Rằm tháng bảy (1)

Truyện Phạm Đình Trọng

MỘT

Buổi sáng nắng đẹp. Chiếc ô tô com măng ca màu rêu, mái bạt tròn từ cổng doanh trại quân đội trên đường Trường Chinh, Hà Nội, tiến ra, hòa vào dòng xe nhấp nhô cuồn cuộn trên đường phố đang tầm đông đúc. Những hình ảnh quen thuộc của Hà Nội thanh bình nhưng nhốn nháo, xô bồ hiện ra và lướt qua khung kính ô tô. Đường Trường Chinh. Ngã Tư Sở. thảm cây xanh trước học viện Thủy lợi. Gò Đống Đa. Văn Miếu… Trong xe, ngoài người lái xe còn trẻ mặc quân phục, mang quân hàm thiếu úy, ba người còn lại đều đã có tuổi. Người tóc muối tiêu. Người tóc bạc trắng. Vẻ mặt ai cũng phong trần, dãi dầu nắng gió và toát ra vẻ điềm tĩnh, trầm tư của người từng trải và sự ung dung, thanh thản của người đã làm xong xuôi mọi bổn phận trong gia đình, mọi trách nhiệm với xã hội.

Chiếc ô tô vào cổng tòa nhà cơ quan tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh Việt Nam, cơ quan MIA. Dừng lại trong sân tòa nhà, chiếc ô tô nhà binh xám xịt như một gò đất, như một công sự chiến đấu, lạc lõng bên tòa biệt thự duyên dáng, bên bồn hoa cây cảnh và bên chiếc xe du lịch đời mới bóng loáng. Ba người đàn ông lớn tuổi, bên mình vẫn đeo chiếc xà cột sĩ quan quen thuộc thời chiến tranh ra khỏi xe, đi qua mảnh sân, bước lên thềm nhà. Tuy áo họ mặc là áo trắng, áo sọc màu tươi tắn dân sự nhưng chiếc quần họ mặc, đôi giày họ đi đều là đồ nhà binh. Con người nhà binh càng thể hiện rõ ở bước đi dứt khoát, mạnh mẽ. Họ là những người lính già đã trở về đời sống dân sự.

Một cô gái trẻ xinh đẹp mặc áo dài vàng óng đón ba người lính già mặc áo dân sự dẫn vào một phòng họp rộng. Ba người lính già được những người đã có mặt trong phòng họp đứng dậy niềm nở bắt tay. Nhìn thấy hai người nước ngoài da trắng, ba người lính già bước tới. Không nói gì nhưng nét mặt tươi cười cởi mở, bàn tay nắm chặt, lắc mạnh của ba người lính già với hai vị khách nước ngoài đã là ngôn ngữ của những tấm lòng hiểu biết, cởi mở, chia sẻ với nhau. Rời tay nhau ra, họ kéo ghế ngồi cạnh nhau.

Hơn mười người ngồi quanh cái bàn rộng. Người chủ trì cuộc họp đứng lên nói:

–  Thưa quý vị. Những người bạn Hoa Kỳ đã làm việc với chúng tôi nhiều lần, chúng tôi đều đã quen biết nhau. Tôi cũng đã đến làm việc với bộ tư lệnh Phòng không – Không quân và đã được gặp ba vị đại tá hôm nay đến đây. Nhưng những vị khách của chúng tôi lại chưa biết nhau. Vì thế tôi xin giới thiệu. Hai vị khách ở phái đoàn MIA Hoa Kỳ: Ông Robert, trưởng đoàn. Cùng đi với ông Robert có ông Alex, chuyên viên của phái đoàn MIA. Những vị khách Việt Nam của chúng tôi là những sĩ quan cao cấp quân chủng Phòng không – Không quân Việt Nam, những người canh giữ bầu trời Hà Nội những ngày Hà Nội rực lửa chiến tranh năm 1972 sẽ cùng chúng tôi là chủ nhà tiếp các bạn Hoa Kỳ. Tôi xin giới thiệu Đại tá Văn Đa. Đại tá Huy Toàn. Đại tá Trần Việt.

Lần lượt những người được giới thiệu đứng lên, cúi chào. Người chủ trì nói tiếp:

–  Còn tôi là Đặng Đức Sinh cùng toàn bộ cơ quan MIA Việt Nam đã quá quen thuộc với các bạn Mỹ. Công việc hôm nay của chúng ta là: Theo đề nghị của ông Robert, lần này chúng ta chỉ tập trung tìm kiếm những người lái máy bay chiến đấu Hoa Kỳ vẫn mất tích trong một không gian và một thời gian hẹp là Hà Nội mười hai ngày đêm cuối tháng mười hai, năm 1972. Vì thế, lần này chúng tôi mời những người bảo vệ bầu trời Hà Nội năm đó, những người đã làm nên sự kiện Hà Nội tháng mười hai năm 1972, những người biết rõ nhất những điều mà ông Robert quan tâm tìm kiếm. Cụ thể, những điều ông Robert quan tâm và đề xuất với chúng tôi hôm nay là gì, xin ông Robert cho biết.

Ông Robert đứng lên nói giọng trầm ấm. Cô gái trẻ xinh đẹp mặc áo dài vàng óng ngồi cạnh người chủ trì cuộc họp, chuyển lời ông Robert ra tiếng Việt:

–  Thưa quí vị. Thưa các bạn Việt Nam quí mến. Sau nhiều lần đến Việt Nam, tôi được biết trong ngôn ngữ Việt Nam có một từ có sức nặng rất lớn của tình cảm và có tính triết lí sâu sắc về số phận là từ duyên nợ mà ngôn ngữ chúng tôi không có từ tương ứng. Chúng ta được ngồi với nhau thế này là do duyên nợ của lịch sử hai nước. Một lần có duyên gặp nhau, cả đời mang nợ tình nghĩa với nhau. Duyên nợ của chiến tranh mất mát, đau khổ hôm qua và duyên nợ của cuộc sống thanh bình tươi vui hôm nay.

Ông Robert ngừng lời. Từ giọng nói vang vang, lưu loát xã giao, ông chuyển sang chậm rãi, nhỏ nhẹ, đầy biểu cảm:

–  Hôm qua có những người đàn ông ưu tú của nước Mỹ đã đến đây đổ máu ở đây và nằm lại nơi đây, vì thế mảnh đất Việt Nam xa xôi, cách trở nay đã thành gần gũi, thân thuộc với chúng tôi. Chúng tôi thay mặt nước Mỹ đi tìm những công dân Mỹ, những linh hồn Mỹ còn lưu lạc, đón họ về, cảm ơn họ và cũng cảm ơn đất nước Việt Nam, con người Việt Nam đã bao dung với họ. Quả thực nếu không có sự bao dung đó, chúng tôi không thể trở lại đây. Sự bao dung đó cũng là duyên nợ của chúng ta. Lần này trở lại với tấm lòng bao dung Việt Nam chúng tôi đi tìm lời giải cho hai nghi vấn.

Ông Robert dừng lời đưa mắt nhìn từng người trong phòng họp như muốn thăm dò, muốn nhắc nhở sự quan tâm đến điều ông sắp đặt ra rồi ông chậm rãi:

–  Vâng. Chúng tôi có hai nghi vấn. Nghi vấn thứ nhất là có một máy bay chiến đấu của chúng tôi còn vùi trong đất ở phía Bắc thủ đô Hà Nội và nghi vấn thứ hai là có thể trong máy bay đó vẫn còn có một người đàn ông của chúng tôi. Đọc lại biên bản, ghi chép diễn biến từng ngày trong mười hai ngày đêm chiến dịch Ninebacker II cho chúng tôi hai nghi vấn và cũng là hai niềm tin như vậy. Lần này chúng tôi đến Việt Nam chỉ tập trung vào tìm kiếm chiếc máy bay đó và người đàn ông của chúng tôi còn ở lại cùng máy bay. Chúng tôi rất cảm ơn tấm lòng bao dung Việt Nam đã giúp chúng tôi rất nhiều trong công việc nhân đạo của chúng ta. Đặc biệt, chúng tôi rất cảm động và biết ơn sự chỉ dẫn chân thành, vô tư và cao cả của những sĩ quan Quân đội Nhân dân Việt Nam, những người có mặt trong sự kiện lịch sử Hà Nội tháng mười hai, năm 1972. Xin cảm ơn.

Người lính tóc bạc, đại tá Văn Đa đứng lên nói:

–  Thưa anh Sinh. Thưa ông Robert. Thưa các anh, chị. Chiến dịch Linebacker II, không quân Hoa Kì không phải chỉ đánh vào Hà Nội mà còn đánh vào Hải Phòng, Thái Nguyên, Bắc Giang và nhiều trọng điểm quanh Hà Nội. Trong mười hai ngày đêm các trận địa phòng không ở miền Bắc Việt Nam đã bắn rơi tám mươi mốt (81) máy bay chiến đấu của Hoa Kì, trong đó lực lượng phòng không Hà Nội tiêu diệt ba mươi (30) máy bay. Trong ba mươi máy bay đó có hai mươi ba (23) máy bay Bê năm mươi hai (B52), còn lại là các loại máy bay Ép một trăm mười một (F-111), Ép bốn (F-4), A sáu (A-6), A bảy (A-7), E bê sáu sáu (EB-66), vân vân.

Dừng giây lát nhìn hai người khách Mỹ, đại tá Văn Đa khẳng định:

–  Nếu máy bay rơi tại chỗ và người lái không kịp thoát ra thì chắc chắn đó là chiếc Ép một trăm mười một. Đây là loại máy bay hiện đại nhất của Hoa Kỳ lúc đó, có thể bay thấp dưới một trăm mét, dưới tầm phát hiện của sóng ra đa, dưới cả tầm lưới lửa dày đặc của các trận địa pháo phòng không tầm cao. Khi mang bom, Ép một trăm mười một xòe sải cánh dài tới hơn mười chín mét giữ ổn định. Nhưng hết bom, cánh cụp lại, thu về chỉ còn một nửa, tốc độ bay rất cao, thoát lẹ khỏi tọa độ lửa. Với những cuộc chiến tranh thông thường, đây là một ưu thế rất lớn, một sức mạnh vượt qua mọi đối kháng để giành chiến thắng. Nhưng cuộc chiến tranh Việt Nam lại là cuộc chiến tranh nhân dân. Bảo vệ bầu trời Hà Nội còn có các trận địa dân quân, du kích, giăng lưới lửa tầm thấp dày đặc của các loại súng bộ binh thông thường. Bay thấp dưới một trăm mét rất dễ dính đạn từ các trận địa này và bay quá thấp để loại bỏ sóng ra đa, loại bỏ lưới lửa đạn pháo tầm cao thì khi dính đạn tầm thấp, người lái chưa kịp thao tác xử lí gì, máy bay đã cắm sâu vào đất rồi!

Mở xà cột lấy ra tấm bản đồ trải rộng trên bàn, đại tá Văn Đa nói tiếp:

–  Toàn bộ số máy bay vào đánh phá Hà Nội bị hạ trong mười hai ngày đêm khốc liệt đó đều được đánh dấu trên bản đồ này. Nhưng vị trí xác định trên bản đồ là tọa độ lúc máy bay bị tiêu diệt, không phải điểm tiếp đất của nó. Không quân, tên lửa không thể biết được mục tiêu họ tiêu diệt rơi xuống chỗ nào. Đến những trận địa pháo cao xạ nhìn thấy rõ đường đạn của họ quất trúng mục tiêu, máy bay nổ tung trong lưới lửa họ giăng ra mà họ cũng không thể biết chiếc máy bay đang đùng đùng bốc cháy đó lao xuống đất ở điểm nào. Nhưng trung đoàn tôi có một đại đội phối hợp với du kích xã Thường Xuân đón lõng đánh chặn những chiếc máy bay vào đánh bom ga xe lửa Đông Anh và khu kho tàng khí tài lớn Uy Nỗ. Một máy bay Ép một trăm mười một đã bị lưới lửa tầm thấp của những trận địa này bắn rơi tại chỗ. Tôi xin giới thiệu đại tá Trần Việt và đại tá Huy Toàn hồi đó là chính trị viên và đại đội phó của đại đội súng mười bốn li năm (14,5mm), đã phối hợp cùng các trận địa súng bộ binh du kích xã Thường Xuân bắn hạ chiếc máy bay đó. Rất may là những sĩ quan chỉ huy trận địa giăng lưới lửa tầm thấp ngày đó, đại tá Phạm Việt và đại tá Huy Toàn biết rõ về chiếc máy bay rơi và xác định được chính xác điểm rơi của nó nay vẫn còn đủ trí nhớ và sức khoẻ. Đề nghị đại tá Phạm Việt ngày đó là chính trị viên đại đội bắn máy bay tầm thấp bố trí ở Thường Xuân cho biết cụ thể về chiếc máy bay bị trận địa các anh bắn rơi tại chỗ.

Người được giới thiệu là đại tá Trần Việt, mái tóc muối tiêu, dáng cao gầy đứng lên chỉ vào bản đồ:

–  Thưa các vị khách Hoa Kỳ. Thưa các anh chị. Hồi đó trận địa đại đội chúng tôi bố trí ở đây, cánh đồng xã Thường Xuân. Sau đêm đầu chiến đấu không hiệu quả, lại bị đánh trúng trận địa, thương vong lớn, mất cả đại đội trưởng, chúng tôi phải thay đổi cách đánh. Ngay trong đêm chúng tôi chuyển trận địa. Nhưng ở trận địa cũ chúng tôi vẫn duy trì cành lá ngụy trang xanh tươi. Thay cho những nòng pháo đã chuyển đi là những đoạn tre buộc lá ngụy trang nghếch lên trời như trận địa vẫn vững vàng bám trụ, vẫn trong tư thế chiến đấu. Chúng tôi còn tạo ra những chớp lửa và luồng khói như trận địa đang nổ súng. Còn trận địa thật chúng tôi chuyển vào gần lũy tre rìa làng cùng với các trận địa của du kích tạo thành một bức tường lửa tầm thấp trải dài và đan kín hướng máy bay hạ độ cao đánh vào trận địa cũ của chúng tôi. Rạng sáng ngày hai mươi sáu tháng mười hai, trận địa cũ của chúng tôi đã trở thành trận địa nghi binh thu hút nhiều đợt, nhiều tốp máy bay địch đến đánh phá ác liệt. Khi trời đã sáng rõ, đợt đánh cuối cùng của máy bay Mỹ vào trận địa nghi binh vừa chấm dứt, chúng tôi liền được các đài quan sát từ xa thông báo mục tiêu máy bay tầm thấp xuất hiện. Đài quan sát của chúng tôi bắt được mục tiêu thì các nòng súng từ chuỗi trận địa Thường Xuân cùng hướng về một phía, đồng loạt nổ súng. Khối lửa lớn bùng lên ngay trên đầu chúng tôi và lao vào trong làng. Chiếc máy bay trúng đạn đã lao xuống ngôi nhà của một nông dân, giết chết luôn ông chủ nhà. Đến nay tôi vẫn nhớ ông chủ nhà xấu số đó tên là Tình nhưng ở làng người ta vẫn gọi ông theo tên con trai là ông Đằm.

Người chủ trì cuộc họp sốt xắng hỏi:

–  Đến nay chiếc máy bay đó vẫn còn vùi trong đất dưới nhà ông Đằm hay người ta đã moi nó lên bán sắt vụn rồi, bác Việt?

Đại tá Văn Đa đứng lên trả lời thay đại tá Phạm Việt:

–  Hồi đó sư đoàn chúng tôi có cho ô tô về Thường Xuân thu nhặt xác máy bay đưa về phòng truyền thống. Nhưng chúng tôi đến hơi trễ. Dân làng đã bóc gần hết nhôm trên cánh máy bay chế biến thành đồ dùng gia đình trang bị cho cả làng. Xoong, nồi, thùng gánh nước, cả ca uống nước, hộp đựng dao cạo râu của mấy ông già, hộp đựng bút cho lũ trẻ con đi học. Chúng tôi chỉ thu được bộ khung xương của một phần cánh máy bay còn lại trên mặt đất. Thân và một bên cánh máy bay vùi sâu trong đất thì đành chịu, không làm sao moi lên được, nay chắc vẫn còn đó.

Đại tá Huy Toàn:

–  Khi được tham gia viết bộ sử sư đoàn, tôi có trở lại thăm Thường Xuân vài lần để viết lại trận đánh xứng đáng được đi vào lịch sử binh chủng Phòng không Việt Nam. Ngôi nhà ông Đằm đã xây lại, đã xóa hết dấu vết của chiếc máy bay rơi. À, vẫn còn cây mít cụt ngọn do chiếc máy bay rơi đã phạt mất. Tôi có hỏi bà Đằm và người dân ở đó, họ đều nói rằng phần máy bay chìm sâu trong đất cả chục mét, chỉ có cuốc xẻng không thể moi lên được thì vẫn còn nguyên dưới nền sân nhà. Nhưng…

Đại tá Huy Toàn đắn đo rồi bộc lộ nỗi băn khoăn:

–  Phần thân máy bay chắc chắn vẫn còn đó. Điều tôi băn khoăn không phải ở chiếc máy bay mà ở ngôi nhà, ở những người chủ nhà. Nhà đã sập, ông chủ nhà đã chết vì chiếc máy bay rơi. Ngôi nhà sập đã dựng lại bền vững, tường xây, mái ngói và ngôi nhà cũng đã hàn gắn được phần nào vết thương trên mặt đất và vết thương trong lòng những người còn sống, ngôi nhà đã mang lại cho gia đình họ cuộc sống ổn định, yên ấm. Bây giờ đào bới tìm lại chiếc máy bay là phải phá bỏ ngôi nhà, là khoét lại vết thương trong lòng những người sống ở ngôi nhà đó, là lại làm đảo lộn cuộc sống ổn định, yên ấm của họ. Moi xác máy bay lên không phải chỉ là việc khai quật đất mà còn khai quật cả nỗi đau chiến tranh trong lòng người, khai quật cả nền móng ngôi nhà mới xây dựng lại. Không phải chỉ khó đượcgia đình chập nhận mà lương tâm chúng ta cũng không nỡ.

HAI

Chiếc taxi bon bon trên đường phố Hà Nội. Trong xe, hàng trên, cạnh lái xe là cô gái trẻ người Việt. Hàng sau có hai người Mỹ. Người đàn ông ngoài năm mươi tuổi và người đàn bà ngoài bảy mươi tuổi. Chiếc ô tô chạy vào đường Thanh Niên và dừng lại bên hồ Trúc Bạch. Cô gái ra khỏi ô tô nhanh nhẹn mở cửa phía sau đón bà già Mỹ rồi cô dẫn hai người Mỹ đến trước tấm bảng bê tông ghi lại sự kiện viên thiếu tá John McCain lái máy bay Mỹ bị bắn hạ rơi xuống hồ Trúc Bạch. Chăm chăm nhìn tấm bảng bê tông, nghe cô phiên dịch giới thiệu sự kiện, bà mẹ Mỹ đến bên hồ, nhìn ra mặt hồ bảng lảng hơi sương.

Hai người Mỹ cùng cô gái Việt Nam trên đường phố Hà Nội. Người đàn ông Mỹ hăm hở đi trước. Ba lô trên vai. Bản đồ trên tay. Đôi mắt hướng tới. Họ vào bệnh viện Bạch Mai xem phòng trưng bày hình ảnh bệnh viện chỉ còn là những tấm bê tông đổ sập dưới thảm bom của máy bay B52 Mỹ. Họ đặt hoa ở tượng đài của bệnh viện về sự kiện này. Hai người Mỹ chăm chú nghe cô gái Việt Nam dịch những hàng chữ ghi trên tượng đài ra ngôn ngữ của họ. Trong những ngày Hà Nội chìm trong khói lửa bom đạn, giường bệnh chuyển xuống tầng hầm, ngoài chữa bệnh dân sự, bệnh viện còn cứu chữa người dân và người lính bị thương từ những nơi bị máy bay Mỹ đánh phá chuyển về. Đêm hai mươi hai, tháng mười hai, năm 1972 (22.12.1972), máy bay Mỹ đánh bom san bằng bệnh viện. Hai mươi tám thầy thuốc và người bệnh bị chết vùi dưới đống gạch vụn.

Trên đường phố Khâm Thiên. Hai người Mỹ và cô gái Việt Nam bước đến đài tưởng niệm Khâm Thiên Khắc Sâu Căm Thù Giặc Mỹ. Vẫn tiếng cô gái dịch hàng chữ ghi trên đài tưởng niệm cho hai người Mỹ nghe. Đây là nhà số 51 phố Khâm Thiên. Đêm hai mươi sáu, tháng mười hai, năm 1972 (26.12.1972), một quả bom từ máy bay Mỹ phóng trúng ngôi nhà, giết chết toàn bộ bảy người trong gia đình. Nay không gian ngôi nhà thành đài tưởng niệm 278 người dân phố Khâm Thiên bị bom Mỹ giết chết trong đêm ngay sau ngày Chúa giáng sinh.

Hai người Mỹ và cô gái Việt Nam đến bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. Người đàn ông Mỹ chăm chú săm soi từng chi tiết xác chiếc máy bay Mỹ F-111 ở sân bảo tàng. Ông chỉ vào hàng chữ trên thân máy bay và rì rầm nói với bà già Mỹ như giải thích nội hàm hàng chữ. Họ đứng trước tấm bản đồ lớn khu vực Hà Nội treo trên tường đánh dấu những nơi máy bay Mỹ bị tiêu diệt trong sự kiện mười hai ngày đêm cuối tháng mười hai năm 1972.

Ngước lên tấm bản đồ lớn trên tường, người đàn ông Mỹ chăm chú nhìn vào điểm vẽ hình chiếc máy bay bốc cháy cùng hàng chữ đỏ Thường Xuân 26.12.72. Ông mở tấm bản đồ nhỏ vẫn cầm trong tay ra và tìm một điểm trên thảm xanh của cánh đồng phía Bắc Hà Nội, ghi vào đó hàng chữ viết hoa đậm nét THƯỜNG XUÂN 26.12.72.

BA

Xã Thường Xuân. Sương sớm còn bảng lảng trên cánh đồng, trong khóm tre. Lác đác những tốp người ra đồng. Người đi bộ. Người đi xe đạp, đi xe máy. Trên xe buộc dụng cụ làm đồng, cuốc, bình phun thuốc trừ sâu, bao phân bón… Sau khóm tre sum suê đầu làng là ngôi nhà tầng xinh xắn mới xây của mẹ con bà Đằm. Tường nhà màu hồng sáng sủa còn thẫm từng mảng ẩm ướt vì lớp vôi màu mới quét chưa khô. Trên mảnh sân rộng lát gạch vuông Bát Tràng đỏ tươi, ngổn ngang những đống cát, gạch, xi măng, những dụng cụ của thợ hồ, thước gỗ, dao xây. Trên mảnh vườn trước sân là ba cây cau và dàn trầu xanh tốt. Bên bức tường hoa đang xây dở bao quanh vườn, Mạnh, con rể bà Đằm cởi trần, tuy mái tóc dày đã ngả màu sương chiều nhưng cơ bắp trên người còn cuồn cuộn sức vóc đang đánh mẻ hồ mới. Bà Đằm xách túi từ trong nhà đi ra, hỏi Mạnh:

–  Liệu sáng nay có xong không, con?

–  Con cố làm cho xong sớm rồi còn ra đồng bẻ ngô với nhà con.

Bà Đằm nhắc:

–  Làm xong, con dọn hết vôi vữa đất cát rồi quét rửa sân cho sạch để tối mẹ bầy lễ. Gian nhà thờ còn thiếu cái đèn thắp sáng. Con đi mua đèn lắp cho mẹ.

Bà Đằm đi khuất, Thắm, vợ Mạnh quảy đôi thúng từ trong nhà đi ra:

– Làm xong ở đây anh ra đồng ngay bẻ ngô với em nhá. Phải có anh mới bẻ xong mảnh ngô nhà mình trong sáng nay.

– Mẹ vừa bảo anh làm xong phải xách nước rửa sân để tối mẹ bày lễ cúng. Không biết mẹ cúng thổ thần trình báo nhà mới hay cúng rằm tháng bảy. Dù xong hay không, gần trưa anh sẽ mang xe ra chở ngô cho em. Em cất quang gánh đi, mang mấy bao tải ra, cứ tống ngô vào đó, anh sẽ mang xe ra chở.

Thắm bảo chồng:

–  Em có mang bao tải đây rồi nhưng vẫn mang quang gánh để lỡ anh không ra được thì em phải gánh về. Em cất gánh đi. Anh phải ra nhé. Anh mang xe cải tiến ra, chở cả ngô cho chị Lành luôn. Hôm nay chị Lành cũng bẻ ngô cạnh ruộng nhà mình đấy.

Nắng sớm trải từng vệt lấp lánh trên đường làng. Thắm dừng lại trước ngõ nhỏ dẫn vào ngôi nhà mái tranh, tường đất thấp nhỏ, cũ kỹ hiếm hoi còn sót lại trong làng. Thắm gọi:

–  Chị Lành ơi, đi bẻ ngô.

Tiếng phụ nữ trả lời:

–  Thắm ơi, đợi chị một tí. Chị ra ngay đây.

Người đàn bà khô gầy, cũng quang gánh trên vai, từ trong ngõ đi ra. Dù Thắm gọi là chị nhưng với gương mặt khắc khổ, rầu rĩ và tiều tuỵ, với dáng đi lầm lũi của một bà già, người làng vẫn gọi người đàn bà quá lứa chưa chồng tên Lành là bà, bà Lành. Nét thiếu nữ duy nhất còn lại ở Lành là mái tóc dài óng ả thả sau lưng. Dáng thiếu nữ của Lảnh chỉ được nhận ra khi nhìn từ phía sau thấy dáng người cao dỏng, thon thả và mái tóc dài. Thắm bảo:

–  Chị cất quang gánh đi. Mang theo mấy cái bao tải thôi, tống ngô vào bao tải. Hái xong ngô, nhà em mang xe cải tiến ra, chở luôn cho chị, vừa nhẹ nhàng vừa nhanh chóng. Chị khỏi phải gánh.

–  Bãi ngô nhà chị bé tí, có nhiều nhặn gì đâu, chị gánh được mà.

–  Có người phục vụ chị em mình, tội gì phải gánh cho khổ. Chị vào lấy bao tải đi.

Bà Lành quày quả trở vào, một thoáng lại ra ngay:

–  Đi em. Chị mang ba bao tải đây rồi.

Hai người đàn bà bước vội vã trên đường làng. Những vệt nắng sớm loang loáng lướt qua người họ. Một người tươi tốt, mỡ màng, vẻ mặt rạng rỡ, trẻ trung. Một người héo hon, âm thầm, già nua, tiều tụy. Nhìn dáng vẻ, họ như cách nhau cả thế hệ. Nhưng họ đều ở tuổi ngoài năm mươi, chỉ hơn kém nhau hai, ba tuổi.

Hai người đàn bà vừa đi khỏi ngõ thì từ trong ngõ có ngôi nhà tranh lụp xụp, một ông già cao lêu đêu như sếu vườn và gầy guộc như cành tre khô vác cuốc đi ra. Đó là lão Hưỡu. Lão Hưỡu cũng đi theo con đường làng hai người đàn bà vừa đi.

BỐN

Lão Hưỡu vác cuốc đi trên con đường rộng băng qua cánh đồng. Từ phía trước, hai chiếc ô tô con bon bon tiến lại. Đang hối hả bước, chợt thấy hai chiếc ô tô, một xe quân sự, một xe dân sự đều là loại xe cao cấp của những ông lớn chẳng bao giờ xuất hiện trên con đường đồng rặt đất cát, phân gio. Lão Hưỡu đứng sững lại, chăm chú theo dõi. Chiếc ô tô com măng ca mui tròn màu rêu quân sự đi trước. Chiếc ô tô du lịch màu đen bóng loáng theo sau. Xe com măng ca mui tròn của sĩ quan quân đội từ cấp chỉ huy sư đoán, cấp đại tá trở lên. Chỉ từ cấp bộ trưởng trở lên, cấp nhà nước mới được đi xe Vôn ga đen. Có chuyện gì mà quan chức nhà nước kéo nhau về làng vậy? Hai chiếc ô tô lướt ngang qua mặt lão Hưỡu chạy về làng Thường Xuân. Lão Hưỡu vội quay lại, lật đật rảo bước, mắt không rời hai chiếc ô tô. Khoảng cách giữa lão Hưỡu với hai chiếc ô tô càng lúc càng xa, lão phải guồng đôi chân sếu hối hả chạy. Chỉ chạy được một đoạn, mồ hôi túa ra, hơi thở hụt dần, lão phải bước chậm lại, hổn hển thở rồi lại gấp gáp bám theo đám bụi của hai chiếc ô tô.

Khi lão Hưỡu đến gần hai chiếc ô tô đỗ, trước cửa trụ sở ủy ban xã, thì những người khách đến bằng hai chiếc ô tô lại từ trong trụ sở ủy ban đi ra, chui vào ô tô. Có thể nhận ra đó chính là những người tham dự cuộc họp ở cơ quan MIA: Ba người lính già mặc đồ dân sự. Hai người đàn ông da trắng. Ông giám đốc cơ quan MIA Việt Nam. Cô phiên dịch xinh đẹp hôm trước thướt tha áo dài màu hoàng yến nay váy hoa, ao thun trẻ trung tươi tắn. Lão Hưỡu đến được bên hai chiếc ô tô thì hai chiếc ô tô đã sập cửa, tiếp tục lăn bánh. Lão Hưỡu thất vọng bước đến hỏi anh cán bộ mặc quần áo bộ đội đứng trước ủy ban:

–  Họ ở đâu về ta có việc gì mà vội vã vậy anh xã đội?

Anh xã đội trưởng nhìn lão Hưỡu mỉn cười:

–  Lão Hưỡu lão Hươu đấy à? Việc nhỏ việc to trong làng, chỗ nào cũng có mặt lão. Chuyện gần chuyện xa, chuyện gì lão cũng biết trước mọi người. Chuyện gì cũng phải qua mồm lão mọi người mới biết. Sao hôm nay lão lại hỏi tôi?

–  Tôi chỉ rành chuyện tầm phào ở đầu đường xó chợ của lũ dân quê chúng tôi thôi. Làm sao tôi biết được việc nước hệ trọng trong phòng giấy của các ông cán bộ nhà nước. Mấy ông ngồi trong ô tô tôi trông không phải mấy ông quan ở huyện, ở tỉnh nhà. Chắc hẳn họ ở trên trung ương. Trung ương thì tất nhiên phải làm việc quốc gia đại sự. Lại còn có cả mấy ông Tây nữa thì là việc hòa bình thế giới chứ chẳng bỡn.

Xã hội trưởng bảo:

–  Việc quốc gia đại sự thì bàn ở Ba Đình. Việc hòa bình thế giới thì bàn ở Liên Hiệp Quốc tận bên Mỹ. Ai thèm mang mấy việc đó ra nói với mấy anh nhà quê chúng tôi.

Lão Hưỡu bỗng như reo:

–  Hay là người Mỹ họ ngồi trong vệ tinh A Pô Lô bay trên giời phát hiện ra trong lòng đất làng ta có mỏ vàng lớn, họ đến xin khai thác? Có phải hai ông Tây đó là người Mỹ không, thầy quyền?

Anh cán bộ xã đội thú nhận:

–  Đúng là lão Hưỡu ma xó! Không việc gì qua được mắt lão. Cả hai điều lão nói đều trúng phóc. Hai ông Tây đúng là người Mỹ và đúng là họ đến xin khai quật đất làng mình lên tìm vàng đấy. Mỏ vàng ấy lại ở ngay sân nhà bà Đằm, thông gia hụt của lão đấy. Lão về nhà bà thông gia hụt của lão mà xem họ đào vàng.

Lão Hưỡu reo lên:

–  Đúng rồi! Xác máy bay Mỹ còn vùi sâu trong đất dưới sân, dưới nền nhà bà Đằm đúng là khối vàng ròng với người Mỹ. Đi tìm người chưa về sau chiến tranh, người Mỹ tìm đến đây là đúng rồi. Từ khi thấy máy bay bốc cháy mà không thấy người lái bung dù thoát ra, cả làng Thường Xuân đã biết chắc người cùng máy bay đã vùi trong đất Thường Xuân rồi. Vậy mà giờ họ mới tìm đến Thường Xuân là quá trễ, quá kém. Thầy đội nói đúng. Vàng đó. Khối vàng ròng ngay dưới nền nhà bà Đằm mà mấy mẹ con nhà quê đâu có biết. Mà vàng thì không thể cho không được. Tôi phải đến giữ hộ khối vàng ròng cho bà Đằm, kẻo bà ấy lại cho không người ta, để người ta đào nát nhà rồi mang vàng đi mất. Chào thầy đội.

Lão Hưỡu bước hấp tấp trên con đường làng vắng hoe còn hằn vết bánh ô tô vừa in rồi rẽ vào con đường tắt trong làng đón đầu hai chiếc ô tô. Hai chiếc ô tô vừa đến cổng nhà bà Đằm thì lão Hưỡu cũng kịp đến nơi. Trong sân, bên bức tường xây gần kín, Mạnh dừng tay xây bỡ ngỡ nhìn đám khách lố nhố kéo đến. Định xây ào cho kín bức tường rồi vào tiếp khách thì lão Hưỡu vào sân, cất tiếng sang sảng:

–  Mời khách vào nhà chứ sao lại để khách đứng lố nhố ngoài sân thế này, anh Mạnh!

Mạnh mình trần, chân đất, tay chân lấm láp vữa xây đang bối rối, liền bảo lão Hưỡu:

–  Ông mời khách vào nhà và tiếp khách giúp cháu. Cháu đi rửa tay.

Chợt nhìn thấy đại tá Trần Việt, đại tá Huy Toàn, lão Hưỡu hơi sững lại. Ai nhỉ? Trông quen quá mà lão chưa nhận ra là ai. Hết nhìn Trần Việt lại nhìn Huy Toàn, lão Hưỡu đến trước hai người lính già, nói như reo:

–  Chào hai anh bộ đội lại trở về với chúng tôi. Tôi chỉ nhớ hai anh đã đóng quân ở đây nhưng lâu quá rồi, tôi chưa nhớ ra tên hai anh. Mấy chục năm rồi còn gì nữa.

Đại tá Trần Việt nắm chặt tay lão Hưỡu, lắc:

–  Lão Hưỡu! Chúng tôi đều già đi nhiều nên lão không nhận ra. Còn lão như đã già hết cỡ từ ngày chúng tôi còn ở đây nên chúng tôi đều gọi Lão Hưỡu từ ngày đó. Mấy chục năm rồi mà lão chẳng gìa thêm tí nào, trông lão còn khỏe ra nữa. Tôi là Việt, chính trị viên. Còn đây là anh Toàn, đại đội phó của đại đội súng bốn nòng đặt trận địa ở cánh đồng làng ta, lão nhận ra chưa? Còn anh Văn Đa ở trên trung đoàn thì lão không biết đâu.

Lão Hưỡu mừng rỡ kêu:

–  Trời ơi, anh Việt Lập Trường Giai Cấp và anh Toàn Lửa đây à? Mấy chục năm rồi các anh mới lại về với chúng tôi.

Cả ba người lính già đều cười vui lần lượt bắt tay lão Hưỡu. Đại tá Huy Toàn nói:

–  Đúng là lão Hưỡu vẫn như ngày xưa, chuyện gì cũng biết, điều gì cũng nhớ. Ngày ấy, nói chuyện với lính, câu cửa miệng của anh Việt là lập trường giai cấp. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ những câu như các đồng chí phải giữ vững lập trường giai cấp. Lập trường của giai cấp vô sản là phải chiến thắng đế quốc, phải tiêu diệt tư bản và lập trường giai cấp của chúng ta là phải đánh thắng đế quốc Mỹ, phải ngẩng cao đầu vít cổ giặc Mỹ xuống bùn đen. Lập trường giai cấp đi liền với tên anh Việt. Còn tôi nóng tính nên lính gọi là thủ trưởng Toàn Lửa. Chỉ nghe lính gọi thủ trưởng Việt Lập Trường Giai Cấp, thủ trưởng Toàn Lửa mà dân Thường Xuân biết tên cúng cơm, biết cả tên lính tráng của chúng tôi. Mấy chục năm xa đám lính trẻ, chúng tôi đều quên cái tên đó từ lâu mà lão Hưỡu vẫn nhớ. Chịu lão!

Lão Hưỡu bảo:

–  Các anh dẫn mấy người khách Mỹ về đây thì đúng là đến vì chiếc máy bay Mỹ bị các anh bắn rơi rồi. Vậy thì các anh phải dẫn khách đến gặp bà Đằm. Các anh mời các vị khách Mỹ vào nhà đi. Bà chủ nhà chúng tôi đi chợ chưa về.

Đại tá Văn Đa nói to:

–  Bà chủ nhà đi vắng. Chúng ta vào nhà đợi một chút.

Lão Hưỡu vào nhà lấy trà, ấm, chén, phích nước, pha trà, rót nước mời khách. Mạnh cầm cái áo vắt trên dây phơi đi vào phòng tắm đầy đủ tiện nghi hiện đại của ngôi nhà mới xây.

Đoàn khách vào trong ngôi nhà mới, rộng rãi với nhiều tiện nghi hiện đại nhưng vẫn bài trí như mọi căn nhà nông thôn Việt Nam truyền thống. Trung tâm của căn nhà, nơi được bày biện rậm rạp nhất, nơi thể hiện rõ được chăm sóc chu đáo nhất vẫn là chiếc bàn thờ ở giữa gian nhà. Phía trước bàn thờ là bộ xa lông gỗ tiếp khách với bốn chiếc ghế thấp tịt. Khách người ngồi, người đứng đều hướng mặt nhìn hai khung kính lồng ảnh truyền thần hai người dàn ông trên bàn thờ. Bức ảnh người đàn ông trung niên khăn xếp, áo the đen và bức ảnh người con trai quân phục xanh trên ve áo lính là quân hàm đỏ một sao binh nhì. Trong nhà như vẫn còn thoang thoảng mùi hương, mùi hoa ngan ngát, trong không gian tâm linh làm cho mọi người đều giữ sự im lặng tôn kính. Để lấy lại không khí vui vẻ, bình thường, đại tá Huy Toàn lên tiếng:

–  Sau năm bảy mươi hai, đại đội tôi rút khỏi đây ngay nhưng sau đó tôi đã về lại đây ba lần. Một lần về dự đám cưới của cậu chiến sĩ đại đội tôi lấy cô du kích xã ngay sau hiệp định Paris ngừng bắn, làng xóm còn ngổn ngang hầm hào và hố bom. Lần thứ hai tôi về thăm lại trận địa cũ để viết lại trận chiến đấu đêm hai mươi sáu tháng mười hai bắn rơi tại chỗ máy bay Mỹ cho bộ sử sư đoàn. Ngày ấy làng xóm vẫn còn xơ xác lắm. Nhà bà Đằm bị máy bay Mỹ làm sập đã xây lại nhưng cũng chỉ là nhà tạm, tuềnh toàng lắm. Lần này về tôi thấy một Thường Xuân hoàn toàn khác. Nhà nào cũng lên hai, ba tầng. Làng xóm như thành phố. Chẳng cần đi đâu xa, cứ nhìn ngôi nhà của bà Đằm đây đã thấy thay đổi nhanh chóng. Ngôi nhà tầng tường dày bền vững, cửa kính sáng loáng đã thay cho ngôi nhà tạm cấp bốn, tường xây mỏng manh, cửa cót ép vênh váo, mái ngói đặt trên giát tre quê mùa.

Lão Hưỡu phẩy tay:

–  Nhà này cũng to đẹp đấy nhưng so với nhà tôi, ngôi nhà ba tầng này chỉ là loại cú đỉn, đã ăn thua gì. Tí nữa mời các anh sang nhà tôi chơi để thấy ngôi nhà bền vững nhất làng, độc đáo nhất làng của tôi.

Mấy người lính già cùng cười ngất khi nghe lão Hưỡu vẫn còn dùng từ cú đỉn mà mấy chục năm trước đám lính của họ vẫn dùng để chỉ những thứ vớ vẩn, chẳng ra gì. Người lính già Huy Toàn gọi to:

–  Anh Việt ơi, mấy chục năm xa đám lính, tôi với anh đều đã quên tiếng cú đỉn của lính. Về đây mới lại được nghe ngôn ngữ của lính từ mồm lão Hưỡu. Hóa ra lão Hưỡu còn nhiều chất lính hơn cả tôi với anh.

Người lính già Trần Việt kêu lên:

–   Trời ơi, từ lâu chúng tôi đã quên cái từ cú đỉn của lính tráng chúng tôi. Bây giờ được nghe lão Hưỡu nhắc đến từ đầy chất lính tráng đó làm tôi nhớ lại từng tiếng nói, từng gương mặt, từng nết người trong đám  lính trẻ của chúng tôi. Nhớ cậu lính tiếp phẩm hàng ngày đạp xe khắp các chợ quê lùng mua thực phẩm cho bếp đại đội là người hay nói tiếng cú đỉn nhất.

Nhìn thân hình cao lêu đêu, khô gầy, cũ kĩ, tiều tụy của lão Hưỡu, đại tá Huy Toàn kinh ngạc hỏi:

–  Chúng tôi chỉ mơ ước có được ngôi nhà cú đỉn này thôi đấy lão Hưỡu ơi. Ngôi nhà này mà lão bảo là cú đỉn thì nhà lão chắc phải hoành tráng lắm. Lão Hưỡu giỏi vậy a? Chút nữa thế nào chúng tôi cũng phải sang thăm nhà lão, ngắm ngôi nhà bền vững nhất làng, độc đáo nhất làng của lão. Thế lão ở ngôi nhà độc đáo nhất làng đó với ai? Độc đáo nhất làng thì chắc phải đẹp lắm. Lão xây nhà đẹp để cưới vợ trẻ à?

Nói điều nẫu ruột mà lão Hưỡu vẫn tưng tửng:

–  Tôi mồ côi vợ từ lâu, quen rồi, chẳng cần lấy vợ nữa nhưng con gái tôi cần lấy chồng mà chẳng có ai rước đi cho. Bây giờ nhà chỉ có hai bố con. Ông bố già mồ côi vợ và cô con gái trông còn già nua, tiều tụy hơn cả bố vì suốt cả một đời con gái phải chịu mồ côi chồng.

Đại tá Trần Việt chợt khẽ reo:

–  A, tôi nhớ ra rồi. Lão Hưỡu có cô con gái tên là Lành! Cô Lành lấy ai mà mồ côi chồng, lão Hưỡu?

Giọng lão Hưỡu vẫn bình thản:

–  Không lấy ai mà vẫn là mồ côi chồng còn khổ hơn người có chồng mà chồng chết. Cú đỉn thế đấy, các anh ạ.

Chính trị viên đại đội ngày nào, đại tá Trần Việt nhớ lại:

–  Cô Lành lên trận địa làm pháo thủ tiếp đạn cho chúng tôi. Cô Lành cùng các mẹ, các chị nấu nướng cơm nước đưa lên trận địa. Đại đội tôi về đây, anh nuôi không phải nấu cơm nữa. Hội Mẹ chiến sĩ của Thường Xuân lo cho toàn bộ việc nấu nướng. Vẫn tiêu chuấn ấy nhưng các mẹ, các chị và cả các em, các cháu lo cho cơm nước, suất ăn tươm tất hơn hẳn khi lính nấu vì thiếu thứ gì, các mẹ lấy của nhà thêm vào bữa ăn cho lính. Nhổ rau vườn nhà. Đổ cả lọ mì chính của nhà vào nồi canh của lính. Tổ nuôi quân trở về làm pháo thủ, bổ sung cho các khẩu đội mà các khẩu đội vẫn thiếu người vì thương vong nhiều quá, lính mới bổ sung không kịp, phải huy động các cô du kích vào làm pháo thủ tiếp đạn. Lính cả đại đội tôi đều biết cô Lành có người yêu là bộ đội đang chiến đấu ở mặt trận phía Nam.

Lão Hưỡu chỉ bức ảnh người lính trên bàn thờ:

–  Đó, người yêu của con gái tôi đó, chồng chưa cưới của con gái tôi đó! Chưa một ngày làm vợ con trai bà Đằm, chưa một ngày làm dâu nhà bà Đằm mà con gái tôi cả đời góa bụa.

Trần Việt kêu lên:

–  Trời ơi, đẹp người tốt nết như cô Lành thiếu gì người săn, người đón mà sao cô ấy cứ phải ôm mối tình dang dở, tự làm khổ mình vậy!

Lão Hưỡu phân trần:

–  Phải chịu cảnh cả đời góa bụa chẳng phải vì chính chuyên chung thủy thờ chồng mà chỉ vì cả làng chẳng còn một mống đàn ông. Ở lứa chúng nó, con trai lớn lên là vào lính, ra trận. Hơn bốn chục trai làng Thường Xuân vào lính chỉ có chưa được chục đứa thương tật trở về. Dù thương tật, những anh lính may mắn sống sót trở về nếu không có người hẹn hò, chờ đợi từ lúc ra đi thì cũng là ước mơ của mấy đứa con gái mới lớn, hơ hớ tuổi xuân, đâu đến lượt lũ đàn bà quá lứa, lỡ thì như con Lành nhà tôi. Ở Thường Xuân này đâu phải chỉ có con Lành nhà tôi chưa chồng mà góa bụa. Cũng may nhờ có đám lính của anh Toàn, anh Việt đã giúp được cho mấy đứa con gái làng tôi về già không đến nỗi cô đơn như con Lành nhà tôi.

Đại tá Huy Toàn ngơ ngác:

–  Chỉ có một cô lấy cậu khẩu đội trưởng của chúng tôi thôi. Chỉ có một đám cưới đó thôi và tôi đã dự đám cưới đó. Lúc đó đơn vị tôi đã chuyển vào Nghệ An, tôi vẫn thay mặt đơn vị về đám cưới. Làm gì đến mấy cô lấy lính của chúng tôi. Cô làm đám cưới với lính của chúng tôi cũng về quê chồng ở đất mỏ Quảng Ninh, có ở lại Thường Xuân đâu.

Lão Hưỡu cười vui:

–  Các anh chỉ được dự một đám cưới lính của anh ở làng tôi nên các anh chỉ biết có một đứa con gái làng tôi lấy lính của các anh. Các anh là cán bộ nên chỉ biết những việc được báo cáo thôi. Chỉ có những anh lính ăn cơm đúng bữa, đúng kẻng mới báo cáo các anh. Còn đám lính ăn vụng làm sao dám báo cáo! Những chuyện đi ngang về tắt của đám lính trẻ, họ biết tự lo liệu, đâu cần báo cáo các anh cho thêm rách việc. Thời chiến cấp bách, đâu có thể chờ đợi. Có nhu cầu là phải được tạm ứng liền. Lính trẻ của các anh và gái làng tôi đã tạm ứng cho nhau thì họ cũng tự biết thu xếp với nhau. Trai làng tôi đi lính ra trận hết. Gái làng tôi gặp được đám lính anh hùng thời đại của các anh, lính trẻ mà từng trải, dày dạn trận mạc thì như ruộng hạn gặp mưa rào. Còn đám lính trẻ anh hùng thời đại của các anh gặp con gái làng tôi thì như trâu đói gặp cỏ non. Cỏ non làm sao thoát được hàm răng trâu đói!

Chính trị viên Trần Việt cười:

–  Thôi, được rồi, lão không phải kể tội lính của chúng tôi nữa. Chúng tôi xin nhận tội cho lính của chúng tôi. Vậy lão có thể cho chúng tôi biết có mấy con trâu tơ của chúng tôi ăn cỏ non ở đồng Thường Xuân rồi để lại giống má ở Thường Xuân nào? Lão cho chúng tôi biết để chúng tôi đi thăm những hạt giống của lính pháo cao xạ để lại. Có khi chúng tôi còn phải giúp họ làm thủ tục để họ được hưởng chế độ chính sách của vợ con bộ đội nữa đấy. Chắc là nhiều đấy. Có đến cả chục đứa con của lính pháo cao xạ để lại ở Thường Xuân không?

Lão Hưỡu lắc đầu:

–  Nếu có được cả chục đứa con gái Thường Xuân có con với đám lính của các anh thì tốt quá. Làm gì có nhiều thế. Mà tôi có kể tội lính của các anh đâu. Tôi kể công họ đấy chứ. Tôi vẫn nói nhờ có đám lính của các anh mà mấy người đàn bà Thường Xuân đang về già hôm nay không phải sống trong cô đơn như con gái tôi. Công của họ với nước là bắn rơi máy bay giặc mang bom đạn vãi xuống cuộc sống bình yên thì được các anh viết thành sử sách. Công của họ với làng tôi nào có kém gì công họ lập với nước, thế mà các anh chẳng thèm biết đến.

Nghe chuyện của lão Hưỡu, đại tá Văn Đa cũng sốt ruột liền lên tiếng:

–   Trời ơi, lão Hưỡu cứ dông dài mãi. Điều chúng tôi quan tâm thì lão chẳng nói.

Lão Hưỡu vẫn cà kê của người hay chuyện và biết nói chuyện:

–  Chiếc bánh chưng luộc chín rồi đấy nhưng còn phải cởi lạt, bóc lá mới ăn được chứ. Tôi đang cởi lạt, bóc lá hầu các anh mà. Xong rồi. Chỉ có ba đứa con gái Thường Xuân có con với đám lính của các anh thôi. Cả ba đều sinh con trai. Ba người lính của các anh để lại cho làng Thường Xuân chúng tôi ba đứa con trai rồi đi biệt luôn. Ba người đàn bà Thường Xuân có con với lính các anh đã thành bà nội rồi, con cháu đề huề, gia đình đầm ấm và đều lên nhà tầng rồi. Các anh nhắn ba anh bộ đội tốt phúc đó nếu còn sống thì về nhận vợ, nhận con và nhận cả nhà nữa.

Nhà viết sử sư đoàn Huy Toàn thốt kêu lên:

–  Cánh đồng trận địa thì rộng, đêm trực chiến thì dài, lại toàn những xạ thủ dày dạn trận mạc của đại đội pháo cao xạ anh hùng mà sao hiệu suất chiến đấu thấp vậy?

Đại tá Văn Đa cười:

–  Sao? Anh muốn lính của các anh phải để lại cho Thường Xuân ba mươi đứa con hay ba trăm đứa con mới là đạt hiệu suất chiến đấu cao à? Đại đội của các anh đã chiến đấu ròng rã suốt mấy năm trời, vãi ra cả núi đạn mà các anh hạ được mấy chiếc máy bay nào? Điều quan trọng không phải là con số nhiều hay ít mà là ở sự việc. Sự việc khẩu súng bốn nòng đơn giản, tầm thường, cổ lỗ cũng hạ được máy bay hiện đại của Mỹ. Sự việc sự sống vẫn sinh sôi trong bom đạn, chết chóc. Sự việc quan trọng bây giờ là tìm cha cho những đứa con của lính các anh. Việc này quá dễ. Có phải không, lão Hưỡu?

Lão Hưỡu:

–  Con gái làng tôi cặp với anh bộ đội nào, dân làng tôi biết cả. Đến bây giờ chúng tôi vẫn còn nhớ tên từng anh.

Lão Hưỡu nhìn thấy Mạnh đã tươm tất trong bộ quần áo bộ đội cũ, tóc còn ướt, bước vào nhà, liền giới thiệu:

–  Đây là anh Mạnh, là lính cùng đơn vị với con trai bà Đằm. Anh Đằm không trở về thì anh Mạnh thay đồng đội về làm con bà Đằm, làm người đàn ông trụ cột của ngôi nhà này. Anh Mạnh về ở đây đã hai lần dựng nhà cho mẹ vợ. Ngôi nhà tầng kiên cố này vừa mới xây xong tưởng sẽ là ngôi nhà bền vững của cả cuộc đời mấy mẹ con, bà cháu. Đó, bức tường bao anh ấy tự xây. Đang làm gắng hết hôm nay xây cho xong bức tường mà phải bỏ dở đấy.

Sau khi đi chào khách, Mạnh quay lại nghe lão Hưỡu nhắc đến bức tường đang xây dở, liền hồ hởi nói:

–  Ngày mai cháu chỉ làm nửa buổi là xây kín bức tường. Lẽ ra hôm nay xây hết đống hồ là xong việc. Phải dừng việc, chỉ tiếc đống hồ chưa kịp xây phải đổ đi.  Mai lại phải đánh mẻ hồ mới.

Lão Hưỡu buồn bã nói:

–  Có khi lại phải đập phá hết, dập cả nhà tầng, đập cả tường bao. Tiếc gì một mẻ hồ!

Mạnh hốt hoảng:

–   Sao lại đập ngôi nhà mấy mẹ con nhà cháu chắt chiu cả đời mới dựng lên được? Mấy người Mỹ này đến đây đòi phá nhà cháu à? Họ đã một lần phá nhà, giết người chưa đủ sao? Cả cuộc đời mẹ con cháu, vợ chồng cháu đầu tắt mặt tối, bóp mồm bóp miệng ăn dè hà tiện mới dựng được ngôi nhà. Ngôi nhà của cuộc đời chúng cháu, của cả cuộc đời con cái chúng cháu nữa. Mẹ con cháu  không cho họ đụng đến mảnh đất này một lần nữa đâu.

Lão Hưỡu nói như an ủi, như chia sẻ với Mạnh:

–  Tình thế này, đến phải phá thôi, anh Mạnh ạ! Tôi biết tính bà Đằm thông gia hụt của tôi.  Có thể anh Mạnh chưa hiểu nhưng tôi hiểu bà mẹ vợ của anh, anh Mạnh ạ. Nếu chỉ tìm chiếc máy bay rơi thì bà sẽ không cho đụng đến mảnh vườn của bà. Nhưng lôi chiếc máy bay lên để tìm người thì bà sẽ cho đào bới tung cả nhà, cả vườn lên. Bà đã đi tìm con. Bà đã đau nỗi mất con, lại càng đau nỗi không tìm thấy con. Dù người đến phá nhà bà, đào bới vườn nhà bà chính là những người đã giết chồng bà, con bà.

Lão Hưỡu nhìn mấy người lính già, nói:

–  Chỉ riêng nhà bà Đằm, họ đã giết hai người. Giết anh Đằm cầm súng bắn nhau với họ ngoài mặt trận là chuyện may rủi chốn sa trường. Nhưng ông Đằm ở trong nhà mình mà chết vì máy bay rơi xuống nhà thì oan nghiệt quá! Hai cha con chết! Hai lần nhà bị phá. Họ có đền ngôi nhà bằng vàng cũng chưa đủ đâu, các ông ạ!

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.