến nhiều khái niệm khác bắt đầu rạn nứt tính khả tín của nó từ nội hàm cho đến ngoại diên. Hư cấu, vốn là phương thức để con người nén trải nghiệm vào một hình hài khác, nay bị thách thức khi một văn bản có thể giả lập hư cấu mà không cần trải nghiệm. Phong cách, vốn là kết tinh của lịch sử cá nhân, giờ đây có thể được tái tạo bằng cách trộn lẫn những dấu vết phong cách khác. Giọng văn, từng là biểu hiện của một vùng tâm trạng cụ thể, nay có thể được sản xuất như một hiệu ứng kĩ thuật. Một tác phẩm có thể có giọng điệu, nhưng không có người. Có thể mang hơi hướng của một kinh nghiệm, nhưng không có kinh nghiệm nào nằm sâu bên dưới.

Đây không phải là mối đe dọa theo nghĩa cảm tính, không phải nỗi lo rằng “trí tuệ nhân tạo viết giỏi hơn thì nhà văn thất nghiệp”. Điều đáng nói nằm ở một chỗ khác: quan niệm lâu nay về văn chương như sự biểu đạt của đời sống đang bị rạn vỡ. Khi văn bản có thể tồn tại mà không cần trải nghiệm sống làm nền tảng, định nghĩa truyền thống về tác phẩm không thể giữ nguyên mà không rơi vào những nghịch lí nội tại. Bởi một văn bản, xét cho cùng, không chỉ được tạo ra; nó phải được đọc, được diễn giải và được đặt vào một bối cảnh tinh thần. Chính tại điểm này, trí tuệ nhân tạo xuất hiện với một chức năng mới. Nó là một độc giả phi nhân tính, tức là một dạng nhận thức có khả năng đọc văn bản theo cách mà con người không có khả năng tái lập.

Trí tuệ nhân tạo đọc mà không trải qua bất kì trạng thái cảm xúc nào với những thiên kiến được hình thành từ một đời sống cá nhân. Nó xử lí một văn bản trong mối tương quan với hàng triệu văn bản khác, nhận ra các mô thức, liên văn bản, nhịp điệu, motif mà con người chỉ có thể tiếp cận nhờ trực giác được hun đúc qua nhiều năm đọc. Nhưng trực giác ấy, khác với thuật toán, là sản phẩm của kinh nghiệm sống; trong nó có sự do dự, những đứt quãng, những góc khuất của cảm xúc… vốn là những yếu tố tạo nên khả năng rung động trước văn chương.

Vậy một cỗ máy đọc theo kiểu gì? Không phải theo nghĩa nhập thân; nó chỉ vận hành như một quá trình phân giải cấu trúc. Hệ thống này nhận ra các mối liên hệ ngầm mà người đọc bình thường không có năng lực phát hiện, nhưng lại không cảm nhận được điều khiến văn bản thực sự chạm vào vùng cảm xúc của con người. Nó nhìn thấy mô thức của giọng nói, nhưng không tiếp cận được “độ sâu” của giọng nói. Nó phân loại, nhưng không mang theo kinh nghiệm. Nói chính xác, đây là một kiểu đọc không có nơi chốn để lưu giữ điều mình đọc.

Vấn đề nằm ở chỗ, chính lối đọc phi cảm xúc này lại đang tác động mạnh đến phê bình đương đại. Nó đặt phê bình trước một câu hỏi khó khăn: nếu một thực thể không biết rung động có thể phân tích văn bản sắc lạnh và chính xác hơn bất kì trí nhớ người nào, vậy thì phê bình, vốn dựa trên cả tri thức lẫn kinh nghiệm cảm thụ, còn giữ vị trí nào trong không gian văn chương?

Phê bình truyền thống đứng trên hai nền tảng: hiểu văn bản và hiểu kinh nghiệm làm nên văn bản. Khi một tác phẩm được tạo ra mà không dựa vào trải nghiệm sống, nền tảng thứ hai gần như không còn chỗ bấu víu. Và khi một hệ thống có thể phân tích mô thức ngôn ngữ với độ chính xác vượt xa con người, nền tảng thứ nhất cũng trở nên chông chênh. Phê bình vì thế rơi vào thế kẹp: phía trước là những văn bản không gắn với một chủ thể sống, phía sau là một dạng trí tuệ có khả năng đọc mà không cần cảm xúc. Giữa hai khoảng trống ấy, phê bình buộc phải xem lại chính lí do tồn tại của mình.

Có lẽ điều còn lại của phê bình, và cũng là phần không thể bị thay thế, là khả năng nhận ra “tính người” trong một văn bản. Tính người ở đây cần được hiểu không phải như một chủ đề mà là một hấp lực nội tại, là phần kinh nghiệm đã được chuyển hóa thành giọng điệu của người viết. Một bài phê bình chỉ thực sự có giá trị khi nó cảm nhận được những rung động này. Nhưng nếu văn bản không xuất phát từ đời sống, liệu những rung động ấy có tồn tại? Và nếu không, phê bình còn đọc gì ngoài lớp cấu trúc bề mặt?

Ở đây, văn chương phải đối diện một sự thật khó tránh: sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo khiến ta nhận ra rằng không phải văn bản nào có cấu trúc cũng là văn chương. Văn chương, có lẽ, nằm trong sự xung đột giữa chữ và đời, nơi mà trải nghiệm sống, dù bị che lấp hay biến dạng, vẫn để lại dấu vết. Khi trải nghiệm ấy vắng mặt, chữ nghĩa vẫn có thể hiện hữu, nhưng khó tạo được chuyển động nội tâm nơi người đọc. Nó giống như một căn phòng được dựng lại hoàn hảo, nhưng thiếu hơi ấm của người từng sống ở đó.

Ngược lại, chính cỗ máy đọc này lại cho thấy những giới hạn mà phê bình hiện nay khó tránh. Nó lần theo các tầng liên văn bản với một tốc độ con người không thể đạt được. Nó làm lung lay ý niệm về sự độc đáo tuyệt đối. Nó buộc ta nhận ra rằng bất kì văn bản nào cũng tồn tại trong một mạng lưới đã có sẵn. Thế nhưng dạng trí tuệ ấy lại thiếu điều quan trọng nhất, đó là khả năng sống cùng những gì nó đọc. Nó không biết khựng lại trước một câu văn, không có phút giây im lặng khi kí ức bị đánh thức, không hiểu cảm giác phải đọc lại một dòng chữ vì thấy nó chạm đến một vùng riêng tư.

Chính sự thiếu vắng khả năng kinh nghiệm này, nghịch lí thay, lại làm nổi bật vai trò của con người trong tư cách là người đọc. Bởi con người không chỉ đọc bằng trí nhớ và khả năng phân tích. Họ đọc bằng những phần không thể diễn giải, những cảm xúc không dễ định danh và định vị. Ngay cả khi trải nghiệm sống không còn nằm ở nguồn gốc của văn bản, nó vẫn là nền móng của việc tiếp nhận. Nhờ đó, phê bình có thể được nhìn lại, không phải như thao tác phân tích mà như một khả thể giúp nhận ra phần người trong một văn bản, kể cả khi văn bản ấy không có người đứng đằng sau.

Từ đây có thể rút ra một nhận xét có vẻ như nghịch lí. Chính sự xuất hiện của trí tuệ nhân tạo lại làm vai trò của người đọc trở nên quan trọng hơn. Không phải người đọc như một công cụ phân tích thủ công mà như một chủ thể mang theo lịch sử tinh thần của riêng mình. Điều mà các hệ thống tính toán làm tốt hơn phê bình truyền thống lại không phải là thứ định nghĩa phê bình, bởi phê bình cần khả năng rung động, khả năng hoài nghi và khả năng sống với câu chữ. Sau cú “chấn động” mang tên trí tuệ nhân tạo, phê bình có lẽ phải quay lại với điều mà nó từng bỏ quên, đó là chiều sâu nhân sinh trong kinh nghiệm đọc.

Còn tác giả thì sao? Sự khủng hoảng của tính tác giả không nhất thiết khiến tác giả biến mất. Nó buộc người viết phải trả lời câu hỏi căn bản nhất: điều gì khiến việc viết của con người khác với sản phẩm của máy móc. Không phải độ trơn tru, sự chuẩn mực ngữ pháp, cũng không phải những mô thức về phong cách. Điều còn làm tác giả đứng vững nằm ở khả năng đưa trải nghiệm sống vào chữ, kể cả những tổn thương, những khoảng trống để lại dấu vết thật của thời gian, những vùng lo âu mà ai trưởng thành cũng phải đi qua. Trí tuệ nhân tạo có thể mô phỏng lớp vỏ của phong cách nhưng không thể tái hiện một đời sống. Nó không biết thế nào là bước qua một đổ vỡ, không biết sức nặng của một quyết định đạo đức, không hiểu thế nào là mất mát rồi phải dò dẫm trở về với chính mình qua ngôn ngữ.

Văn chương, nếu còn một niềm tin cốt lõi, thì nằm ở đây. Chữ của con người luôn giữ một năng lượng mà những văn bản sinh từ thuật toán không thể có. Đó không phải là năng lượng của sự hoàn hảo mà là năng lượng của sự bất toàn. Chính sự bất toàn ấy làm nên chiều sâu, tạo ra độ rung và cả những khoảng lặng mà mọi cỗ máy đều bất lực. Nó không viết được điều đó và cũng không đọc được điều đó.

Khi văn bản không người viết song hành cùng một dạng độc giả không có kinh nghiệm sống, văn chương đứng giữa hai vực thẳm. Nhưng hai vực thẳm ấy không đánh dấu kết thúc. Chúng mở ra một không gian mới để thấy lại giá trị của chữ nghĩa. Văn bản không chỉ là cấu trúc. Phê bình không chỉ là phân tích. Tác giả không chỉ là người kí tên. Tất cả chỉ có ý nghĩa khi văn chương vẫn còn là nơi con người lưu lại lịch sử kinh nghiệm sống của mình.

Trí tuệ nhân tạo có thể viết ra rất nhiều thứ nhưng không thể mang theo một đời sống. Nó có thể đọc vô số văn bản nhưng không thể sống cùng câu chữ. Chính biên độ lệch giữa khả năng mô phỏng và khả năng trải nghiệm khiến văn chương, dù thay đổi hình thức đến đâu, vẫn giữ được điểm tựa của nó. Văn chương là cách con người hiện diện trong ngôn ngữ. Và khi ngôn ngữ ấy được phản chiếu bởi một trí tuệ không biết đau, con người càng nhận ra đâu là phần của văn chương mà không công nghệ nào chạm tới.

This entry was posted in Vấn đề hôm nay and tagged . Bookmark the permalink.