Bến lở (kỳ 4)

 Tiểu thuyết

Nxb Lao Động, 2008

Tác giả Đặng Văn Sinh

 

CHƯƠNG 9

Sa đặt tên con là Hoà An. Lúc Hoà An tròn một tháng, già Thênh làm lễ cúng ma gọi vía cho nó. Trước khi cúng, ông cụ ẵm con bé lên bảo:

 – Phải đặt một cái tên Cao Lan nữa vía mới không bay đi mất. Ta gọi nó là Khuôn Ún giống tên một bà nàng người Thái Trắng.

Lúc Hoà An được sáu tháng, công trường có lệnh chuyển sang Sơn La. Hôm Diệu lên bản Then thông báo tin ấy làm Sa lặng đi một lúc không nói được câu nào. Khi Diệu sắp về, Sa bế con xuống đầu dốc ngập ngừng mãi rồi mới hỏi:

– Hay là tao mang cả Hoà An theo công trường sang Sơn La?

– Mày điên đấy à? – Diệu gắt. – Ông Thành với tay Đảo mà biết chuyện này thì chắc chắn là bị đuổi khỏi công trường. Tính mày vốn ngang ngạnh mà tay kĩ thuật hay thù dai. Chúng tao phải khó khăn lắm mới lừa được hắn để bảo vệ cho mày, vậy mà mày lại…

– Nhưng tao thương con bé lắm. – Sa rơm rớm nước mắt ngước nhìn Diệu. – Để nó lại ở đây, nhỡ chẳng may làm sao thì tao ân hận lắm. Thà rằng đừng đẻ nó ra còn hơn.

Diệu lặng lẽ nhìn Sa, ngẫm nghĩ mãi mới dè dặt nói:

– Tại sao mày không mang con Hoà An về xuôi, gửi bà trông cho?

– Tao đã nghĩ đến tình huống ấy, nghĩ đi nghĩ lại xem ra không ổn. – Sa lắc đầu thở dài. – Bà cụ ở nhà một mình thêm đứa cháu chắc là mừng lắm, nhưng mẹ đã khổ suốt một đời vì cái nghi án của bố, giờ lại thêm chuyện con gái không chồng tự nhiên đem cháu về mày bảo chịu làm sao được. Làng tao người ta trọng danh dự lắm. Chửa hoang sẽ là bia miệng để đời.

– Vậy ý mày thế nào? Chả lẽ cứ ở đây mãi à? – Diệu sốt ruột gạn hỏi. – Mà chẳng hiểu làm sao nữa, đã năm sáu tháng nay không thấy bố con Hoà An viết thư về.

Sa nhìn bạn giọng đẫm nước mắt:

– Thôi đành vậy. Trước mắt cứ gửi cháu cho vợ chồng già Thênh và cái Lanh đã. Thương nó lắm, nhưng mình cứ lấn bấn sẽ chẳng bao giờ đi khỏi đây được, không khéo lại thành gái dân tộc mất.

– Hay là thế này. – Diệu chợt reo lên. – Chúng mình đem con Hoà An về quê tao. Chị cả tao cũng mới sinh cháu trai. Bác ấy sẽ cho con bé bú.

– Nếu được thế thì còn gì bằng. – Sa đang nẫu ruột nẫu gan nghe vậy mắt bỗng sáng lên. – Nhưng chỉ sợ làm phiền bà cụ ở nhà thôi. Mày biết đấy, nuôi một đứa bé ẵm ngửa hoàn toàn không đơn giản.

– Thì hàng tháng tao với mày gửi tiền về để mẹ ở nhà nuôi nó, lo gì.

– Mày thật tốt với mẹ con tao quá.

– Đừng có khách sáo. – Diệu trách bạn. – Bây giờ tao xuống đội xin nghỉ nửa phép và chuẩn bị một số đồ dùng cần thiết cho hai mẹ con. Mày ở đây phải lựa lời cảm ơn gia đình già Thênh. Hai hôm nữa tao lên đưa mày xuống bản Poọc chia tay với bác Song rồi ra Cao Bằng. Nghe đâu, giữa tháng bảy xê mình chuyển quân. Còn việc nữa, tí thì quên. Tao kiếm được mấy chiếc vòng bạc. Thứ này mình cho là thường nhưng đối với người dân tộc lại rất quý. Mày cầm lấy làm quà cho cái Lanh sau này đi lấy chồng.

Tối hôm ấy, sau khi Hoà An ngủ, Sa ra gian ngoài thưa chuyện với vợ chồng già Thênh:

– Thưa ông bà, con vô cùng đội ơn ông bà và em Lanh đã tận tình chữa lành bàn chân của con lại cưu mang mẹ con con suốt sáu tháng trời. Ơn ấy không biết đến khi nào mới trả được. Mấy hôm nữa con phải mang cháu về quê, sau đó lại lên đây để theo công trường chuyển sang Tây Bắc, mong ông bà cho phép.

Già Thênh hút hết ba điếu thuốc lào, ngửa cổ thả khói lên mái nhà. Đợi cho khói tan hết ông mới thủng thẳng bảo:

– Mày mang nó về đồng bằng cho bà cụ nuôi phải không?

– Dạ phải.

– Nhưng bà cụ làm gì có cái sữa ngọt. Nó khát thì làm thế nào?

– Chị con ở dưới ấy cũng mới đẻ một thằng bé.

– Ta hiểu rồi. – Ông cụ hắng giọng. – Thế là mẹ con mày bỏ ông bà già với con Lanh đi mãi không về nữa đấy.

– Thưa già, sau này khi nào cháu lớn, con sẽ đưa cháu về thăm bản Then.

– Đến lúc ấy thì ta với bà mế thành con ma rồi. – Ông già lại vê mồi thuốc nhét vào nõ điếu, vừa châm lửa vừa dặn. – Ta biết thể nào rồi cũng có lúc mày xuống núi nên đã chuẩn bị cho con bé ít thuốc bột chữa chứng ho và cam sài. Thuốc đựng trong quả bầu khô kia, khi nào đi thì mang theo.

– Con xin ông. – Sa gật đầu rồi lấy trong túi ra một gói bọc giấy báo để trước mặt già Thênh. – Thời gian qua, ông bà và cô Lanh coi con như con cháu trong nhà, chữa thuốc tận tình mà con chẳng có gì đền đáp. Con có dành dụm được ít tiền gửi ông bà để sau này sắm sửa cho cô Lanh đi lấy chồng.

Ông già vừa kéo xong điếu thuốc, nghe vậy bị sặc. Ông ho mấy tiếng rồi hắng giọng:

– Mày quên mày là chị em với con Lanh và cái ma nhà ta đã nhận mặt rồi à? Cầm lấy cái gói cất đi. Từ giờ đến lúc xuống núi mà còn nói chuyện ơn với oán thì đừng bao giờ vác mặt về bản Then nữa.

 – Ông ơi, ông đừng quát chị Sa. – Nghe già Thênh nói, cái Lanh khóc nấc lên.

– Thôi được. Hai chị em đi ngủ. Chúng mày sau này vẫn là chị em đấy, nhớ chưa?

– Dạ, con nhớ, nhưng ông phải để con cho em Lanh cái này. – Sa vừa nói vừa quàng vào cổ cô bé hai chiếc vòng bạc.

– Mày lấy đâu ra tiền mà cho nó nhiều thế? Thứ này đắt lắm đấy.

– Dạ của cô bạn cho con ạ. Đây là vật kỉ niệm con dành cho Lanh. Nó không đáng bao nhiêu đâu mà già phải băn khoăn…

Gần trưa ngày thứ ba, Diệu lên bản Then. Già Thênh và cái Lanh đưa hai mẹ con xuống tận nhà ông Trần Quang Song. Nghe Diệu và Sa trình bày đường đi nước bước của hai chị em, ông Song gật đầu bảo:

– Mang được con bé về quê cháu Diệu thế là tốt, vì sau này lớn lên nó sẽ có điều kiện học hành nên người. Bác mong các cháu thuận buồm xuôi gió. Nhớ giữ gìn sức khoẻ cho Hoà An. Trẻ con đi đường xa dễ bị cảm lắm.

Sáng hôm sau Diệu và mẹ con Sa đi nhờ được chiếc xe tải của công trường thuỷ điện Suối Củn ra thị xã Cao Bằng. Cũng may lúc chờ xe bên đường không gặp người quen nào ở C22. Tại Cao Bằng, hai người phải ăn chực nằm chờ đến ngày thứ ba mới mua được vé ô tô về Hà Nội. Sa có máu say xe, dọc đường cô nôn hết ra những gì ăn buổi sáng, người rũ ra, mềm như dải khoai héo. Diệu vừa phải bế con Hoà An vừa chăm sóc cho Sa. Con bé mới sáu tháng tuổi vậy mà xe chạy suốt một ngày, hết lên đèo lại xuống dốc, có đoạn nhảy chồm chồm vì đường quá xấu, nó vẫn không hề tỏ ra mệt mỏi, thỉnh thoảng lại toe toét cười.

Xe đến Bến Nứa lúc bảy giờ tối. Hai người lần mò tìm vào được một nhà trọ tối om và rất nhiều muỗi. Một ngọn điện đỏ quạch treo tít trên mái nhà. Sa mệt lả, vừa vào đến nơi đã nằm vật ra giường. Con Hoà An đói khóc ngằn ngặt. Diệu đỡ Sa dậy, trao con bé cho mẹ nó rồi bảo:

– Mày cho nó bú một lúc. Nó đang đói đấy. Tao chạy ra ngoài kiếm cái gì ăn.

Đêm hôm ấy tuy mệt nhưng cả hai đều khó ngủ, có lẽ vì cái màn nhà trọ vừa hôi vừa rách mấy chỗ, cho nên muỗi chui vào kêu vo ve rất khó chịu. Bốn giờ, bà chủ đã thức dậy giục ra tàu cho kịp chuyến sáng. Bảy giờ mười lăm, Diệu bế bé Hoà An, Sa xách túi du lịch lếch thếch xuống ga. Gần trưa cả bọn mới về đến nhà.

Nhà Diệu có ba chị em. Chị Cả lấy chồng cùng xóm. Anh trai là công nhân nhà máy gỗ Cầu Đuống mới lấy vợ năm trước. Bố Diệu là du kích hy sinh trong trận đánh mìn đoàn xe quân sự của địch trên đường 5 năm Nhâm Ngọ. Mẹ Diệu ở vậy nuôi các con khôn lớn rồi dựng vợ, gả chồng. Chỉ có cô là thích bay nhảy, không chịu yên phận nên làm đơn đi công trường.

Được biết hoàn cảnh của Sa, bà Phúc thương lắm. Tính bà vốn mau nước mắt, nghe Diệu kể đến đoạn cô bị tai nạn lao động dập bàn chân bà sụt sịt khóc. Đến hôm sắp đi Diệu mới nói với mẹ về chuyện bé Hoà An. Bà Phúc mắng con gái:

– Có thế thôi mà mấy hôm nay cô cứ rào đón mãi. Nghe mẹ nói với hai đứa đây. Vợ chồng anh Huyên làm nhà máy gỗ thỉnh thoảng mới về. Chỉ có chị Duyên ở gần đây là tối sớm sang với mẹ. Bây giờ có thêm con Hoà An là tao mừng. Hai chị em chúng mày đã quấn túm nhau thì tao coi con bé cũng như cháu ngoại. Cứ để nó ở đây. Lớn lên bà cho đi học. Nhưng tao dặn trước, thỉnh thoảng phải thay nhau về mà thăm con, nếu cứ bỏ bẵng đi là sau này nó không nhận ra mẹ đâu.

Hôm hết phép, khi đã ra đến cổng rồi, Sa còn chần chừ mãi chưa muốn cất bước. Cô cho Hoà An bú lần cuối rồi cứ ôm riết lấy nó không muốn trao cho bà Phúc. Bà nhẹ nhàng gỡ tay người mẹ, bồng lấy con bé rồi khẽ bảo:

– Con yên tâm mà đi, tầm này sang năm lại về với cháu.

Sa đội nón lên đầu, xách túi quay đi theo Diệu, được mấy bước cô bỗng oà lên khóc.

Ngày mồng năm tháng chín, C22 chuyển lên vùng Tây Bắc. Đoàn xe qua Hà Nội nghỉ tạm ở một làng ngoại thành. Chiều tối hôm sau, những chiếc xe tải cắm đầy lá nguỵ trang vừa chở người vừa chở dụng cụ sản xuất lầm lũi ngược đường số 6. Khoảng chín giờ xe đến Chợ Bờ. Trời mưa to. Mặt đường lấp loáng những vũng nước dưới ánh đèn pha ô tô. Diệu ngồi ngoài bị mưa hất ướt áo, lạnh. Sa lại bị say xe nôn ra mật xanh mật vàng. Cô Hải Anh phải lấy trong ba lô ra chiếc áo mưa quàng cho Diệu. Xe đi dưới trời mưa, lại ì ạch leo dốc nên chậm như rùa, quá nửa đêm mới đến Mộc Châu. Thật may lúc ấy Mộc Châu không mưa. Qua Mộc Châu chừng hơn chục cây số, đoàn xe rẽ vào một con đường hẹp, hai bên mọc toàn thứ lau sậy cao quá đầu người, tốt như rừng, mới nhìn đã thấy rợn người. Sau một chặng dài hàng trăm cây số bị quăng quật trên những chiếc “chuồng gà” di động khiến toàn thân ê ẩm, giờ đây mọi người mệt đến mức bạ đâu nằm đấy, vừa đặt mình xuống là ngủ thiếp đi chẳng biết trời đất gì nữa.

Sáng ra tỉnh dậy, Sa dụi mắt nhìn quanh. Thì ra đất Sơn La là thế này đây. Rừng đại ngàn và mây trời lang thang trên thảo nguyên mênh mông, gió Lào nóng như rang và những bản Mèo chênh vênh trên đỉnh núi là mảnh đất này đây. Mấy hôm sau Sa ghi vào nhật kí:

Mộc Châu 12 tháng chín…

Không hiểu vì sao, vòm trời ở đây lúc nào cũng âm u cứ như là vùng đất bị bỏ quên, quanh năm thiếu ánh nắng tạo nên cảm giác nặng nề trong tâm trạng con người. Lại những ngày dài lên rừng đốn gỗ, chặt tre. Lán trại không làm cạnh bờ suối như ở Hoà An mà dựng trên một khoảng đất bằng phẳng trong cánh rừng già cách đường chừng hơn cây số để đề phòng máy bay Mỹ ném bom. Nghe nói, thời kì năm 1953-1954, hàng vạn dân công hoả thuyến từ các tỉnh miền xuôi đã lên đây mở con đường này thông sang Phù Yên Nghĩa Lộ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Lại sắp đến ngày mở chiến dịch đây. Ông Thành bảo, Cục công trình 2 giao kế hoạch phải hoàn thành con đường trong hai năm. Hàng nghìn thanh niên nam nữ, hàng nghìn số phận khác nhau, liệu có ai giống hoàn cảnh của mình? Nhớ Hoà An lắm. Mấy hôm đầu, lúc nào sữa cũng thấm ra, ngực cương lên đau lắm. Giờ thì tạm ổn nhưng lòng cứ bâng khuâng. P. thì chẳng biết giờ này ở đâu, còn Hoà An có nhớ mẹ không?

Mộc Châu 25 tháng chín…

Mọi người đều mừng thấy mình khỏi chân và trở lại công trường, nhưng Đảo thì khác, anh ta có vẻ ngượng sau vụ bóc trộm thư. Dạo này hình như ông cán bộ kĩ thuật phải lòng cô Sánh A7. Cô này da trắng, tóc dài, người vậm vạp nhưng phải cái cặp môi dày quá trông cứ như hai quả chuối ngự đặt ngang dưới chiếc mũi hếch. Chẳng biết mối tình ấy kéo dài được bao nhiêu lâu? Bây giờ thì đến ngày chủ nhật có muốn đi chơi cũng chẳng biết đi đâu. Ba bề bốn bên và cả trên cao nữa toàn rừng là rừng. Thú vui duy nhất của cánh thanh niên hiếu động là tụ tập đánh bài tu lơ khơ và chơi cờ tướng. Bọn con trai A3 có những hôm đánh bài đến mười giờ đêm. Anh chàng Phi bị bọn cái Diệu thông đồng với nhau ăn gian nên toàn thua. Trời nóng vã mồ hôi thế mà cậu ta phải đội một chồng bốn cái mũ, bên ngoài lại khoác thêm ba chiếc áo bông chịu trận. Ông Thành đêm ấy bất ngờ đi kiểm tra, nhìn thấy cảnh tượng ấy, vừa tức vừa buồn cười, quát ầm lên: “Các cô các cậu giải tán, về đi ngủ ngay, sáng mai còn làm việc”. Đêm trong rừng già sợ lắm, cứ nhắm mắt là tưởng tượng ra đủ thứ ma quỷ, nghĩ mà rợn tóc gáy. Nhưng sợ nhất vẫn là thú dữ rình mò. Cách đây mấy hôm, ở đoạn cây số 25 có một anh tiếp phẩm C12 từ bến phà Vạn Yên về bị hổ vồ. Còn ở cầu Ta Lay, một cô công nhân đội xây dựng đang giặt quần áo thì mất tích. Dân bản bảo, từ năm ngoái đến giờ, vẫn có một con báo vằn lảng vảng kiếm ăn quanh đấy… Đêm nay tự nhiên lại nhớ nhà, nhớ mẹ vô cùng. Thân mình bây giờ phải xẻ làm ba. Một dành cho P, một dành cho Hoà An và một là của mẹ. Trong cuộc nhân sinh ba vạn sáu ngàn ngày cái gì nâng đỡ tâm hồn để ta sống được cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay? Phải chăng đó là tình yêu?

Một lần đêm đã khuya, Hải Anh chẳng biết ở đâu về gọi Diệu và Sa:

– Các cậu dậy, tớ kể chuyện này cho nghe!

– Thôi ngủ đi. – Diệu nhấm nhẳng gắt. – Người ta vừa mới chợp mắt.

– Nghe đây. – Hải Anh tủm tỉm cười – Tớ vừa cho anh chàng Thăng bài học.

– Cậu nói cái gì. – Bài học nào? – Diệu vừa ngáp vừa hỏi bâng quơ.

– Thế này, các cậu biết đấy, mấy hôm vừa qua, trời mưa to, nước suối lũ. Bọn anh Quảng, anh Thiệu và thằng Thăng đi câu được mấy con cá chạch, về nhà rủ chúng mình nấu cháo. Cháo chạch trấu tớ đã được ăn, ngon vô cùng, nhưng phải có rau răm làm gia vị mới đúng kiểu của nó. Anh Quảng bảo: “Mình biết ở đoạn rừng thưa, gần máng nước ấy, cách đường chừng vài chục thước có một vạt rau răm. Hải Anh cầm đèn ra hái về đây”. Nghe vậy mình chối phắt: “Ứ ừ! Em sợ lắm”. Anh Quảng lại bảo: “Thế thì thằng Thăng đi với nó. Lũ con gái chúng mày chỉ sợ bóng sợ vía. Người ta câu về cho mà ăn còn lười”. Lúc ấy không có đèn pin. Anh chàng Thăng cầm đèn dầu đi trước, mình theo sau, mắt lấm lét nhìn quanh, chỉ sợ hổ vồ. Thực ra bãi rau răm cách đường phải gần trăm thước mà trong rừng tối om mình mới bảo Thăng: “Hay là cậu vào thôi, tớ cầm đèn đứng đây chờ”. Cậu ta cười: “Không có đèn, hái làm sao được?”. Mình bảo: “Ừ nhỉ”. Hai đứa vào đến nơi, đang hái thì đèn tắt. Mình sợ quá vội quờ quạng tìm hắn: “Sao lại tắt đèn đi?”. “Mình tắt đâu. Gió đấy”. “Từ nãy đến giờ làm gì có gió, cậu mang diêm không?”. “Không, lúc đi vội quên mất”. “Chán thật. Thôi về đi”. Đang run lên vì sợ thì bất ngờ Thăng quàng tay ôm lấy mình. Mình mới bảo: “Cậu tắt đèn đi là vì thế này đấy hả? Mai tớ sẽ đưa vấn đề ra cuộc họp chi đoàn”. Thăng không nói gì mà càng ghì chặt mình hơn. Một lúc sau cậu ta mới thì thầm: “Hải Anh, anh yêu em”. Mình cười nhạt hỏi: “Từ trước đến giờ đã hôn đứa con gái nào chưa? “. Hắn thật thà bảo: “Chưa được hôn ai. Cho anh hôn một lần nhé”. Vừa nói hắn vừa tìm môi mình. Nhưng hắn không biết hôn. Đúng là dân đồng chiêm. Nếu chỉ có thế thì chẳng đáng nói, đằng này, tuy không biết hôn đúng kiểu, nhưng hắn lại được đằng chân lân đằng đầu, đưa tay sờ soạng khắp nơi. Mình mới cảnh cáo: “Không được động đến vùng cấm” rồi đẩy hắn ra và thuận tay cho luôn cái tát. Hắn bị bất ngờ nhưng không có phản ứng gì, ra đến đường cái mới nói lí nhí: “Chuyện này… Hải Anh đừng nói với ai”. Mình mới thương hại bảo: “Cái ngữ như cậu không cả biết hôn con gái mà cũng đòi yêu”.

Nghe đến đấy cô Diệu cười đến chảy nước mắt:

– Con nỡm, mày không yêu thì thôi việc gì phải hạ nhục hắn.

– Để cho cậu ta biết thế nào là con gái thị xã.

– Mày ghê gớm lắm, khéo không lại già kén kẹn hom đấy em ạ.

– Kệ tao. – Hải Anh vênh mặt lên bảo. – Ở công trường bộ khối kẻ xin chết mà tao chưa duyệt kia kìa…

Hải Anh quê thị xã Ninh Bình. Bố là một cán bộ có cỡ của tỉnh. Ông này phải lòng nàng kế toán xinh đẹp về nhà ruồng rẫy hai mẹ con cô. Lúc ấy Hải Anh đang học lớp tám. Cô bỏ học xin đi công trường. Ông bố biết, yêu cầu bên tổ chức giữ hồ sơ lại. Biết tin, Hải Anh đến cơ quan tìm ông ta. Cô đi lối cầu thang phụ, không gõ cửa, bất ngờ vào phòng làm việc thấy bố và cô kế toán âu yếm nhau. Cô đứng giữa phòng, cười gằn nhìn cặp tình nhân dõng dạc tuyên bố:

– Ông không đủ tư cách làm bố. Nếu còn giữ hồ sơ không cho tôi đi, tôi sẽ lên Tỉnh uỷ tố cáo ông quan hệ nam nữ bất chính với người đàn bà này.

Ông bố có vẻ chờn phải để cho Hải Anh lên Cao Bằng. Cuối năm ấy, không biết làm cách nào mà vị quan chức ấy vận động được toà án cho li hôn. Toà xử tháng trước thì tháng sau ông ta cưới cô kế toán lẳng lơ. Từ đó, Hải Anh không bao giờ nhìn mặt bố nữa. Hải Anh là cô gái xinh đẹp, giàu lòng tự trọng nhưng tính khí hơi có vẻ cực đoan. Cô ghét bọn đàn ông có chức có quyền lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của phụ nữ để chiếm đoạt họ. Trong cuộc họp chi đoàn, đã mấy lần cô nói gần nói xa đến hành vi không được đàng hoàng của Đảo với chị em. Tuy không nêu đích danh nhưng xem chừng anh ta cũng sượng. Từ ngày bị khai trừ Đảo thù Hải Anh ra mặt. Có lần anh ta còn cố tình tính sai khối lượng đất đá để trừ bớt tiền của A4. Biết vậy, Hải Anh và Diệu lên Ban chỉ huy ép ông Thành bắt Đảo ra hiện trường đo lại. Tất nhiên phần thắng thuộc về A4. Sau vụ ấy Đảo bị mất mặt. Lãnh đạo công trường thấy để ở đấy không có lợi nên họ điều sang C18. Về thay Đảo là anh Toại dân tộc Nùng cũng tốt nghiệp trung cấp giao thông Vĩnh Yên. anh Toại đã có vợ và một con. Tính anh hiền lành, thật thà được cả xê quý mến. Hải Anh bảo Sa:

– Đẩy được lão Đảo đi là phúc bảy mươi đời. Lão ta mà còn ở đây thì chúng mình còn khốn khổ. Mà này, tớ nghe bọn A9 nói, hắn đang thu thập thông tin gì đó về cậu.

– Có thể là chuyện Sa có bé Hoà An chăng? – Diệu buông giọng thăm dò.

– Việc ấy hắn không có bằng chứng cho dù hắn đã nghi ngờ từ lâu. – Hải Anh nhìn Sa thì thầm. – Hắn đi tuyên truyền với mọi người rằng bố Sa trước đây…

– Thằng đểu! – Sa buột miệng rủa. – Vậy mà trước hắn cứ lẵng nhẵng bám theo tao. Nhưng thôi, chuyện ấy cho qua. Bây giờ đến việc của mày. Nghe kiểu mày kể chuyện thằng Thăng chúng tao có cảm giác là ít nhiều mày cũng đã tơ tưởng đến nó. Thằng ấy được. Nó đã mê thì liệu mà “bắt” đi, đừng để tuột tay.

– Mà sao lại tát nó? – Diệu hé mắt lườm bạn. – Mày thật quá lắm. Tao chưa bao giờ có được giây phút hạnh phúc trong vòng tay một người đàn ông, còn mày lại chê hắn không biết hôn. Mày biết thì phải làm mẫu cho người ta chứ.

– Con khỉ. – Hải Anh phát vào vai Diệu. – Tao chỉ nói chuyện này với hai đứa. Có thể tao “duyệt” hắn nhưng cấm tuyên truyền lung tung.

                                                    *

*  *

Sau tết Nguyên Đán, A7 được phân công hạ dốc hai đầu cầu Tà Lải. Đoạn này đường vừa dốc vừa hẹp lại là cua vòng xuống cầu nên mặt bằng chật không đưa xe máy vào được. Sườn dốc bên bờ nam cao gần như dựng đứng, đã bị sạt lở nhiều mảng. Để phòng máy bay ném bom bất ngờ, chi đoàn đã vận động đoàn viên đào một loạt hầm hàm ếch hai bên chân ta luy để mọi người ẩn nấp tạm thời khi có máy bay bay qua. Đầu tháng trước C21 đã bị trúng bốn quả bom, may không chết ai, chỉ “bay” mất hai tấn gạo và bốn con lợn. Nhưng có chuyện lạ không thể tin được. Một tảng gốc tre to như cái vạc nấu cơm vẫn còn nguyên cả đất đá bay vèo quật trúng mái nhà Ban chỉ huy, làm gãy cái bàn, vỡ bộ ấm chén và cái phích. Đội trưởng Thành tái mặt. Từ đấy ông già này chuyên ngủ hầm, ngay cả những lúc không có máy bay.

Sáng 21 tháng ba. Hôm ấy trời nắng từ sớm. Mấy chóp núi bên dãy Phiềng Sa vẫn còn một dải sương mù loãng bay lởn vởn như làn khói mỏng. Không gian đã bớt đi cái vẻ âm u, nặng nề, ẩm ướt của mùa đông. Cây cầu đang được đổ bê tông phần móng trụ. Chiếc máy bơm dầu nổ bành bạch, thỉnh thoảng lại giở chứng lịm đi khiến cho nước tràn vào hố móng. Mấy anh thợ xây chưa có việc ngồi vắt vẻo trên cabine chiếc xe tải chở xi măng hút thuốc. Cả công trường đang ồn ã bởi vô số những âm thanh hỗn tạp nên hầu như không ai nghe thấy tiếng máy bay từ xa vọng lại. Chỉ đến lúc anh chàng Phổng gác máy bay trên đỉnh núi gõ kẻng báo động mọi người mới xô nhau chạy về những chiếc hầm đào sẵn hai bên đầu cầu. Khác với mọi lần chỉ bay qua, hôm nay 3 chiếc cổ ngỗng F105[1] vừa vượt qua dãy Phiềng Xa đã lần lượt chúi xuống cắt bom. Bốn quả tập trung vào đầu dốc bờ nam trong vòng ba phút. Sức nổ ép không khí mạnh đến mức, một số công nhân bên bờ bắc chưa kịp chạy vào hầm bị hất xuống mương thoát nước. Mái ta luy bờ nam cao mười chín mét cũng bị trúng ba quả. Đất đá trượt xuống lòng đường làm hầu hết các hầm hàm ếch phía dưới bị lấp có chỗ dày đến ba, bốn mét. Cả công trường nháo lên. Tiếng kẻng cấp cứu gõ liên hồi. Anh chị em từ các đội mang cuốc xẻng hối hả đến cứu nạn. Nơi bị nặng nhất vẫn là đầu cầu bên hữu ngạn. Toàn bộ A7 chỉ hai người chạy được lên dãy hầm phía trên. Bằng mọi phương tiện có trong tay, hàng trăm công nhân thay nhau đào bới bất kể thời gian, đến ba giờ chiều mới đưa được nạn nhân cuối cùng ra khỏi những chiếc hàm ếch.

Trong số bảy người chỉ cứu được một. Trẻ nhất là Hải Anh. Nhiều tuổi hơn cả là anh Đông. Lúc ấy Sa đang đãi sỏi trắng ở bãi cát suối Giăng cách cầu Tà Lải khá xa. Nghe tiếng bom nổ, cô biết ngay có chuyện chẳng lành liền cùng Diệu và mấy cô A9 chạy thục mạng đến hiện trường. Hải Anh được đưa ra đầu tiên. Cô và Vân ngồi chung một hầm. Chắc là trước khi chết, hai cô ôm chặt lấy nhau nên khi tìm được người ta phải khó khăn lắm mới gỡ được họ ra. Đêm hôm ấy C22 không một ai ngủ. Đâu đâu cũng có tiếng khóc. Những tiếng nức nở nghẹn ngào hoà vào nhịp thở dài ai oán của đại ngàn lẫn trong chuỗi âm thanh xào xạc của gió trên tán những cây chò xanh, khiến cho ai cũng có cảm giác như cả đất trời cũng đau thương cho thân phận những người xấu số. Sa ôm lấy Hải Anh mà khóc. Tắt thở đến mấy tiếng đồng hồ rồi mà người Hải Anh vẫn còn nóng như là đang ngủ. Cậu Thăng, người đã từng yêu Hải Anh say đắm, đặt nhẹ tay vào vai Sa:

– Đằng nào thì Hải Anh cũng đi rồi. Sa để mình mang cô ấy vào cho người ta nhập quan…

Nghĩa trang được đặt trong một khoảng rừng thưa. Những anh em được phân công đào huyệt phải dùng mấy thỏi dynamid mới khoét được vào lớp đá gan trâu trên sườn núi tạo thành sáu cái hố trông như hố bom phát quang của máy bay Mỹ ném xuống bờ sông Đà mấy hôm trước. Sáng hôm sau, đám tang được cử hành trong không khí vô cùng nặng nề buồn thảm. Diệu thương bạn khóc nhiều quá hai mí mắt sưng tấy lên. Còn Sa thì ngất đi, đến nửa đường chị Ngần, xê phó phải cử người dìu về. Những đêm sau đó, cánh con gái rủ nhau ngủ chung, hai cô một giường. Đây đó thỉnh thoảng lại có tiếng thút thít. Bên ngoài, chỉ cần một tiếng động nhỏ như con chồn chạy qua sân hay lũ chim đập cánh là nhiều cô yếu bóng vía đã co rúm người lại. Nhật kí của Sa có đoạn: “Cuộc đời lúc nào cũng đầy bất trắc. Giữa cái sống và cái chết hình như giới hạn rất mong manh. Một trận bom chưa đầy bốn phút đã cướp mất sáu mạng người. Sáu thanh niên, người nhiều tuổi nhất mới có hai nhăm. Họ ra đi trong hoàn cảnh hoàn toàn không thanh thản, bởi vì đã có ai dự kiến được gì cho tương lai đâu, thậm chí như Hải Anh còn chưa kịp tìm cho mình người yêu. Chỉ đến lúc này mình mới thật sự hiểu thế nào là sự tàn khốc của chiến tranh. Trong kháng chiến chống Pháp mình đã mất một người cha, còn cuộc chiến tranh này, mất người bạn thân. Liệu còn có mất ai nữa không? Giờ này P đang ở đâu? Có nhớ đến em và con gái của chúng mình? Rừng Tây Bắc ngoài kia vẫn xào xạc lá rơi. Đêm vẫn mênh mông và huyền bí vô cùng”.

 Đầu tháng sáu, công trường mở một khoá trung cấp giao thông tại chức để đào tạo cán bộ kĩ thuật. Cán bộ giảng dạy do Trường Trung học giao thông Vĩnh Yên cử về. Mặc dù Sa giấu trình độ học vấn của mình, ông Thành và anh Toại vẫn đưa cô vào danh sách dự tuyển. Lúc đầu Sa không định đi, sau Diệu phải thuyết phục mãi cô mới chịu. Rời C22, nhất là phải xa Diệu, Sa buồn lắm. Hôm chia tay, cả bọn chẳng ăn uống gì được, chỉ ngồi nhìn nhau giọt ngắn giọt dài.

Vào học chừng ba bốn tuần, thầy dạy toán phát hiện ra khả năng của Sa. Một lần trong giờ kiểm tra, thầy gọi Sa lên giải bài một toán của phần hệ thức lượng trong tam giác thường. Đây là một bài tương đối khó. Trong lớp chỉ một vài người làm được. Cách giải của Sa ngắn gọn và chính xác đến mức thầy Long vốn là sinh viên giỏi của khoa toán Đại học Sư phạm cũng phải thán phục. Một hôm thầy Long hỏi Sa:

– Ở nhà Sa học hết lớp mười phải không?

– Dạ.

– Đã có bằng tốt nghiệp chưa?

– Thưa thầy, có rồi.

– Sao không thi đại học mà em lại đi công trường?

– Thưa thầy cán bộ xã không cho đi.

– Tôi hiểu… – Thầy Long lắc đầu nói lấp lửng. – Trớ trêu thay cái thứ chủ nghĩa lý lịch.

Gọi là thầy nhưng thật ra Long chỉ hơn Sa bốn năm tuổi. Nếu hồi ở nhà được đi đại học thì năm nay cô đã ra trường rồi. Long có tạng người mảnh khảnh, da trắng, cặp mắt phải mang kính cận nhưng chơi guitare cực hay. Anh có tính hơi ngang nhất là với một vài ông trong Ban chỉ huy công trường. Người mà thầy Long dị ứng nhất là Phan Lân, bí thư Đoàn. Phan Lân bề ngoài ra dáng trí thức. Anh ta xuất thân là cán bộ Huyện đoàn được tỉnh nhấc lên và cử đi công trường. Bí thư Đoàn công trường thường xuất hiện trước đám đông trong chiếc đại cán xẻ lưng, đôi giày Kosygin[2] to bự và chiếc mũ nồi đội rất cân trên cái đầu lúc nào cũng cắt tỉa gọn gàng. Trình độ phổ thông của Phan Lân chưa quá lớp sáu, có điều anh ta đã được đào tạo lớp bồi dưỡng lý luận nghiệp vụ Đoàn về khoa tuyên huấn, nên trước cử toạ, nói trơn như cháo chảy, lại kèm theo điệu bộ chém tay vào không khí, thành thử, công nhân các đội phục lăn, coi như mẫu người lý tưởng của thời đại.

 Trường Trung học giao thông đóng cạnh công trường bộ, nhất cử nhất động của giáo viên, học sinh đều không giấu được các vị lãnh đạo. Cứ tầm chiều, sau khi ăn cơm xong, Long lại mang đàn ra ngồi trước hiên gảy. Nhà cất dưới tán rừng già, những đêm trăng sáng, tiếng đàn của thầy làm tâm trạng bao người xao xuyến. Bản nhạc Long ưa thích nhất là “Trường ca sông Lô” của nhạc sĩ Văn Cao. Trình độ độc tấu của anh điêu luyện đến mức, một lần, nghệ sĩ guitare Hoàng Trung nổi tiếng đã cất công từ Hà Nội lên thăm, mang theo cả máy ghi âm. Có lần Sa và một bạn gái cùng lớp tên là Thùy đề nghị Long độc tấu bài “Biệt ly”. Thầy bảo:

– Ông Phan Lân mà nghe được bài này là hơi phiền vì các ông ấy cho rằng đây là loại “nhạc vàng”.

Lam Thùy, người thị trấn Đông Thành có anh trai kéo đàn accordeon trong Đoàn văn công Quân đội nài nỉ:

– Thầy cứ đàn đi. “Biệt ly” là ca khúc nổi tiếng một thời, nếu ông Lân đến, em sẽ có cách.

Thầy Long gật đầu lẳng lặng bấm nhẹ một hợp âm rồi chuyển sang gam rê thứ bắt vào: “Biệt ly! Nhớ nhung từ đây. Chiếc lá rơi theo heo may, người về có hay”. Sa và Thuỳ khe khẽ hát theo: “Biệt ly! Sóng trên dòng sông. Ôi, còi tàu như xé đôi lòng…” Hai cô say sưa với giai điệu trầm, buồn, trong khoảnh khắc, đang hứng khởi bởi những rung động tâm hồn sâu lắng đã vô tình cất giọng song ca: “Mấy phút bên nhau rồi thôi, dáng em sống trong hồn tôi…”. Thầy Long lúc ấy cũng nhất thời quên đi “lệnh chỉ” cấm kỵ không thành văn đối với những bản nhạc buồn, đảo thế tay chuyển gam đệm một cách nhiệt tình nâng đỡ cho lời ca của hai cô học trò. Tiếng đàn vừa ngừng, Sa không kìm được lòng mình chợt nức nở khóc. Thầy Long lựa lời an ủi:

– Sa dễ xúc động quá.

– Thưa thầy, thầy đàn bản nhạc này, làm em nhớ đến cách đây gần hai năm, ở Cao Bằng em đã phải chia tay với một người bạn.

– Tôi nghe nói thời gian ấy một số anh chị em công trường ta vào Quảng Bình?

– Thưa thầy, bây giờ phần lớn họ đã vào Quảng Trị.

– Từ nay không nên hát bài này nữa, – thầy Long bảo. – Giai điệu của nó đẹp nhưng dễ gợi cho người ta nỗi buồn, dù rằng đó là nỗi buồn cao quý.

Quả như thầy Long dự đoán, chiều hôm sau Sa và Thuỳ được “mời” lên văn phòng gặp bí thư Phan Lân. Trong phòng còn có bí thư chi đoàn nhà trường Nguyễn Lê. Mở đầu, Phan Lân nghiêm giọng chất vấn:

– Tối hôm qua, hai đồng chí hát nhạc vàng ở chỗ thầy giáo Long phải không?

Lam Thuỳ cười nhạt hỏi:

– Theo đồng chí bí thư thì thế nào là nhạc vàng?

Phan Lân sẵng giọng:

– Cô không trả lời mà hỏi lại tôi là thế nào? Thôi được, để tôi nói cho các cô nghe. Nhạc vàng là thứ âm nhạc nói về tình cảm uỷ mị, sướt mướt do kẻ địch đặt ra để ru ngủ thanh niên, làm họ thủ tiêu tinh thần đấu tranh cách mạng. Nói chung đấy là những bài hát rất có hại cho  cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta.

Thuỳ chăm chú nhìn mái tóc bóng mượt của Phan Lân cười gằn:

– Anh làm công tác Đoàn mà cho những ca khúc “Biệt ly”, “Đêm đông”, “Sơn nữ ca”… là nhạc vàng thì quả thật chẳng biết gì về dòng nhạc trữ tình cả. Đã bao giờ anh được nghe nghệ sĩ Thương Huyền hát bài “Sơn nữ ca” nổi tiếng của nhạc sĩ Trần Hoàn hay ca sĩ Quý Dương trình bày bài “Đêm đông” của Nguyễn Văn Thương chưa?

– Này, cô kia, không được xúc phạm đến danh dự tôi. Trước mặt các cô bây giờ là bí thư Đoàn Công trường chứ không phải loại cá mè một lứa mà ăn nói thiếu văn hoá.

Bí thư chi đoàn Nguyễn Lê thấy tình hình có vẻ căng thẳng vội chen ngang, tiếp ứng cho Phan Lân:

– Yêu cầu đồng chí Thuỳ phải thành khẩn nhận khuyết điểm.

– Tôi xin lỗi đồng chí Lê. – Sa từ đầu vẫn ngồi yên nghe Phan Lân và Thuỳ đấu khẩu, giờ thấy bí thư Đoàn công trường nói hớ cô mới bình tĩnh vào cuộc . – Anh Phan Lân bảo Thuỳ thiếu văn hoá, tôi không nghĩ thế. Văn hoá của một cá thể bao gồm cả trình độ học vấn, khả năng am hiểu một số lĩnh vực cơ bản trong đời sống cũng như cách ứng với môi trường xung quanh. Âm nhạc, nhất là ca khúc trữ tình, cứ cho là lãng mạn đôi chút đi cũng chỉ làm đẹp cho cuộc sống chứ không bao giờ làm con người bạc nhược thủ tiêu ý chí phấn đấu.

Phan Lân từ trước đến giờ chỉ quen lên giọng đạo đức hù doạ những anh chị em trình độ hạn chế , thiếu hiểu biết những vấn đề xã hội, giờ gặp phải đối tượng có học vấn, lại lắm lý lẽ, thành thử vốn kiến thức hổ lốn thu lượm được hồi ở trường nghiệp vụ xem ra không đủ sức thuyết phục. Anh ta bị hai “yêu nữ” thu mất phép màu, trong lòng vô cùng tức tối liền giở giọng răn đe:

– Nói như thế có nghĩa là cô Sa ám chỉ tôi trình độ văn hoá thấp phải không? Văn hoá thấp mà Đảng lại cử tôi làm bí thư Đoàn. Tôi nói cho mà biết, công trường xét cho các cô vào đây học là để thành người cán bộ kỹ thuật vừa hồng vừa chuyên nhằm phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Nếu không tự giác rèn luyện thái độ chính trị và ý thức kỷ luật, đêm hôm còn túm năm tụm ba hát nhạc vàng, Tổ chức buộc phải trả các cô về đội sản xuất.

 Thuỳ nghe những lời thuyết giảng đầy giọng răn đe của Phan Lân tự nhiên bật cười:

– Đề nghị đồng chí bí thư cho chúng tôi xem văn bản cấm của Trung ương Đoàn đối với những bài hát gọi là “nhạc vàng”.

– Cô đừng có thách! – Phan Lân hậm hực ấn cái khoá cặp da to bằng nửa tờ báo đến tách một cái rồi chụp mũ nồi lên đầu, đứng dậy. Ra đến cửa, anh ta còn dặn lại bí thư chi đoàn:

– Đồng chí cần phải tổ chức cuộc họp Ban chấp hành để kiểm điểm thái độ chống đối nghị quyết của những thành phần chậm tiến, xong gửi biên bản lên văn phòng Đoàn Công trường.

 Phan Lân đi rồi, Nguyễn Lê mặt nặng như chì nhìn hai đoàn viên cứng đầu cứng cổ thở dài:

– Các đồng chí vuốt mặt phải nể mũi chứ. Bí thư Đoàn Công trường xuống góp ý với mình về tác phong sinh hoạt, đúng thì sửa chữa mà chưa đúng cũng lấy đó làm bài học kinh nghiệm, thế mà cứ thẳng thừng đốp chát, chẳng giữ thể diện cho người ta. Vậy là bao nhiêu công lao phấn đấu của chi đoàn giờ đổ xuống sông xuống biển cả.

– Anh thông cảm. Chúng em có muốn thế đâu. Chính ông ta đến gây sự trước đấy chứ.

– Thôi, tôi cũng chịu hai cô. – Nguyễn Lê chán nản bảo. – Các cô nhiều lý luận lắm, nhưng hãy coi chừng. Ông Phan Lân không dễ gì bỏ qua chuyện này đâu.

Thầy Long, sau khi biết nội dung cuộc “gặp mặt vui vẻ” với bí thư Phan Lân chỉ mỉm cười. Thùy biết là thầy đồng tình nhưng vẫn cẩn thận thăm dò:

– Liệu chúng em có bị đuổi học không hả thầy?

– Nếu họ có ý định ấy tôi sẽ can thiệp. – Thầy Long bảo. – Các em vừa học tốt vừa lao động tích cực, đuổi được cũng còn khó. Nói thật, không phải tôi khuyến khích chống lại cấp trên đâu nhưng đúng là hôm qua các em đã cho ông bí thư Đoàn bài học nhớ đời.

CHƯƠNG 10

Thầy Long là dân Hà Nội gốc. Nhà anh ở một ngõ hẻm thuộc khu phố cổ quanh năm thiếu ánh sáng mặt trời. Năm Long lên ba thì bố anh, vốn là chiến sĩ cảm tử, hy sinh tại mặt trận Liên khu I. Thời kỳ Hà Nội bị tạm chiếm, ba mẹ con tản cư lên Đồn Vàng Phú Thọ. Mẹ anh cũng tập làm nương, phát rẫy, lên rừng chặt củi như người dân tộc. Những năm tháng xa Hà Nội đã để lại trong tâm trí cậu bé ấn tượng không bao giờ phai mờ về mảnh đất và con người trung du đằm thắm, đôn hậu, giàu lòng nhân ái. Nhưng cũng chính tại đây Long cũng phải trải qua những chuỗi ngày đau thương bởi sự ra đi của Lý, người chị gái hơn anh hai tuổi vì bệnh sốt rét. Không thể chịu đựng nổi cái nơi lúc nào cũng gợi nên những kỉ niệm buồn, cuối năm 1950, hai mẹ con lại dắt díu nhau về Hà Nội, chữa ngôi nhà cho đỡ dột rồi sắm gánh hàng cháo kiếm sống. Mẹ Long, chị Hạnh lúc ấy mới hăm bảy. Chị là người phụ nữ nhan sắc, lại mới một con mà goá chồng nên có nhiều người nhòm ngó. Một ông ký hoả xa[3]người phố Hàng Thiếc, chưa có con trai nối dõi tông đường mà bà vợ thì đã cứng tuổi, đẻ toàn vịt giời, nhờ người mai mối. Ông ta bảo: “Nếu cô bằng lòng, tôi sẽ mua cho một ngôi nhà ở gần ga Hàng Cỏ, coi như mỗi bà một nơi để tránh chuyện vợ cả vợ lẽ”. Xem ra ông ký là người đứng đắn nhưng chị được bạn buôn cho biết, bà ký thì thuộc loại đáo để nhất nhì Hà Thành. Cách đấy hai năm, ông chồng đã dấm dúi đi lại với một cô đào ở Khâm Thiên, bà ta phát đánh hơi thấy đã thuê bọn anh chị đón đường, cắt tóc, bôi vôi lên đầu cô này.

Cháo của chị Hạnh là loại cháo sườn rẻ tiền, chỉ bán cho người nghèo, nhất là dân lao động làm thuê cho các ông chủ, bà chủ giàu có. Mỗi sáng, trước khi đi học, Long được mẹ múc cho một bát. Trưa, mẹ đã nấu cơm sẵn, chỉ việc ăn. Chiều giúp mẹ xay bột rồi học bài. Công việc hằng ngày cứ diễn ra thầm lặng trong cảnh mẹ goá con côi như thế nếu không xảy ra một chuyện. Hôm ấy, khi đi học về Long gặp một thằng bé đánh giày ở đường Bờ Sông. Thằng này trông mặt mũi hiền lành, người gầy, hai chân dài loằng ngoằng thò ra khỏi chiếc quần short ka ki vàng như cái váy đàn bà. Lúc ấy nó vừa từ một ngõ nào đó, một tay xách hòm đồ, một tay cầm chiếc mũ chào mào viền đỏ nhô ra, thấy Long, khẽ hỏi:

– Cậu có phải là thằng Long ở ngõ Hàng Đèn không?

– Thì sao? Mà cậu là ai mà biết tên tớ?

– Ra bờ sông tớ có chuyện muốn nói.

– Không được, giờ tớ phải về kẻo mẹ mong. – Long nghi ngại nhìn thằng bé đánh giày, từ chối khéo.

– Vậy thế này. Buổi mai, lúc cậu ra chơi tớ sẽ đợi ở cổng trường. Tớ là Hoàn, biệt danh “Hoàn cao kều”. Bố tớ trước ở cùng trung đội trong Liên khu I với bố cậu.

– Thôi được, ngày mai đợi tớ ở cạnh cây sấu. – Long ngẫm nghĩ một lúc rồi gật đâu. – Có biết cây sấu ở cạnh cổng trường không?

– Biết. Thôi cậu về đi. Mình cũng phải sang Hàng Khoai có chút việc.

Thằng Hoàn quê mãi Bắc Giang. Năm 1948, mẹ nó chết trong trận máy bay Pháp ném bom Cao Thượng. Bố nó là Vệ Quốc quân, đi từ năm 1946, đến lúc ấy chẳng có tin tức gì. Ông bà cô bác không còn ai, nó được một bà dì họ đón ra Hà Nội đi ở cho người ta. Thằng này tính ngang, bị chủ mắng, không chịu, bỏ thẳng, chuyển nghề bán lạc rang. Bán lạc rang rong ruổi các phố cũng kiếm được tiền sống tạm qua ngày nhưng khổ nhất là bị bọn con Tây con trêu chọc cướp mất hàng. Những hôm như thế mất cả vốn lẫn lãi, tối về nhịn đói. Nhưng khốn nạn nhất là gặp cảnh sát. Bọn này chẳng thương xót ai kể cả đàn bà, trẻ con. Chúng cứ lù lù xuất hiện đằng sau lúc nào không hay, hách dịch đòi giấy tờ tuỳ thân, ai không có là A lê! Về bót. Mà đã vào đấy thì thế nào cũng được nếm thử vài dùi cui rồi đợi người nhà mang tiền bảo lĩnh đến nhận về. Những kẻ vô gia cư như thằng Hoàn, bắt mãi nhà chức trách cũng ngán. Vì thế, sau khi giam chúng một đêm trong nhà muỗi, không thấy thân nhân đến nhận, thế là các ngài police lấy mõm giày Tây thốc vào mông đít vài cái kèm theo mấy câu răn đe rồi tống khứ. Cuối cùng chỉ có nghề đánh giày là được lâu. Làm công việc này cũng có nhiều lúc bị quỵt tiền nhưng không sợ mất đồ nghề vì vốn chẳng đáng là bao.

Bố thằng Hoàn trước làm nghề thợ xây, một năm có đến sáu bảy tháng ra Hà Nội kiếm việc. Giữa năm 1946 anh nhận lời với một ông cai thầu mang thợ bạn ra xây nhà hàng cao lâu Bạch Vân. Công trình đang dở dang thì Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Anh Thạch bị kẹt lại Hà Nội liền gia nhập lực lượng tự vệ chiến đấu Liên khu I. Tại Liên khu, hai người được biên chế ở cùng một trung đội. Kỷ niệm sâu sắc nhất là lần bắt được một gã Việt gian trà trộn vào hàng ngũ chiến sĩ tự vệ. Thiếu chút nữa Thạch bị nó bắt sống. Bấy giờ khoảng mười giờ đêm. Ngoài đường phố xe nhà binh chạy rầm rầm. Ở các ngã ba ngã tư, bọn Pháp đều bố trí vài chiếc tăng nằm án ngữ, nòng súng quay về các hướng sẵn sàng nổ súng. Tại nhà 72A, trung đội trưởng Thạch đang bàn với các chiến sĩ tìm cách vượt qua ngã ba Ông Tượng để chi viện cho trung đội 2 đang đánh nhau với địch ở nhà 146. Đơn vị này hết sạch đạn mà lại thương vong quá nhiều chưa đưa về tuyến sau được. Cùng lúc ấy có phái viên cấp trên xuống đưa thư yêu cầu trung đội trưởng về tiểu đoàn họp gấp. Người phái viên này còn nói thêm: “Các chiến sĩ phải kiên quyết bám trụ chiến đấu đề phòng địch phản kích, chờ lệnh mới của Liên khu, không ai được rời vị trí”. Anh Bình bấy giờ là tiểu đội trưởng nghĩ: “Quái nhỉ, tay phái viên này hình như mình đã gặp ở đâu đó. Mà tại sao họ không triệu tập họp ở đại đội mà lại lên tiểu đoàn? Việc này chắc là có uẩn khúc gì đây”. Nghĩ đến đấy, trong đầu anh chợt loé lên: “Đúng, cách đây mấy năm mình đã gặp anh ta mặc cảnh phục ở khu vực bót Hàng Đậu…”. Anh cầm đèn pile, lên đạn khẩu P38, lặng lẽ đi theo. Đến số nhà 27, đáng nhẽ rẽ theo ngõ Từ An lên Ban chỉ huy tiểu đoàn thì hắn lại bảo:

– Ban chỉ huy đã chuyển đến số nhà 24 ngõ Hàng Mành. Ta đi nhanh lên kẻo các đồng chí ấy chờ.

Anh Thạch quay lại hỏi:

– Mặt sau số nhà 24 ngõ Hàng Mành hình như là ngã ba. Chỗ ấy hoả lực địch rất mạnh, làm sao Ban chỉ huy lại đóng ở đấy? Hay là đồng chí nhầm?

– Không đâu. – Gã phái viên quát khẽ. – Tháo bao súng ra thả xuống chân. Làm nhanh lên!

– Ơ! Thế là thế nào?

Tay phái viên lăm lăm khẩu colt ấn đầu nòng vào lưng anh trung đội trưởng:

– Nào, bỏ súng xuống, về đến nơi rồi sẽ được biết mày nhầm hay tao nhầm.

 Thạch biết mình bị lừa bắt buộc phải tháo bao súng nhưng cố dềnh dàng nghĩ cách đối phó. Trước khi thả bao súng ngắn anh cúi thấp người đạp thật mạnh vào hạ bộ tên Việt gian rồi nhoài người lăn sang một bên. Hắn bị bất ngờ, nhằm Thạch bóp cò, nhưng vì quá đau, tay bị run nên viên đạn chỉ cày mặt đường một vệt rồi trượt xuống rãnh nước. Cùng lúc ấy, một vệt đèn pile nhoáng lên và hắn bỗng choáng người, sau gáy hắn là nòng thép lạnh toát của khẩu P38:

– Bỏ súng xuống!

– Dạ.

– Nhanh lên! Nếu chậm tao cho ăn đạn.

– Em xin các ông tha tội.

– Quay lại, về Ban chỉ huy rồi chúng tao sẽ nói chuyện với mày.

Sau mấy phút tra hỏi, tên Viêt gian sợ chết khai ngay. Hắn là người của Phòng Nhì[4]. Bọn chúng có hẳn một kế hoạch sử dụng con dấu và chữ ký giả để viết thư hoặc công văn lừa các cán bộ chỉ huy Liên khu, bắt họ khai thác tình hình chiến đấu của lực lượng tự vệ, sau đó thủ tiêu  nhằm mục đích phá hoại cuộc kháng chiến của ta. Sự kiện này đã được thông báo đến mọi cấp chỉ huy của Liên khu để mọi người đề cao cảnh giác, tránh mắc mưu bọn Việt gian bán nước. Từ đấy, Thạch càng thân với Bình hơn.

Những ngày ở Liên khu I, anh Bình có dẫn Thạch về thăm nhà mấy lần. Lần nào chị Hạnh cũng nấu món canh cá rô với cải cúc thết đãi. Bình hy sinh vào hôm trước khi các chiến sĩ tự vệ rút khỏi Hà Nội hai ngày. Anh bị viên đạn vào ngực từ một khẩu tiểu liên của địch bố trí trên tầng hai nhà số 167 ngay đầu ngã ba Ông Tượng khi đội cảm tử do anh dẫn đầu sang cứu trung đội 2. Lúc mới bị thương, Bình vẫn còn tỉnh táo, tưởng có thể qua khỏi nhưng khi đưa được về tuyến sau, các bác sĩ trạm cấp cứu chưa kịp đưa lên bàn mổ thì anh đã qua đời. Trước khi nhắm mắt, Bình có dặn, sau này nước nhà độc lập, Thạch cố gắng về thăm động viên an ủi Hạnh và hai cháu Lý, Long.

Đầu năm 1947, trước khi lên chiến khu Việt Bắc, Thạch về Bắc Giang, ghi tên tuổi, số nhà chị Hạnh vào cuốn vở học trò và dặn vợ, nếu đi chiến đấu anh có mệnh hệ nào thì sau này chị và thằng Hoàn tìm về Hà Nội nhận nhau. Chị Thái rưng rưng nước mắt trách:

– Anh chỉ nói gở làm mẹ con em thêm lo.

– Ấy là anh dặn trước thế chứ người ta sống chết có số lo gì. Em ở nhà chịu khó làm ăn nuôi con, đánh đuổi xong bọn cướp nước anh sẽ về đưa cả hai mẹ con ra Hà Nội một chuyến.

Chuyến ấy anh Thạch đi luôn một mạch, tham gia hầu hết các chiến dịch ở Việt Bắc, bị thương ba lần nhưng lần nào cũng thoát chết. Năm 1951, Thạch được tranh thủ về thăm nhà. Đến làng anh mới biết tin, chị Thái đã mất trong trận bom ở cầu Cao Thượng, còn thằng Hoàn theo người dì ra Hà Nội.

 *

Hôm sau thằng Hoàn đợi Long ở gốc cây sấu già. Hoàn kể cho Long về hoàn cảnh của mình rồi bảo:

– Trước khi ra đây tớ tìm được quyển vở bố Thạch đã ghi số nhà của cậu, mấy lần đã định đến nhưng sợ bọn mật thám rình mò. Mấy hôm trước có một thằng cùng dãy phố với cậu chỉ cho. Nó còn bày cách đón ở cổng trường này.

– Từ bấy đến nay cậu không nhận được tin tức gì của bố à?

– Không. – Thằng Hoàn lắc đầu. – Có khi bố mình hy sinh rồi.

– Mong rằng điều ấy không bao giờ xảy ra. – Long an ủi bạn. – Bây giờ về nhà mình, mẹ chắc sẽ vui lắm.

– Tớ sợ…

– Không lo, nhà mình tuy trong ngõ nhưng có một cửa phụ , lối ấy có thể chạy ra bờ đê.

Chị Hạnh biết được gia cảnh, thương thằng Hoàn lắm. Chị bảo nó ở hẳn đấy với thằng Long cho vui nhưng nó bảo còn phải làm ăn để kiếm chút tiền về quê. Tết năm ấy Hoàn về Bắc Giang và điều bất ngờ nhất đối với nó là được gặp bố. Anh Thạch đã có thời kỳ làm thợ ở nội thành, thông thạo mọi ngõ phố nên được cấp trên phân công về vùng địch hậu làm công tác điệp báo. Thực tình, anh rất ngại việc này mà thích ra mặt trận cầm súng chiến đấu hơn nhưng người phụ trách an ninh Liên khu bảo:

 – Cậu đã từng là tự vệ chiến đấu ở Liên khu I nắm được địa bàn hoạt động, giờ phân công vào nội thành là hợp lý. Trách nhiệm của cậu bây giờ nặng nề hơn gấp nhiều lần một người lính ngoài chiến hào. Cậu hiểu ý tôi chứ?

Anh Thạch vẫn chưa thông:

– Thưa anh, nhưng…

– Còn nhưng gì nữa. – Ông trưởng ban an ninh vui vẻ bảo. – Tôi đã bố trí để cơ sở nội thành đón các cậu. Nhớ là không được manh động mà chỉ tìm cách lấy được thông tin của địch thôi.

Mồng năm tết, anh Thạch cùng hai chiến sĩ và thằng Hoàn quần nâu áo vá vào Hà Nội. Giấy tờ đã chuẩn bị đầy đủ do lý trưởng mấy làng tạm chiếm ngoại thành cấp nên đám lính gác đầu cầu Long Biên không nghi ngờ gì. Đến nội thành, anh Thạch tìm vào nhà chị Hạnh. Từ đó căn nhà chật hẹp của hai mẹ con thằng Hoàn được dùng làm trạm liên lạc của tổ điệp báo. Thằng Hoàn đánh giày lang thang khắp các phố thu lượm tin tức, còn anh Thạch, anh Thung và anh Vang nhập vào cánh thợ xây. Chị Hạnh vẫn đi bán cháo sườn nhưng bây giờ thêm một nhiệm vụ chuyển những tài liệu quan trọng ra ngoài qua cầu Long Biên. Dưới gầm giường trong buồng, chị Hạnh đào một chiếc hầm bí mật. Những hôm anh Thạch đến đưa tin, nếu có động thì xuống nấp cho an toàn.

Hôm ấy vào khoảng bốn giờ chiều. Anh Thạch vừa rẽ vào nhà chị Hạnh thì thoáng thấy phía sau có bóng người. Anh nghi đó là mật thám liền chạy vào buồng nhưng chưa kịp xuống hầm. Chị Hạnh ngồi ngoài hành lang đang xay bột lo lắng nhìn quanh. Quả nhiên, một gã đàn ông râu ria cạo nhẵn, đầu đội mũ phớt màu cà phê, mắt dán cặp kính đen to bự từ ngõ bước vào hỏi:

– Người đàn ông vừa chạy vào đây đâu rồi?

Chị nhìn hắn một giây, biết rõ là mật thám, nên giọng chị tỉnh như không:

– Có lẽ ông nhầm. Từ trưa đến giờ làm gì có ai vào đây.

– Này, đừng có chối quanh. – Gã mật thám sừng sộ. – Tao vừa nhìn thấy nó chạy vào đây vậy mà đã biến mất như có ma. Mày giấu nó ở đâu? Nói ngay!

– Ông là ai mà đến đây quát nạt? – Chị Hạnh làm ra vẻ bực mình cũng quát lại. – Ra khỏi đây ngay, nếu không tôi đi báo cảnh sát.

– Này, cô em xinh đẹp! – Hắn tháo cặp kính đen để lộ đôi mắt ti hí đảo loang loáng dưới hàng mi rậm như chổi sể. – Ta chính là cảnh sát đây, không phải báo ai cả. Mở cửa buồng ra!

– Không mở! – Chị Hạnh đứng chắn ngang, trừng mắt. – Định đến đây bắt nạt đàn bà goá đấy hả?

– Mở ra! – Tên mật thám rút khẩu súng ngắn trong bụng, lên đạn đến “rắc” một cái chĩa vào chị Hạnh. – Đúng là mày đã giấu nó trong buồng, tao đếm đến ba, không tránh sang một bên là tao bắn. Nào, một…, hai…

Hắn chưa kịp đếm đến ba thì đã nghe đến “hự” một tiếng, rồi cả thân người tên Việt gian đổ xuống. Chị Hạnh hoảng hồn, mãi mới định thần được. Thì ra người hạ gục gã chính là thằng Hoàn. Vừa về đến ngõ đã nghe tiếng quát tháo, biết ngay là có chuyện, nó bèn rón rén lại gần. Khi thấy thằng mật thám rút súng ra, Hoàn vớ ngay khúc củi to bằng bắp tay lẳng lặng đến gần phang một nhát rất mạnh vào đầu. Khi anh Thạch lên khỏi hầm thì tên Việt gian đã chết. Việc này xảy ra ngoài dự kiến nên cả anh Thạch và chị Hạnh đều lúng túng chưa biết giải quyết thế nào. May, ngôi nhà này ở sâu trong ngõ hẻm, ít người qua lại nếu không thì gay to. Cuối cùng lại vẫn thằng Hoàn đưa ra ý kiến, tạm thời cho cái xác xuống hầm, đến đêm sẽ đem hắn ra theo cổng phụ ném xuống sông Hồng phi tang.

Sau vụ ấy, nhóm điệp báo của anh Thạch hoạt động dễ dàng hơn. Thằng Hoàn trở thành chiến sĩ đắc lực trong việc thu lượm tin tức từ lũ con cái các gia đình quan chức nguỵ quân, nguỵ quyền. Trận quân ta tập kích sân bay Gia Lâm và ném lựu đạn ở Câu lạc bộ sĩ quan Pháp cũng có một phần chiến công của nó.

Đầu năm 1953, khi đã thu thập đầy đủ những tin tức cần thiết của địch trong nội thành, anh Thạch được Ban an ninh cử lên mặt trận Điện Biên. Trước khi đi anh dặn thằng Hoàn:

– Con ở lại phải bảo vệ cô Hạnh và bạn Long. Bố đi công tác một thời gian…

Nhưng rồi sau chiến thắng Điện Biên anh Thạch không về. Gia đình chị Hạnh chờ đỏ cả mắt mà vẫn bặt vô âm tín. Mãi đến năm 1958, Hoàn mới nhận được giấy báo tử của bố. Anh Thạch hy sinh ở Luông Pha Băng (Luangprabang) bên đất Lào trong khi truy kích đám tàn quân Pháp. Được tin, Hoàn ra Hà Nội báo cho mẹ con chị Hạnh ngay. Chị chọn ngày về Bắc Giang lên chùa Đụn làm lễ cầu siêu cho anh. Từ đó chị Hạnh ở vậy nuôi Long và Hoàn ăn học, dù rằng lúc ấy chị mới ba mươi bảy. Hoàn ít hơn một tuổi gọi Long bằng anh. Thời kì này chị Hạnh thuê một chỗ ở đầu phố bán bánh cuốn chả. Năm 1961, Long tốt nghiệp lớp mười, thi đỗ Đại học Sư phạm. Hoàn học muộn hơn, bấy giờ mới xong lớp bảy. Chị Hạnh bắt thi vào cấp 3, nó bảo:

– Nhà mình nghèo, con học thế là đủ. Mẹ cho phép con đi kiếm việc để anh Long yên tâm học đại học.

– Trước khi bố Thạch ra đi mẹ đã hứa là sau này nuôi con nên người. Bây giờ con bỏ ngang đi làm mẹ không đành lòng. Hoàn, con có thương mẹ không?

Nghe chị Hạnh hỏi, Hoàn bỗng quay đi, giọng nghẹn ngào:

– Con thương mẹ vất vả nên mới xin đi làm, chứ thực ra con cũng muốn…

– Không được. – Chị Hạnh lấy mu bàn tay quệt nước mắt. – Dù thế nào con cũng phải học tiếp cấp 3. Hoàn cảnh nhà mình khó khăn thật nhưng gánh hàng của mẹ cũng vẫn kiếm được. Hơn nữa, anh Long bây giờ được Nhà nước nuôi.

Thế là cũng vì thương mẹ Hạnh, Hoàn lại đi học.

Long tập chơi guitare từ lúc mười một tuổi, những năm học trung học lại được thầy Phú, giảng dạy môn Pháp văn hướng dẫn. Thầy Phú cũng là cây guitare cự phách của thành phố. Thầy mở một lớp tại nhà. Học sinh theo có đến vài chục. Chính thầy là người đầu tiên phát hiện ra năng khiếu của Long. Biết hoàn cảnh Long khó khăn, thầy đến tận nhà động viên chị Hạnh cho con trai tham gia lớp buổi tối và không phải đóng học phí. Cứ đều đặn mỗi tuần một buổi, trong vòng hai năm, Long đã chơi được những đoạn phức tạp với nhiều biến tấu trong các bản nhạc soạn riêng cho guitare như “Phiên chợ Ba Tư”, “Vũ khúc Tây Ban Nha”, “Sông Lô”… Hết năm thứ nhất, Long bàn với Hoàn:

– Anh sẽ nhờ người tìm cho một chỗ trong thành phố để làm gia sư.

Hoàn bảo:

– Anh cứ yên tâm học, đừng dạy thêm ảnh hưởng đến sức khoẻ. Ở nhà em sẽ xay bột, tráng bánh giúp mẹ.

– Dạy thêm không vất vả lắm đâu, em khỏi lo. Điều anh vẫn băn khoăn là ở em cơ. Dù trong hoàn cảnh nào cũng không được bỏ học, nhớ chưa chú em?

Hoàn cười:

– Nhớ rồi, nhớ từ lúc em quẳng bộ đồ đánh giày xuống hồ Ha Le[5] kia.

Cuối cùng thì cũng có người mời Long làm gia sư. Đó là gia đình một quan chức cao cấp Bộ Giao thông. Ông thứ trưởng này có hai bà. Bà cả cưới thời Nhật đảo chính nhưng không có con trai. Bà hai cưới hồi ở chiến khu Việt Bắc đã sinh cho ông một cậu ấm nên được quý như vàng. Ông mua cho hai mẹ con căn hộ ba phòng gần khu Cầu Giấy, cứ một tuần đôi ba bận đánh xe ô tô đến thăm. Bà này còn trẻ, có khi chưa đến ba mươi nhưng tính lẳng lơ, mắt liếc trai loang loáng, nhưng nguồn gốc xuất thân không ai rõ. Người thì bảo bà trước vốn là dân hàng xén, chạy loạn lên Thái Nguyên, người lại cho rằng bà thất tình cắt tóc đi tu ở chùa Phổ Kế, có kẻ độc mồm độc miệng còn tung tin bà ta là gái làng chơi. Cậu ấm mới tám tuổi, lười học và thích ăn quà vặt. Ở trường nó thường nghĩ ra những trò quỷ quái trêu chọc bạn. Về nhà, bắt nó phải ngồi vào bàn để Long uốn nắn là việc hoàn toàn không dễ. Ngay buổi đầu tiên bà ta đã hỏi Long rất ỡm ờ:

– Cậu đã có ý trung nhân chưa? Chắc là có rồi, trông đẹp trai thế cơ mà…

Bà ta vừa hỏi, vừa tự trả lời làm cho Long đâm lúng túng chẳng biết nói thế nào cho phải. Mỗi tuần Long chỉ dạy thằng bé hai buổi nhưng thỉnh thoảng bận lên lớp anh lại phải nghỉ. Có hôm nghỉ không báo trước, lần sau Long đến bà ta trách:

– Cậu đi đâu không đến làm “người ta” chờ đỏ cả mắt…

– Xin lỗi chị, mấy hôm tôi phải họp sinh hoạt lớp. Tôi sẽ dạy bù vào hôm khác. Thế em Cường đâu?

Bà ta rót cho anh chén nước rồi đứng dậy lại đằng sau ghế, vòng tay ra phía trước ép bộ ngực đồ sộ, nóng hổi vào vai Long:

– Cậu cứ uống nước đã. Em Cường đi chơi, tí nữa nó về.

– Sao chị lại làm thế? – Long đỏ bừng mặt, nhích ra khỏi khối thịt mềm mềm đang phập phồng phía sau.

– Đàn ông gì mà nhát thế! – Vừa nói người đàn bà vừa dang tay ôm ghì lấy Long đẩy anh ngã xuống sàn nhà.

– Bốp! – Long ngồi dậy quay sang tát cho người đàn bà một cái, xong, anh đứng dậy, xách cặp bước ra khỏi cửa.

Từ đấy anh không bao giờ dám bén mảng đến ngôi nhà ấy nữa.

Ít lâu sau, một người bạn cùng lớp giới thiệu anh dạy đàn cho đứa cháu trai một gia đình ở phố Hàng Nâu. Bố mẹ nó di cư vào Nam từ năm 1954, mang theo đứa con trai thứ hai, để lại cho ông bà nội cô chị và thằng em út. Ông nội thằng bé là một hoạ sỹ theo trường phái ấn tượng. Bà vợ có sạp vải ở chợ Đồng Xuân. Chị cậu ta là cô Huê, mười tám , hàng ngày ra chợ bán hàng với bà.

Căn hộ của ông bà Hiểu thuộc loại nhà ống hai tầng dài hun hút phải đến ngót ba chục thước, ban ngày không bật điện thì lúc nào cũng mờ mờ như đêm trăng suông. Tầng dưới là nơi sinh hoạt của gia đình gồm phòng khách, phòng ăn và phòng ngủ. Tầng trên, ngăn ra một nửa làm xưởng vẽ. Phần còn lại là của thằng cháu rồi đến gian thờ tổ tiên. Ông hoạ sỹ ít ra ngoài. Mỗi khi có việc phải đi, ông ăn mặc rất chững chạc: complét xám, cravate trắng, mũ phớt dạ hạt dẻ và chiếc can khảm xà cừ. Phòng tranh của ông toàn vẽ những linh hồn phạm tội nặng thời trung cổ bị hành quyết dưới những hình thức hết sức quái đản. Có một bức sơn dầu làm Long phát khiếp, về đến nhà còn thấy rờn rợn. Trong tranh là một con quái vật hai đầu. Một đầu âm và một đầu dương. Cái đầu dương trông giống như đầu con rắn có hai mào. Còn đầu kia hệt đầu con sâu khoai xanh lét với hai chiếc sừng đầy lông. Con rắn hai mào giương cặp mắt lóng lánh như mắt ma rồi bất thần túm lấy cặp sừng trên đầu con sâu khoai. Nó cứ kéo dần, kéo dần cho đến lúc cái đầu kia đến vừa tầm, liền há cái miệng rộng hoác đớp lấy, cặp mắt thuỷ tinh lồi cả ra ngoài… Một bức khác, ông hoạ sỹ vẽ con gà có đôi chân son, cặp cánh bé xíu màu vàng rơm đang bị một con quái vật ba đầu trông như con rết đang cắn vào cổ. Thỉnh thoảng ông gọi Long sang uống rượu. Anh không biết uống nhưng cứ phải cầm nhấc lên rồi đặt xuống để nghe ông già thao thao bất tuyệt về các trường phái hội hoạ phương Tây, về triết học hiện sinh ở Pháp và chủ nghĩa vô vi của Lão Tử thời cổ đại Trung Quốc. Ông có ý định đào tạo thằng bé thành một hoạ sỹ nổi tiếng, kế tục sự nghiệp của mình, nhưng bà chủ sạp vải vốn xưa nay chỉ coi ông là thợ vẽ không hơn không kém, lại muốn cháu mình thành nghệ sỹ guitare. Bà bảo:

– Tranh ông vẽ toàn ma quỷ với quái vật có treo ngoài nghĩa địa cho ma nó xem.

Ông không thèm chấp nên lúc nào bà nói như thế ông lại đưa ra câu muôn thuở:

– Bà chẳng hiểu gì hội hoạ cả.

Thằng bé vốn không có năng khiếu đàn. Sở dĩ bà nội bắt nó theo nghiệp cầm ca là vì thời trẻ bà phải lòng một anh kép đàn ở gánh hát Kim Chung. Anh này chơi guitare phím lõm của dòng nhạc tài tử Nam Bộ rất mùi. Từ ngày gánh hát về rạp, buổi biểu diễn nào bà cũng trốn bố mẹ đến xem chỉ cốt để nhìn thấy ý trung nhân. Rồi hai người gặp nhau. Hoá ra anh kép là người Hà Nội chứ không phải gốc Nam Bộ, nhưng đã phiêu dạt vào miệt Sài Gòn từ những năm ba mươi. Tình cảm đang có chiều mặn nồng thì bố mẹ biết chuyện. Họ thuê một thám tử tư theo dõi hành tung cô con gái rượu. Kết quả bà bị nhốt trong buồng trong suốt thời gian lưu diễn còn lại của gánh hát Kim Chung, đến khi được thả ra thì người kia đã theo bạn diễn về Nam…

Xem ra người thích nghe đàn nhất trong nhà lại là cô Huê chị thằng Hoan. Mỗi lần Long đến thế nào Huê cũng tìm cách lên tầng trên tìm một thứ gì đó. Cô này phải nói là khá xinh, giống hệt những mẫu người đẹp trong tiểu thuyết diễm tình của Tự lực văn đoàn. Chỉ cần thoáng qua Long cũng biết là nàng có cảm tình với mình, nhưng trong tâm hồn anh chưa có sự chuẩn bị để đón nhận tín hiệu trái tim. Anh không phải là kẻ khắc kỷ nhưng còn phải học cho xong đại học. Anh còn có một gia đình và một bà mẹ tần tảo hết lòng vì con đang từng ngày từng giờ mong anh thành đạt trong sự nghiệp, một đứa em kết nghĩa giàu lòng vị tha và nhân hậu. Tuy nhiên, chừng ấy lí lẽ đưa ra cũng chưa đủ sức thuyết phục. Điều cốt yếu mà Long không nói ra được đó là mẫu người như Huê có vẻ như không hợp với quan niệm của anh về tình yêu. Anh học khoa toán nhưng lại có tâm hồn của sinh viên văn chương. Anh không mấy thích các cô tiểu thương trong chợ Đồng Xuân, vừa bán hàng vừa đọc tiểu thuyết ái tình và mơ đến hạnh phúc lứa đôi.

Sau hơn một tháng, Long thấy thằng bé chẳng có tiến bộ gì bèn nói với ông hoạ sỹ:

– Theo cháu, thiên hướng của em Hoan không phải muốn thành nghệ sỹ guitare. Nó học toán khá hơn. Ông nên bàn với bà cho em nó nghỉ đàn.

Ông hoạ sỹ già sau một hồi phân tích cho Long thấy sự khác biệt giữa chủ nghĩa ấn tượng và chủ nghĩa tượng trưng trong hội hoạ hiện đại như thế nào, mới gật đầu bảo:

– Anh nói đúng. Thằng Hoan không có năng khiếu đàn, chẳng qua là bà nó muốn tìm lại hình ảnh anh kép tài tử trong gánh hát bội ngày xưa mà thôi.

– Thế thì nhờ ông nói với bà là từ tuần sau cháu xin nghỉ.

– Merci beaucoup![6] – Ông già gỡ cặp kính lão gọng sừng để xuống giữa đống bút vẽ dính lem nhem sơn dầu giọng có vẻ như đùa – Anh là chàng trai tốt. Tôi phải tiết lộ một điều. Từ khi anh đến, con Huê ngày nào cũng lảng vảng lên đây… Nhưng hãy nghe lão già này khuyên một lời, nên tránh xa bọn con gái tiểu thương ra nếu anh muốn thành nghệ sĩ guitare thực thụ. Bọn họ lúc nào cũng nghĩ đến tiền và luôn coi anh chỉ là một kép đàn cũng như đã coi tôi chỉ là thợ vẽ bôi bác.

Từ đó, Long giải nghệ gia sư. Hằng ngày, nếu không bận, anh về nhà cùng Hoàn xay bột, tráng bánh giúp mẹ. Thời gian rồi cũng qua đi. Chẳng mấy chốc, Long tốt nghiệp đại học còn Hoàn tốt nghiệp cấp 3. Sau mấy tháng nghỉ hè, anh nhận quyết định bổ nhiệm về trường Trung học giao thông Vĩnh Yên và đầu năm nay được phân công lên Công trường Cầu đường Sơn La.

Phòng của Long nằm ở gian đầu của dãy nhà tập thể dưới tán một cây long não rất lớn, mùa hè lúc nào cũng rợp bóng mát. Những lúc nhà trường hội diễn văn nghệ, Long thường tham gia tập cho một số anh chị em có năng khiếu. Những ca khúc như “Bạch Long Vĩ đảo quê hương”, “Quảng Bình quê ta ơi”, “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát” nổi tiếng một thời đã được anh dày công dàn dựng khiến cho phong trào văn nghệ quần chúng của nhà trường có tiếng vang khắp nơi. Từ khi gặp Sa, cô học trò này đã làm anh có cảm giác rất lạ. Long không dám thú nhận là đã bị người con gái có đôi bàn tay đẹp tuyệt vời chinh phục, nhưng tâm trạng anh lại vô cùng xao xuyến mỗi khi nhìn thấy cô trên lớp. Một người con gái có trình độ học vấn như thế mà phải đi công trường chắc là cuộc đời có điều gì uẩn khúc.

Cuối năm thứ nhất, chương trình văn hoá cơ bản đã hoàn thành. Các giáo viên chỉ còn tổ chức thi kiểm tra lấy điểm tổng kết cho học viên là xong. Hai năm tiếp theo, học viên sẽ học các môn kỹ thuật chuyên ngành. Thời gian về Vĩnh Yên sắp tới mà Long vẫn chưa nói gì được với Sa. Nghĩ mãi, cuối cùng anh viết cho cô một bức thư.

“Sa em! Tôi viết cho em những dòng này khi mà thời gian ở Công trường chẳng còn là mấy. Gặp để nói cho em rõ tâm trạng thì tôi không dám, sợ rằng em lại trách là quá vội vàng. Em! Ngay từ khi gặp em lần đầu tôi đã có cảm giác là yêu em, yêu thật lòng bởi sự rung động tâm hồn trước vẻ đẹp mình chưa bao giờ nhìn thấy trên đời. Vẻ đẹp ấy dường như là được tạo hoá kết hợp một cách hài hoà giữa phẩm chất trí tuệ và hình thức bên ngoài khiến em trở thành niềm mơ ước cháy bỏng của không ít chàng trai. Nhưng với tôi, hình thức bên ngoài cũng chỉ là điều kiện đủ của một định đề toán học. Phẩm chất bên trong của người phụ nữ mới là điều kiện cần để tôi trao gửi trái tim mình. Tôi thật sự cảm phục khi em và Thuỳ yêu cầu chơi đàn bản “Biệt ly” của Doãn Mẫn, rồi sau các em hát cho tôi nghe bài “Nụ cười miền sơn cước”. Chỉ những người thực sự có tâm hồn rung cảm sâu sắc mới hát được hay như thế. Trong khoảnh khắc hoá thân vào bài ca, con người thấy mình cao hơn, đẹp hơn, vượt lên khỏi những thói tầm thường phù phiếm của người đời, mà một trong những nhân vật điển hình là ông bí thư Đoàn Công trường P.L. Họ học ít, mơ mộng nhiều và đầy ảo vọng, luôn tự huyễn hoặc mình bằng những lý tưởng cao siêu. Tôi không phải là kẻ theo chủ nghĩa lãng mạn nhưng tôi tôn trọng cá tính và quyền tự do của mỗi con người. Tôi yêu em vì, ít ra cũng đã thấy được ở em những quan điểm gần với tôi về nhân sinh quan và thế giới quan. Ở đời, không phải lúc nào ta cũng có người tri kỷ. Tôi viết cho em những dòng này xuất phát từ lòng chân thành và trái tim đang thổn thức vì những đau khổ của một tấm tình đơn phương. Mong rằng em hãy hiểu tôi”.

Nhận được thư Sa lặng người. Tâm trạng cô lúc này rối bời nên cứ chần chừ mãi không biết trả lời thầy Long thế nào cho phải. Đêm hôm ấy là một đêm dài khác thường. Cô thức gần đến sáng, ngồi một mình ghi nhật kí.

Mộc Châu 25 tháng 10…

Vậy là xa Hoà An đã hơn một năm. Từ bấy đến nay công trường không giải quyết phép để tập trung hoàn thành công việc trước khi chuyển vùng. Nhớ Hoà An lắm. Cho đến giờ này chắc Hoà An đã biết đi và tập gọi bà, còn tiếng “mẹ” có lẽ phải đến khi nào mình về con bé mới bắt đầu tập nói. Bây giờ Hoà An lớn bằng bao nhiêu nhỉ? Có ngoan không? Có hay khóc không? Ước gì lúc này có đôi hài nghìn dặm như trong cổ tích mà bay ngay về với con gái bé bỏng thương yêu của mẹ. Không có nỗi khổ nào bằng người phụ nữ đẻ con ra mà không được nuôi con. Hạnh phúc lớn nhất đối với người mẹ là được ôm ấp, chăm bẵm con mình với tất cả niềm thương yêu trìu mến. Còn Phan giờ này ở đâu? Chẳng hiểu vì sao mà đã gần hai năm nay không viết cho mình một chữ nào? Hay là…

Thầy Long là người hiểu mình và mình cũng quý thầy nhưng chuyện thầy ngỏ lời thì quá bất ngờ. Em chỉ có thể cảm ơn chứ không thể đáp lại tấm lòng thương yêu của thầy. Em đã có Phan và Hoà An, mong thầy hiểu cho.

Mấy hôm sau Sa lại nhận được một bức thư. Lần này Long chỉ viết ngắn gọn mấy chữ: “Tối nay, lúc tám giờ, tôi muốn gặp em ở bờ suối, chỗ cây doi”.

Đọc xong Sa cứ chần chừ mãi, hết ra lại vào rồi tự hỏi mình: “Có nên đi không? Không đi thì thầy Long sẽ hiểu lầm mà đi thì chuyện gì sẽ xảy ra?”. Mãi đến hơn bảy giờ cô mới quyết định.

Khi Sa đến thầy Long đã chờ bên cây doi. Đêm đông rét hun hút. Gió lùa xào xạc. Vành trăng thượng tuần bàng bạc, lúc ẩn lúc hiện, nhập nhoà giữa những tảng mây xám, nặng chình chịch cứ lừng lững trôi ngang trời. Long hỏi:

– Tôi đã viết thư nói rõ nỗi lòng mình, vì sao đã mấy hôm rồi Sa không trả lời?

– Thưa thầy! Em không thể. Mong thầy hiểu cho. Em đã có…

– Không thể thế được. Tôi không tin. Hay là tôi không xứng với em?

– Thưa thầy! Điều này rất khó nói nhưng đó là sự thật. Từ trước đến nay em chưa kể với ai.

Không để Sa nói hết, Long bỗng cầm tay cô, giọng anh run run:

– Anh… yêu em và không muốn… mất em.

– Đứng im! Các người đã bị bắt!

Có tiếng quát từ phía sau bụi doi, đồng thời bốn năm vệt đèn pile loang loáng đan nhau chiếu vào Long và Sa. Hai người còn chưa hết bàng hoàng thì đã thấy Trần Đảo và ba thanh niên Cờ đỏ xuất hiện. Nhìn thấy Đảo, Sa bất giác rùng mình. Hắn đã bị chuyển khỏi C22 đến mãi C18 ở Phù Yên, vậy mà chẳng hiểu thế lực nào đỡ đầu, bỗng chốc lại về Phòng kỹ thuật Công trường bộ. Lạ hơn nữa là hắn được phục hồi Đoàn tịch, làm bí thư chi đoàn cơ quan mới giỏi. Hai người được đưa về văn phòng Đoàn. Sa vừa bước vào đã thấy Phan Lân ngồi chễm chệ sau chiếc bàn lớn dưới ánh sáng đỏ quạch của ngọn đèn bão treo lủng lẳng bên cạnh. Trần Đảo liếc nhìn Sa vẻ đắc thắng. Anh ta cất giọng xun xoe báo cáo cấp trên:

– Thưa đồng chí bí thư, đội Cờ đỏ tuần tra đêm bắt được hai người này có quan hệ bất chính bên bờ suối. Chúng tôi đã đưa về đây để chờ lãnh đạo xử lý.

Phan Lân làm như vô tình chăm chú nhìn hai người một lúc rồi ra vẻ sửng sốt:

– À, thì ra là thầy giáo Long và cô Sa… Các vị có chuyện gì cần nói mà phải đưa nhau ra bờ suối đêm hôm thế này?

– Trần Đảo! – Long cười nhạt nhìn thẳng vào bộ mặt nhẵn nhụi của tay kỹ thuật viên. – Đừng có vu khống. Anh bảo thế nào là quan hệ bất chính? Người ta trả lương để anh làm mật thám theo dõi chúng tôi phải không?

– Sự thật bao giờ cũng có sức thuyết phục. – Đảo lại cất cái giọng bèn bẹt khẳng định. – Rõ ràng tôi nhìn thấy anh cầm tay cô Sa, thế chẳng phải quan hệ nam nữ bất chính là gì?

– Anh Đảo là cán bộ kỹ thuật cũng có chút văn hoá mà sao ăn nói hồ đồ thế? – Sa nói với Đảo nhưng lại nhìn thẳng vào mặt Phan Lân. – Nếu nam nữ cầm tay nhau là có quan hệ bất chính thì anh, hồi còn ở Cao Bằng một lần đã cầm tay tôi và bị ăn cái tát vào mặt trong góc nhà ăn tập thể anh còn nhớ không? Vì sao lúc ấy anh không chạy đến văn phòng Đoàn mà báo cáo với cấp trên?

Rõ ràng tay cán bộ kỹ thuật không dự kiến đến tình huống này. Hắn bị dồn vào thế bị động chưa tìm được câu trả lời thì Sa lại tiếp tục bằng giọng phải nói khá là đanh đá:

– Còn đồng chí Phan Lân, anh đã có vợ con ở quê, là một bí thư Đoàn đáng kính vậy có muốn tôi nói để mọi người biết anh đã quyến rũ cô Thành ở C16, đến khi cô ấy có mang, lại ép phải ra bệnh viện nạo thai không? Anh định bảo tôi vu khống chứ gì? Vẫn còn bằng chứng đấy. Lam Thùy là bạn rất thân của  Thành. Nó có thể làm chứng cho lời nói của tôi.

Phan Lân đang vênh vênh bộ mặt tiểu nhân đắc chí, nghe Sa tuyên bố chắc như đinh đóng cột bỗng tái mặt, gần như bị choáng. Anh ta hậm hực, giọng nhát gừng rất khó hiểu:

– Cô… cô… dám…

– Xin lỗi anh nhé! Nam nữ chưa có gia đình riêng người ta có quyền tìm hiểu. Mà tìm hiểu chả lẽ lại cứ phải dẫn nhau đến văn phòng Đoàn xin ý kiến bí thư? – Sa liếc nhìn Phan Lân giọng mỉa mai. – Hơn nữa lúc ấy mới có tám giờ tối. Anh định bày trò này ra để trả thù chúng tôi về cuộc tranh luận nhạc trữ tình phải không? Đường đường là một đấng mày râu mà làm trò hề đó thì hơi hèn đấy.

Màn kịch do Trần Đảo bày ra nhằm hai mục đích: tri ân Phan Lân về việc phục hồi danh hiệu đoàn viên và trả thù Sa hoàn toàn thất bại. Đắng nhất là bí thư Đoàn bị lột mặt nạ, hiện nguyên hình là kẻ cơ hội, trụy lạc chắc không còn dám cao giọng rao giảng về lý tưởng cũng như lẽ sống của thanh niên nữa.

Đêm hôm ấy, Sa đã nói hết hoàn cảnh của mình với thầy Long. Cô cảm ơn Long đã ngỏ lời yêu thương nhưng đời cô chỉ yêu duy nhất một người đàn ông, dù rằng giờ này chẳng biết ở chân trời góc bể nào, còn sống hay đã chết. Để Long hiểu và không nghi ngờ những lời bộc bạch của mình, Sa đưa cho anh mấy tập nhật ký viết từ hồi còn ở Cao Bằng. Đọc xong, Long ngậm ngùi nói:

– Tiếc là tôi không gặp em sớm hơn.

– Số trời đã định thế mà thầy. – Sa chép miệng bảo.

– Tôi cho rằng trên đời này không có số phận định trước cho mỗi con người mà chỉ có hoàn cảnh thôi. Em thật là người phụ nữ tuyệt vời đã đấu tranh vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt. Tôi mãi mãi yêu em và mong em tìm được anh ấy.

[1] F-105:  Thunderchief (Thần sấm), là một kiểu máy bay tiêm kích-ném bom siêu thanh được không quân Hoa Kỳ sử dụng ném bom Bắc Việt Nam trong giai đoạn đầu của chiến tranh.

[2] Giày da sĩ quan do Liên Xô viện trợ thời A. N. Kosygin làm Chủ tịch hội đồng bộ trưởng (1964 – 1980).

[3] Viên chức văn phòng ngành đường sắt thời Pháp cai trị Đông Dương gọi là ký hỏa xa

[4] Phòng Nhì: Deuxième Bureau, là cơ quan tình báo quốc phòng hải ngoại của Pháp.

[5] Hồ Ha Le: Tiếng Pháp là Halais tức hồ Thiền Quang

[6] Tiếng Pháp: Cảm ơn rất nhiều.

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.