Rằm tháng bảy (2)

Truyện Phạm Đình Trọng

NĂM

Lão Hưỡu lẳng lặng ra cổng, lách qua hai chiếc ô tô, hấp tấp bước đi. Đôi mắt lão nheo nheo, ánh lên vẻ cười cợt, khóe miệng cố giấu đi nụ cười thầm, gương mặt hồn nhiên, vô tư và hóm hỉnh. Lão đưa mắt nhìn quanh. Đường làng vắng hoe. Xa tít cánh đồng giáp đường số Hai, thấp thoáng bóng người lúi húi trên cánh đồng màu. Lão phăm phăm tiến lại phía đó.

Những người làm đồng mải miết với công việc, chẳng ai để ý đến lão Hưỡu. Lành và Thắm thoăn thoát bẻ ngô. Đi ngang qua khoảnh ruộng đông người nhất, lão Hưỡu dừng lại, hỏi:

–  Làng ta vừa có một sự kiện kinh thiên động địa từ khi lập làng, lập tổng chưa từng có. Dân làng Thường Xuân biết gì chưa?

Vẫn không ai rời mắt khỏi công việc nhưng cũng có tiếng hỏi:

–  Sự kiện gì mà ghê gớm vậy, lão Hưỡu?

Giọng lão Hưỡu lanh lảnh phấn khích:

–  Người ta chở cả một núi vàng đến đổ vào nhà bà Đằm mà ông con rể nhà bà Đằm không nhận. Thế có tiếc không chứ?

Ông Mùa dừng tay tưới rau cải, ngẩng lên hỏi:

–  Vàng ở đâu mà sẵn thế? Sao lão không ở đó nhặt vài thỏi, lại tay không ra đây?

Lão Hưỡu hùng hồn:

–  Vàng ở nước giầu nhất thế giới chứ ở đâu. Ông có biết nước nào giàu nhất thế giới không? Nước Mỹ chứ nước nào. Người nước Mỹ mang vàng đến xin khai quật đất vườn nhà bà Đằm lên để lấy xác chiếc máy bay của họ rơi ngày nào. Ngôi nhà ba tầng vợ chồng anh Mạnh vừa xây phải phá bỏ sẽ được họ đền cho ngôi nhà khác to bằng đúng ngôi nhà phải phá nhưng ngôi nhà người Mỹ đền bù cho bà Đằm là ngôi nhà bằng vàng. Họ đền cho một ngôi nhà bằng vàng, ông nghe rõ chưa? Ông Đằm chết vào giờ thiêng nên phù hộ cho vợ con đấy. Thế mà ông con rể lại cứ khăng khăng giữ vững lập trường giai cấp, không thèm nhận vàng của kẻ thù giai cấp. Các người thấy cái ông bộ đội rể làng mình có dở hơi, cú đỉn không chứ. Vàng nào chả là vàng. Vàng Mỹ hay vàng Việt Nam có khác nhau gì đâu. Có phúc, có đức mới có lộc, chứ có phải ai cũng được đâu.

Lão Hưỡu đi lại chỗ Thắm, gọi to:

–   Này, cô Thắm ơi. Cô về khuyên ông chồng của cô bỏ cái lập trường giai cấp cú đỉn đi. Chiến tranh qua rồi. Không còn trận tuyến, không còn kẻ thù nữa. Chỉ còn con người với con người. Chỉ còn lương tâm con người với nhau. Chỉ còn lương tâm của người sống với người đã khuất. Người Mỹ đi tìm người của họ chưa về thì cũng như mẹ cô đi tìm anh cô thôi. Đành phải phá ngôi nhà xây trên chỗ chiếc máy bay rơi cho họ tìm người của họ. Cho họ phá đi ngôi nhà vừa xây, đó là tấm lòng vàng thì họ sẽ đền bù ngôi nhà bằng vàng, cô ạ.

Giữa những luống ngô, Thắm ngoái nhìn lão Hưỡu, gọi:

–   Ông Hưỡu ơi, xuống đây bẻ ngô đi. Để chị Lành bẻ một mình bao giờ mới xong.

Tiếp tục công việc, Thắm lại ríu rít nói chuyện với Lành ở mảnh ngô bên cạnh:

–   Hôm nay mười ba ta rồi. Rằm tháng bảy chị nhớ sang nhà em nhé. Mẹ em cúng vong gọi hồn anh Đằm em về. Anh Đằm em thiêng lắm. Mấy hôm nay, đêm nào trong giấc ngủ mẹ em cũng thấy anh Đằm về. Chị Lành biết không? Từ lâu rồi, tối nào có chị sang chơi là đêm đó thế nào mẹ em cũng mơ thấy anh Đằm em về đấy.

Gương mặt Thắm tươi tắn, rạng rỡ, ngời ngời hạnh phúc bao nhiêu thì gương mặt Lành lại khắc khổ, khô héo, âm thầm bấy nhiêu. Lại lao xao tiếng đàn bà:

–   Có cả ngôi nhà vàng rồi, việc gì phải bẻ ngô nữa, bác Thắm ơi!

–  Bà Thắm ơi, thế nào bà cũng phải thuê người canh giữ ngôi nhà vàng của bà. Bà cho cháu làm một chân gác cổng nhé.

Một giọng đàn ông thật thà nói to:

–  Ôi giời! Tin làm sao được mồm lão Hưỡu. Mình sống bằng của cải do tay mình làm ra cũng sung sướng rồi, cần gì vàng ở đâu đâu.

–  Lão Hươu lão Hưỡu ơi! Lão hươu vừa vừa thôi còn có người tin. Lão hươu đến mức bảo rằng người ta đúc cho bà Đằm cả ngôi nhà bằng vàng thì ai tin được.

Lão Hưỡu quát lại:

–   Họ còn ở cả nhà bà Đằm đấy. Các người cứ về mà xem thật hay hươu.

Ông Mùa tưới rau xong, gánh đôi thùng làm bằng xác máy bay Mỹ, bước lên đường, đi về làng. Lão Hưỡu đi sau ông Mùa ê a:

–  Tích tịch tình tang. Người trồng cây sắc người chơi. Ta trồng cây đức đề đời về sau. Ông Đằm làng ta hiền lành, tốt bụng bỗng chết oan, chết ức vì chiếc máy bay tai hoạ rơi trúng nhà. Có đứa con trai duy nhất, chưa kịp lấy vợ sinh con nối dõi, ông cũng cho ra mặt trận đánh giặc rồi hy sinh vì dân vì nước. Cái đức, cái ơn, cái nghĩa của bố con ông Đằm để lại cho làng Thường Xuân, cho nước Việt Nam này lớn lắm nên bây giờ người ở cùng trời, cuối đất, người ở nơi xa nhất trên quả đất này cũng tìm đến làng Thường Xuân mình nhận ơn, nhận nghĩa. Cái ơn, cái nghĩa đó sẽ đưa tên làng Thường Xuân đi vào sử sách nước nhà. Cái đức, cái tâm đó, vàng nào so sánh được.

SÁU

Chiếc ô tô du lịch từ phía Hà Nội đi đến ngang ông Mùa thì từ từ đỗ lại. Từ trong xe, ba người bước ra. Đó là hai người Mỹ và cô gái Việt Nam, ta đã gặp ở bảo tàng quân đội, ở phố Khâm Thiên, ở bệnh viện Bạch Mai, ở đường Thanh Niên bên hồ Trúc Bạch.

Người đàn ông Mỹ nhìn chăm chăm vào đôi thùng gánh nước của ông Mùa. Trên chiếc thùng còn mờ mờ hàng chữ tuy không đủ nét nhưng cũng đủ để nhận ra đó là hàng chữ trên cánh những chiếc máy bay của không quân Mỹ trong cuộc chiến tranh vừa qua. Người đàn ông Mỹ nói một hồi với ông Mùa. Cô gái Việt Nam chuyển lời người Mỹ ra tiếng Việt:

–  Bác ơi, sao trên đôi thùng gánh nước của bác lại có ghi chữ Anh vậy? Nơi nào sản xuất ra đôi thùng này hả bác?

Lão Hưỡu liền đến, đứng ngay trước mặt những người khách lạ, nói:

–  Những chiếc thùng tốt nhất thế giới sản xuất ở xưởng gò hàn Thường Xuân đấy cô ạ. Thùng của chúng tôi xuất khẩu ra khắp thế giới vì thế phải ghi tiếng Anh.

–  Nguyên liệu làm thùng lấy từ đâu vậy ông?

–  Nguyên liệu chúng tôi phải nhập từ nước Mỹ. Những miếng hợp kim dư thừa thải ra trong quá trình làm máy bay, họ chỉ bán theo giá phế liệu, rẻ như cho. Thùng làm bằng vật liệu làm máy bay bay lên trời nên nhẹ như mây, chúng tôi mua theo giá đồng nát. Vì thế thùng bền dùng muôn đời mà giá lại rất rẻ như hàng mậu dịch bán theo tem phiếu.

–  Ông nói thế, cháu hiểu rồi. Vật liệu làm thùng được lấy từ máy bay Mỹ bị bắn rơi phải không ông?

–  Máy bay Mỹ bị bắn rơi chỉ là đống phế liệu chứ còn là gì nữa. Từ thứ phế liệu đó, dân Thường Xuân chúng tôi làm ra những đôi thùng nồi đồng, cối đá này, nhẹ tênh tênh lại bền như nồi đồng cối đá.

Cô phiên dịch dịu dàng:

–  Ông ơi, hai người Mỹ này đang đi tìm chiếc máy bay rơi đó. Họ nhờ ông dẫn đến chỗ chiếc máy bay rơi. Ông giúp họ nhé.

Lão Hưỡu hỏi cô phiên dịch:

–  Nước Mỹ cũng có lịch tính theo mặt trăng và cũng có ngày lễ xá tội vong nhân cúng cô hồn vào rằm tháng bảy, có phải không cô?

–  Người Mỹ chỉ có lịch mặt trời nên không có ngày rằm là ngày trăng tròn. Người Mỹ cũng không cúng lễ người chết nên không có ngày cúng cô hồn như ngày rằm tháng bảy ở ta, ông ạ. Nhưng hằng năm người Mỹ cũng có ngày tưởng nhớ linh hồn những người lính chết trận, ngày thứ hai cuối cùng của tháng năm được gọi là Ngày Tưởng Niệm, Memorial Day.

–  Tôi tưởng người Mỹ cũng có ngày rằm tháng bảy cúng những linh hồn còn bơ vơ và họ đã chọn đúng dịp rằm tháng bảy đi tìm những linh hồn đó nên giữa tháng bảy cô hồn theo lịch nhà quê chúng tôi hết đoàn Mỹ nọ đến đoàn Mỹ kia tìm đến chỗ chiếc máy bay của họ rơi.

Sự xuất hiện hai người nước ngoài xa lạ trên cánh đồng quanh năm chỉ có những người nông dân lam lũ là sự kiện chưa tùng có ở Thường Xuân đã kích thích trí tò mò của những người dân ở vùng quê yên ả, phẳng lặng. Nhiều người bỏ công việc đến vây quanh chiếc ô tô và mấy người khách lạ. Lành và Thắm tay còn cầm cả bắp ngô cũng có mặt trong đám đông. Người đàn ông Mỹ đến bắt tay lão Hưỡu rồi tươi cười đưa tay vẫy, gật đầu chào người dân Thường Xuân: Hello! Hello! Bà mẹ Mỹ đến bên Thắm và Lành. Mỉm cười, thân thiện nhìn Thắm và Lành, bà ngửa tay ra và nhận bắp ngô từ tay Thắm. Cô phiên dịch giới thiệu với dân làng:

–  Đây là hai người Mỹ. Bà Mary có con lái máy bay vào Hà Nội và không trở về từ tháng mười hai năm một ngàn chín trăm bảy mươi hai. Bây giờ bà sang Việt Nam, đi tìm con.

Cô chỉ người đàn ông Mỹ:

–  Ông Tom, bạn của con bà Mary, cũng là người lái máy bay. Ông Tom nhận ra hàng chữ ở cánh máy bay Mỹ trên đôi thùng gánh nước kia.

Lão Hưỡu nói:

–  Dân làng Thường Xuân chúng tôi cũng có lời chào bà Mary đẹp lão và chào anh Tom hộ pháp. Hàng chữ Tây trên thùng gánh nước của chúng tôi mà chúng tôi cũng chẳng hiểu là chữ gì còn anh Tom thoáng nhìn đã nhận ra ngay là chữ trên cánh máy bay của các anh thì anh Tom đúng là dân cưỡi máy bay đi mây về gió rồi.

Lão Hưỡu chỉ đôi thùng gánh nước của ông Mùa:

–  Cánh chiếc máy bay đưa anh đi mây về gió, đưa bom đạn dội xuống mái nhà, dội xuống cuộc sống của chúng tôi, đưa cái chết đến cho chúng tôi đó. Giờ nó là chiếc thùng chứa nước tưới cây mang lại màu xanh cho làng xóm chúng tôi. Chúng tôi biến chiếc máy bay mang bom đạn, mang chết chóc thành đôi thùng gánh nước, thành vật dụng trong cuộc sống lao động làm ăn của chúng tôi.

Tom nói và cầm bàn tay lão Hưỡu đưa lên cao. Cô phiên dịch bám sát lời Tôm:

–   Bà Mary và tôi thật lòng cảm phục những bàn tay sáng tạo của những người nông dân bình dị chúng tôi được gặp ở đây và chúng tôi cũng thật lòng cảm ơn tấm lòng vị tha, độ lượng của người dân Việt Nam.

Lão Hưỡu tiếp tục mạch ngôn từ lưu loát bất tận của lão:

–  Chỉ bằng kìm, búa, chúng tôi cũng làm ra những chiếc thùng tốt nhất thế giới. Nếu được làm bằng máy móc, bằng công nghiệp hiện đại như nước Mỹ, chiếc thùng gánh nước của chúng tôi còn tuyệt diệu hơn nữa. Nước Mỹ nên chuyển ngành công nghiệp sản xuất máy bay gieo chết chóc thành ngành công nghiệp sản xuất thùng gánh nước cung cấp cho thế giới sẽ được thế giới ca ngợi hơn là sản xuất máy bay chở bom đạn. Có phải không, anh Tom? Còn bà Mary đi tìm con trong chiếc máy bay đó thì bà phải đến gặp bà Đằm làng tôi. Đi, tôi dẫn bà đi.

Tom mở bản đồ, chỉ tay vào chữ Thường Xuân trên bản đồ, miệng cố phát âm: Thương Xân! Thương Xân! và nhìn vào mặt lão Hưỡu chờ đợi. Cô phiên dịch hỏi:

–  Làng ông có phải là làng Thường Xuân không?

Lão Hưỡu chỉ tay về phía làng:

–  Thưa vâng. Làng Thường Xuân của chúng tôi trong màu xanh hiền hoà đó. Làng chúng tôi cũng có rất nhiều đàn ông đi ra mặt trận không trở về. Vì thế làng chúng tôi cũng có rất nhiều người mẹ, người vợ đi tìm con, đi tìm chồng bị mất trong chiến tranh nên chúng tôi hiểu và rất chia sẻ với bà Mary. Đi, tôi dẫn bà Mary đến chỗ chiếc máy bay rơi xem có phải chiếc máy bay của con bà không.

Nghe cô phiên dịch nói lại lời lão Hưỡu, Tom đến bên ô tô, một tay mở cửa xe phía trước, một tay ngửa ra chìa về phía lão Hưỡu. Cô phiên dịch bảo lão Hưỡu:

–  Ông Tom mời ông lên ô tô đưa chúng tôi về làng.

Lão Hưỡu từ chối:

–  Ba người kềnh càng như ba bồ thóc ngày mùa, làm sao nhét được vào ghế sau. Mời bà Mary ngồi lên ghế trước cho thoải mái. Tôi gầy như cái que tre, ngồi ghé vào đâu chả được.

Ở đâu lão Hưỡu cũng là người chủ động. Chỉ là khách lạ của chiếc ô tô, lão Hưỡu cũng chủ động sắp đặt chỗ ngồi cho mọi người. Theo sự sắp xếp của lão Hưỡu, bà Mary vui vẻ ngồi lên ghế trước. Đợi Tom và cô phiên dịch vào xe rồi lão Hưỡu mới ghé ngồi vào mép ghế phía sau. Chiếc xe bon bon trên con đường vắt qua cánh đồng, hướng về dải cây xanh phía trước.

BẢY

Vừa ngồi ghé mép ghế nệm trên ô tô, lão Hưỡu đã lên tiếng ngay. Lão nhìn cô phiên dịch, nói:

–  Cô hỏi cậu Tôm, cậu Tép này xem tháng mười hai, năm một ngàn chín trăm bảy mươi hai, cậu ta có đi với con bà Mary mang bom đạn đến tặng chúng tôi không?

Cô phiên dịch nói lại lời Tom:

–  Tom và Sam. Con trai bà Mary tên là Summer nhưng cháu cứ gọi là Sam cho ông dễ gọi, dễ nhớ. Cả hai đều ở lực lượng không quân chiến lược quân đội Mỹ nhưng Tom chưa một lần lái máy bay vào Hà Nội.

Lão Hưỡu thân tình vỗ mạnh vào đùi Tom ngồi bên cạnh rồi chìa bàn tay ra trước mặt Tom bộc lộ sự thân tình:

–  Vậy là bàn tay anh cu này còn sạch sẽ, chưa vấy máu người Việt Nam. Tôi phải bắt bàn tay sạch một lần nữa.

Nghe cô phiên dịch nói lại lời lão Hưỡu, Tom bỗng hốt hoảng nói một thôi một hồi với cô phiên dịch rồi cô phiên dịch chuyển thành tiếng Việt nói với lão Hưỡu:

–  Ông Tom không dám nhận bàn tay còn sạch sẽ. Tháng mười hai, năm một ngàn chín trăm bảy mươi hai, ông Tom không mang bom vào Hà Nội nhưng trước đó, ông Tôm đã nhiều lần xuất kích đi đánh bom đường mòn Hồ Chí Minh, bắn phá những cánh rừng được chỉ điểm có lính Việt Cộng trú quân. Năm một ngàn chín trăm bảy mươi hai khủng khiếp đó, tháng tư, ông Tom đã vào đánh bom Hải Phòng. Một tuần liền, đêm nào ông Tom cũng xuất kích. Ông Tom thú nhận rằng số bom đạn gieo chết chóc ông rải xuống dải đất này là con số không nhỏ. Vì vậy món nợ của ông Tom với mảnh đất này cũng lớn lắm, nặng lắm.

Lão Hưỡu bảo:

–  Phải là người lương thiện mới biết nhận ra cái ác. Phải trở về với cái thiện mới nhận ra cái ác đã làm.

Tom ngửa hai bàn tay ra, mắt nhìn lão Hưỡu lại xì xồ. Cô phiên dịch lại ríu rít:

–  Bàn tay tôi dính máu rồi, không còn sạch sẽ nữa. Tôi đã có một đoạn đời không lương thiện. Vì thế lương tâm tôi không lúc nào yên ổn. Xin ông tha thứ cho tôi.

Lão Hưỡu đưa hai tay nhỏ nhắn, xương xẫu màu đất, màu bùn nắm hai tay Tom đẫy đà, hồng hào:

–  Bàn tay đã biết ngửa ra nhận trách nhiệm là bàn tay rất đáng được trân trọng, rất đáng được những bàn tay khác nắm lấy, chia sẻ.

Tom rút một bàn tay ra khỏi tay lão Hưỡu đưa lên trán làm dấu thánh:

–  Món nợ với Việt Nam cứ thúc giục tôi phải trở lại Việt Nam. Dù rất mong trở lại mảnh đất tôi mắc nợ nhưng khi bước chân trên mảnh đất đó ngay từ khi đặt chân xuống sân bay ở Hà Nội, tôi vô cùng bất an, lo sợ. Tôi sợ phải nhận sự giận dữ, căm thù của người Việt Nam khi biết tôi là người Mỹ.

Nghe cô phiên dịch bám sát lời Tom, lão Hưỡu ngắt lời Tom, nói với cô phiên dịch:

–   Làm sao chúng ta có thể căm thù những người có tấm lòng thân thiện đến với chúng ta. Sao cậu Tom này lại nghĩ ác về người Việt chúng ta như vậy. Cô nên bảo cậu ta đã đến mảnh đất này đừng ở khách sạn, đừng đi ngắm nhà, nhắm phố và cũng đừng mất thời gian đến gặp những ông to bà lớn, rồi chỉ được nghe những lời mỹ miều bóng bẩy thôi, không bao giờ được nghe sự thật đâu. Sự thật là ở cuộc sống của người dân. Cứ dành thời gian về các làng quê, đến với những người biết lo làm ăn như chúng tôi mới thấy sự thật. Cuộc sống lo làm ăn dạy chúng tôi đùm bọc yêu thương chứ không dạy chúng tôi căm thù. Nuôi dưỡng căm thù là nuôi dưỡng cái ác. Có thể có triều đại nuôi dưỡng cái ác, tồn tại bằng cái ác còn người dân chúng tôi thì không khi nào nuôi cái ác trong lòng.

Chăm chú nghe cô phiên dịch, nét mặt Tom giãn ra và giọng Tom trầm xuống:

–  Vâng. Trong những ngày ở Hà Nội vừa rồi đã đem lại cho tôi sự bình an khi tôi được thấy những điều bất ngờ kì diệu. Đến đài tưởng niệm những người dân phố Khâm Thiên bị bom Mỹ giết hại mùa giáng sinh năm một ngàn chín trăm bảy mươi hai khủng khiếp, tình cờ làm sao tôi lại gặp một gia đình, con và cháu người đàn ông chết vùi dưới bức tường sập đến viếng người cha và người ông của họ. Tự nhận là người Mỹ, tôi chờ nhận điều tất yếu phải đến. Nếu không bùng phát hành động phẫn nộ, trút giận thì nhẹ nhàng nhất, may mắn cho tôi nhất cũng là ánh mắt giận dữ, căm thù của con cháu người đàn ông phải nhận cái chết vì bom Mỹ. Bất ngờ nhận được ánh mắt dịu dàng bao dung của tất cả những người Việt Nam đến viếng đài tưởng niệm Khâm Thiên hôm đó, nước mắt tôi đã lặng lẽ trào ra. Con gái người đàn ông chết vùi trong ngôi nhà của mình bị bom đánh sập còn đưa cho tôi ba nén nhang nghi ngút khói để tôi cùng cả gia đình họ vái lạy người đã khuất. Những ánh mắt người dân Việt Nam ở đài tưởng niệm Khâm Thiên nhìn tôi như ánh mắt Đức Cha, như ánh mắt Chúa Trời nhìn tôi khi rửa tội cho tôi, mang lại cho tôi sự bình yên. Có được sự bình yên, nhẹ nhõm trong lòng tôi mới có thể đến Thường Xuân, nơi di sản nước Mỹ để lại còn nặng nề hơn cả ở Khâm Thiên. Thật may mắn, người dân Thường Xuân đầu tiên tôi gặp là ông già cởi mở này mang đến cho tôi niềm tin ở những điểu tốt lành sẽ đến. Cầu Chúa ban phước lành cho ông, ban phước lành cho mảnh đất này.

Nghe âm tiếng Việt trầm bổng chuyển nghĩa những âm thanh lao xao cùa người Mỹ, lão Hưỡu nói với cô phiên dịch:

–  Cậu Tom này xem ra cũng là người tử tế đấy, cô ạ. Nhưng cậu ta chưa hiểu gì về người Việt Nam chúng ta. Bản năng thường trực ở người Việt chúng ta là yêu thương chứ không phải hận thù. Cô cứ ngẫm mà xem. Ở nước mình, vào thời nào, ở nơi nào, người ta đối xử với nhau bằng hận thù, ở nơi đó, ở thời đó chẳng ra gì đâu. Chẳng ai có thể yên ổn và khấm khá được ở nơi, ở thời hận thù đó. Cứ nhìn lại thời cải cách ruộng đất là rõ. Cô còn trẻ không biết về cái thời nhốn nháo, lộn tùng phèo đó còn tôi bắt đầu biết suy nghĩ đúng sai, bắt đầu hiểu sự đời tốt xấu từ cái thời người biết làm ăn để có cuôc sống khá thì bị căm thù, bị sỉ nhục, bị tiêu diệt, người không biết làm ăn phải sống khổ cực thì được đề cao, được đưa lên làm chủ làng quê, làm chủ cả đất nước. Ở đâu và lúc nào chẳng có người giàu, người nghèo, người tốt, kẻ xấu. Giàu nghèo tốt xấu ở đâu cũng có, lúc nào cũng có. Có người giàu người nghèo, người tốt người xấu nhưng luôn có sự điều chỉnh, dung hoà của luật lệ, của phong tục, tập quán nên làng xóm vẫn bình yên, đầm ấm trong tình làng nghĩa xóm. Đang yên lành êm ấm bỗng cả làng quê, cả xứ sở sôi sục hận thù. Thế là con người cứ nhảy thách lên đấu tố, vu tội cho nhau, tù đày, giết hại nhau. Giết hại hết người giầu, người giỏi. Phá tán tan tành của cải tích lũy bao đời mới có được. Đập phá hết đình chùa, văn bia. Làng xóm tan hoang. Tình người ráo hoảnh. Khủng khiếp quá! Người dân đã phải mang hận thù nhau trong lòng thì dân tình chia rẽ, lòng người li tán, đất nước cũng tai ương, yếu hèn, chỉ làm mồi cho ngoại xâm thôi, cô ạ. Dân mình giữ nước là giữ bằng yêu thương. Dân mình đánh giặc cũng là đánh bằng yêu thương đấy, đánh giặc bằng tình yêu nước, thương nòi đấy, cô ạ! Nếu cứ hận thù như từ hồi cải cách đến giờ thì nước mình đâu còn đến hôm nay!

Cô phiên dịch lại chuyển ngữ những điều lão Hưỡu vừa nói cho Tom nghe. Tom lẩm bẩm: Bravo! Bravo! Rồi Tom quay sang lão Hưỡu:

–  Những người mang chiến tranh đến Việt Nam là vì không hiểu Việt Nam. Không hiểu đối thủ thì thất bại là đương nhiên. Cũng vì thế nước Mỹ phải mang vết thương trong lương tâm và lịch sử phải ghi những trang đau buồn. Việt Nam đã ám ảnh, đã chi phối, đã trở thành một bóng đen trùm xuống một thế hệ người Mỹ và cũng đã thức tỉnh một thế hệ người Mỹ, để thế hệ người Mỹ đó nhận thức lại những giá trị Mỹ. Đó là thế hệ chúng tôi. Thế hệ của tôi và Sam.

Im lặng giây lát, Tom lại nói:

–  Tôi và Sam cùng có một kỷ vật mang dấu ấn của thế hệ chúng tôi. Tôi và cả Sam bạn tôi chắc chắn cũng đồng ý tặng ông kỷ vật đó.

Thấy lão Hưỡu xua tay sau khi nghe cô phiên dịch, Tom vội giải thích:

–  Kỷ vật này không có giá trị về vật chất, chỉ là kỷ vật của ký ức, của tình cảm, về giá trị có thể nó có một chút giá trị với lịch sử ghi nhận một thế hệ người Mỹ phải gánh chịu sai lầm của nước Mỹ. Tôi và Sam thân thiết nhau từ nhỏ. Từ nhỏ, chúng tôi đi đâu, làm gì cũng có nhau. Chúng tôi vào không quân khi nước Mỹ đang sa lầy vào cuộc chiến tranh Việt Nam. Không quân là thế mạnh áp đảo, là sức mạnh răn đe của nước Mỹ bảo đảm ổn định thế giới. Nhưng lực lượng không quân Mỹ lại bị hao hụt nhanh nhất, nặng nhất trong cuộc chiến là thảm hoạ lớn nhất của nước Mỹ. Được bổ sung vào sự hao hụt đó, chúng tôi biết chắc chắn rồi sẽ đến lượt phải bay vào tọa độ lửa Việt Nam. Dự liệu điều đó, chúng tôi đặt làm mỗi đứa một cái lắc giống nhau. Lắc của tôi khắc hình nữ thần Tự do, biểu tượng kiêu hãnh của nước Mỹ. Con người sinh ra phải được Tự do. Tự do là lý tưởng của nước Mỹ, là hơi thở của cuộc sống Mỹ, là giá trị của nền văn minh Mỹ. Thế mà nước Mỹ lại dùng sức mạnh của nền văn minh Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh tước đoạt ý chí của nước khác, áp đặt ý chí của nước Mỹ cho nước khác. Đó là cuộc chiến tranh chống lại nước Mỹ, chống lại lý tưởng Tự do của nước Mỹ. Tôi phản đối cuộc chiến tranh tàn bạo chống lại giá trị văn minh Mỹ, chống lại lý tưởng Tự do của nước Mỹ vì vậy tôi khắc hình Nữ thần Tự do trên chiếc lắc của tôi. Còn lắc của Sam có hình bà Mary, mẹ Sam.

Tom đưa cánh tay đeo lắc lên cho lão Hưỡu thấy:

–  Đây là cái lắc của Sam, bạn tôi. Trước khi sang căn cứ Utapao, Thái Lan để sẵn sàng bay vào tọa độ lửa Việt Nam, chúng tôi đổi lắc cho nhau. Ảnh bà Mary hồi chúng tôi rời nước Mỹ đi vào cuộc chiến tranh Việt Nam đấy. Sam bạn tôi có nét mặt rất giống mẹ.

Tom tháo chiếc lắc đặt vào bàn tay lão Hưỡu. Lão Hưỡu đưa chiếc lắc lên ngắm nghía. Cô phiên dịch chỉ hàng chữ trên lắc, nói với lão Hưỡu:

–  Ông có thấy chữ Việt Nam khắc trên lắc không? Hàng chữ khắc trên lắc là Kết thúc ở Việt Nam. Chữ khắc rất rõ nhưng cháu cũng không hiểu tại sao lại Kết thúc ở Việt Nam. Để cháu hỏi Tom về hàng chữ này.

Cô phiên dịch hỏi Tom và Tom giải thích:

–  Lắc của tôi khắc hình tượng thần Tự Do và dòng chữ Khởi đầu ở nước Mỹ! Còn lắc của bạn tôi khắc chân dung bà Mary và dòng chữ: Kết thúc ở Việt Nam! Thế hệ chúng tôi Khởi đầu cuộc đời ở nước Mỹ và kết thúc cuộc đời ở Việt Nam. Sinh ở nước Mỹ và chết ở Việt Nam. Lời khắc của thế hệ chúng tôi vào lịch sử nước Mỹ đó.

Giọng cảm động, lão Hưỡu nói với Tom:

–  Anh giữ lắc của bạn anh có khắc cả ảnh người mẹ bạn anh thì vẫn còn. Đó là kỷ vật quí không những với anh, với tình bạn của anh, với bà Mary mà còn quý với cả một thế hệ người Mỹ của các anh, là một vật chứng vô giá của lịch sử nước Mỹ. Người Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh ở Việt Nam đưa bom đạn đến Việt Nam nhưng những chiếc lắc như thế này đã đưa cuộc chiến tranh Việt Nam vào ngay trong lòng nước Mỹ. Chiếc lắc như vậy anh nên giữ lại.

Tom nói:

–  Kỷ vật này trước đây chỉ có ý nghĩa với chúng tôi. Nay nó đã thành kỷ vật về sự gắn bó của chúng tôi với đất nước Việt Nam.

Lão Hưỡu đưa chiếc lắc cho Tom:

–  Thế thì anh càng nên giữ nó.

–  Chúng tôi còn một chiếc lắc của bạn tôi kia mà.

–  Nhưng nó còn đang nằm trong lòng đất Việt Nam, chắc gì anh đã tìm được.

Tom quả quyết:

–  Tôi sẽ tìm thấy. Chiếc lắc của tôi, bạn tôi mang khắc dòng chữ: Khởi đầu ở nước Mỹ. Đó cũng là tinh thần Mỹ. Nước Mỹ khởi đầu từ mảnh đất hoang, từ con số không, tinh thần Mỹ đã làm nên tất cả. Mang tinh thần Mỹ đó, tôi sẽ tìm thấy chiếc lắc Khởi đầu ở nước Mỹ đang còn nằm trong lòng đất Việt Nam. Đến Hà Nội, tôi đã đi khá nhiều nơi. Nơi nào có máy bay của chúng tôi rơi vào đêm 26 tháng mười hai, năm 1972, đêm bạn tôi ra đi và không trở về, tôi đều đến và đều vô vọng. Nhưng đến đây, từ khi nhìn thấy đôi thùng gánh nước làm bằng xác máy bay của chúng tôi, tôi có linh cảm đó chính là chiếc máy bay bạn tôi lái. Được gặp ở ông sự cởi mở và độ lượng Việt Nam, lòng tin tìm thấy bạn của tôi càng tăng lên.

Lão Hưỡu hỏi:

–  Bạn anh không về từ đêm 26 tháng mười hai năm 1972 à? Chiếc máy bay rơi xuống làng tôi đúng vào đêm đó. Tôi cầu mong bà Mary tìm thấy con, anh Tom tìm thấy bạn.

Lão Hưỡu đưa chiếc lắc cho Tom:

–  Anh cầm lấy chiếc lắc. Ở nơi chiếc máy bay của các anh rơi, anh sẽ được gặp một bà mẹ Việt Nam cũng mất con như bà Mary nhưng sự mất mát của bà ấy còn lớn hơn sự mất mát của bà Mary nhiều lần. Bà mẹ đó mới đáng được nhận chiếc lắc quý này. Bà mẹ đó mới đáng được nhận những tình cảm tốt đẹp của anh và của bà Mary.

TÁM

Chiếc ô tô chở bà Mary và Tom đến trước cổng nhà bà Đằm. Không còn thấy hai chiếc ô tô đến trước. Theo sự hướng dẫn của lão Hưỡu, chiếc ô tô chạy thẳng vào sân. Nhanh như sóc, lão Hưỡu bước ra khỏi ô tô và lanh lảnh hỏi vào trong nhà:

–  Anh Mạnh đâu rồi. Lại có khách từ ngàn dặm lặn lội đến thăm mẹ con anh đây. Đoàn khách trước về rồi à?

Mạnh từ trong nhà bước ra, đứng trên thềm, nói:

–  Họ về Hà Nội rồi. Họ đi lối đê sông Hồng. Chắc ông đi lối Phủ Lỗ qua cánh đồng nên không gặp. Lại khách ở đâu đến vậy, ông?

Nhìn thấy bà già và người đàn ông da trắng bước ra khỏi xe, tiến lại phía mình, Mạnh lộ vẻ ngạc nhiên quay nhìn lão Hưỡu. Lão Hưỡu nói:

–  Tôi gặp hai người Mỹ này ngoài đồng. Biết tình cảnh của họ hoàn toàn giống tình cảnh của mẹ con anh nên tôi dẫn họ về thẳng đây gặp mẹ con anh, không qua ủy ban xã. Nào để tôi giới thiệu hai bên làm quen nhau.

Lão Hưỡu chỉ vào từng người, giới thiệu:

–  Anh Mạnh, bạn của con trai bà chủ nhà. Như anh Tom là bạn của con trai bà Mary vậy. Nay anh Mạnh còn là con rể, là người đàn ông của ngôi nhà này nữa. Còn đây là bà Mary cũng có nỗi phiền muộn như nỗi phiền muộn của bà Đằm, mẹ vợ anh vậy. Còn anh Tom, bạn của con trai bà Mary.

Nghe cô phiên dịch nói lại lời lão Hưỡu giới thiệu về Mạnh, bà Mary và Tom nắm bàn tay Mạnh rất chặt và lâu.

Lão Hưỡu thốt kêu:

–  À, còn cô phiên dịch xinh đẹp và giỏi giang phá bỏ sự ngăn cách về tiếng nói giúp những người không cùng tiếng nói hiểu nhau. Người có vai trò to lớn vậy mà tôi quên chưa giới thiệu. Mà tôi cũng chưa kịp hỏi tên cô nữa đấy.

–  Cháu là Hiền ông ạ.

Tiếng lão Hưỡu lại lanh lảnh:

–  Cô Hiền tha lỗi cho người già lẩm cẩm hay quên nhá. Còn anh Mạnh có biết vì sao tôi bảo tình cảnh của bà Mary và anh Tom lại giống tình cảnh mẹ con anh Mạnh không? Thời anh Mạnh là lính thì anh chàng Tom này và con trai bà Mary cũng là lính như anh Mạnh đấy. Nhưng là lính Mỹ lái máy bay. Năm chiến tranh ác liệt nhất, năm bảy mươi hai, con trai bà Mary này lái máy bay vào đánh Hà Nội và không trở về. Nay bà Mary và bạn của con bà đi tìm người lính chưa trở về đó. Cũng như năm trước anh Mạnh dẫn mẹ của bạn và là mẹ vợ của anh Mạnh vào miền Nam tìm anh Đằm vậy. Đấy, tình cảnh mẹ con bà Mary có giống tình cảnh mẹ con anh không? Tình cảnh họ như vậy, anh Mạnh thấy có nên tiếp họ không? Thôi, anh mời khách vào nhà đi. Cứ lấy nước vối nhà vẫn uống ra mời họ cũng được.

Mạnh gượng gạo nói với khách:

–  Mời bà và bác vào nhà đợi mẹ tôi đi chợ sắp về.

Thấy sự lúng túng và miễn cưỡng của Mạnh, lão Hưỡu lại lon ton đi trước dẫn khách vào nhà và miệng lại vanh vách mọi chuyện:

–  Chiếc máy bay rơi đêm hai mươi sáu tháng mười hai, năm bom đạn đó đã làm sập ngôi nhà này và giết chết ông chủ nhà. Vì thế đưa bà Mary về đây, tôi vừa mong bà Mary tìm thấy con bà ở đây, tôi lại vừa mong chiếc máy bay tội lỗi phá sập nhà, giết chết người không phải là máy bay do con bà lái. Nhưng bà Mary không tìm thấy con ở đây thì chúng tôi thật ái ngại cho bà. Tất cả những nơi máy bay Mỹ rơi vào đêm hai mươi sáu, bà và anh Tom đã đến tận nơi và anh Tom đã xác nhận những chiếc máy bay đó đều không phải là loại máy bay con bà lái. Đây là nơi đến cuối cùng. Nếu con bà không có trong chiếc máy bay rơi xuống đây thì bà lại phải mang nỗi đau khổ không bao giờ tìm thấy con như bà Đằm ở đây thôi. Khổ thế!

Vừa đưa khách vào nhà, lão Hưỡu lại hấp tấp lôi khách ra sân chỉ lên cây mít cụt ngọn:

–  À, mời bà ra đây. Bà có thấy cây mít bị cụt ngọn kia không? Dấu vết duy nhất chiếc máy bay rơi còn để lại đó. Ngôi nhà sập thì đã xây lại đến hai lần nên chẳng còn dấu vết gì do chiếc máy bay để lại. Lần xây trước là lúc cả nước còn xơ xác, sức người và của cải đều kiệt quệ vì chiến tranh nên mẹ con bà Đằm, mẹ góa con côi, chỉ tận dụng vật liệu từ ngôi nhà sập cùng với sự giúp sức của dân làng dựng lên ngôi nhà tạm bợ che mưa nắng. Tạm bợ mà cũng ở được mấy chục năm trời mới tích lũy, ki cóp dựng lên được ngôi nhà khang trang, lâu bền này. Ngôi nhà tưởng là tạm bợ lại ở được gần nửa đời người. Ngôi nhà tưởng là lâu bền cho cả đời con, đời cháu hóa ra chỉ như ngôi nhà giấy, vừa xây xong rồi lại phải phá đi thôi. Sao ông Trời cứ dồn mãi tai ương, cứ trút mãi cơ cực xuống cuộc đời bà Đằm thế nhỉ!

Nghe cô phiên dịch nói lại lời lão Hưỡu, bà Mary và Tom lặng lẽ đứng ngắm nhìn ngôi nhà, mảnh vườn. Ngôi nhà xây xinh xắn, tinh khôi. Luống rau xanh mướt trên mảnh vườn bên nhà  Bức tường bao mới xây còn trống một mảng chưa xây. Không nguy nga, lộng lẫy, không mênh mông, rộng lớn, ngôi nhà ba tầng duyên dáng và mảnh vườn xanh tươi, đẹp mắt, đủ là bằng chứng về cuộc sống đầy đủ của một gia đình đầm ấm, ổn định, là ước mơ của nhiều gia đình người Việt Nam. Đến bên cây mít cụt ngọn, bà Mary sững sờ ngắm những quả mít kềnh càng bám kín quanh thân cây từ gốc lên đến ngọn. Đứng bên cây mít, vừa ngắm nhìn không gian sống êm đềm của một gia đình Việt Nam, bà Mary và Tom vừa se sẽ chuyện trò, vẻ nghĩ ngợi, trầm tư, xúc động hiện rõ trên gương mặt.

Lão Hưỡu vào trong nhà ngó nghiêng. Trong phòng ăn, thấy mấy chiếc ghế nhựa trắng quanh bàn ăn, lão liền mang ghế ra sân. Thấy lão Hưỡu làm, cô phiên dịch liền cùng mang ghế ra sân với lão. Mạnh cũng mang ra sân chiếc bàn có chân gấp vào mở ra được và mang ấm nước vối, khay chén đặt trên bàn.

Buổi sáng mùa thu có sương mù, mặt trời đã lên cao nhưng không chói chang mà rải ánh nắng dịu dàng lên mảnh vườn. Những vòm cây bên nhà thả bóng râm xuống mảnh sân thoáng đãng, mát mẻ. Lão Hưỡu mời khách ngồi ghế. Cô phiên dịch rót nước vối vàng sánh ra cốc thủy tinh mời khách. Vẫn còn chiếc ghế trống nhưng Mạnh không ngồi ghế mà mang điếu cày đến ngồi xuống khúc cây cạnh bức tường. Mạnh chậm rãi nạp thuốc lào vào điếu cày, châm lửa, rít một hơi dài, nghiêng mặt nhả khói. Còn đang lơ mơ trong cơn say thuốc lào, Mạnh nói với lão Hưỡu:

–  Họ là khách đến nhà mà cháu lại nhắc đến chuyện bắn giết nhau ngày nào, chẳng hay ho gì. Nhưng từ mặt trận trở về, mỗi lần nhìn thấy người đàn ông da trắng, tóc vàng, mắt xanh, cháu liền nhớ đến tên lính Mỹ tóc vàng mắt xanh đã giết Đằm, giết ngay trước mắt cháu. Hôm nay ông lại dẫn về tận nhà cháu một gã tóc vàng mắt xanh, một gã đàn ông Mỹ đích thực. Lại nhắc cháu phải nhớ đến tên Mỹ đã xả đạn giết Đằm.

Tưởng lão Hưỡu sẽ ngăn không cho Mạnh nhắc lại chuyện bắn giết đau buồn thời chiến tranh, không ngờ lão lại khuyến khích Mạnh:

–  Không sao đâu, đàn ông với nhau, anh cứ nói ra đi. Cứ giữ mãi trong lòng ấn tượng quá ghê rợn, khủng khiếp về một cái chết đau thương, về một sự mất mát quá lớn thì nỗi đau ấy không bao giờ mất đi, cứ làm khổ mình mãi. Nói ra cho nhẹ người và cũng cho họ hiểu chúng ta, để hai bên hiểu nhau. Nói ra đi rồi bỏ qua, rồi biết quý trọng cuộc sống hơn và biết sống tử tế hơn.

Nghe cô phiên dịch nhắc lại lời Mạnh và lão Hưỡu trao đổi, Tom đến trước Mạnh đưa bàn tay ra:

–  Tôi đã được bắt tay lão Hưỡu và được nói ra những điều nặng trĩu trong lòng với lão Hưỡu. Và tôi đã nhận được sự độ lượng của lão Hưỡu. Chúng ta đều là những người đàn ông như vậy.

Mạnh đứng lên bắt tay Tom rồi hai người cùng ngồi xuống khúc cây. Chậm rãi nạp thêm điếu thuốc, rít một hơi thuốc nữa, Mạnh nói:

–  Chiến dịch Tết Mậu Thân vào hồi tàn. Đại đội tôi đã bị thương vong gần hết. Những đứa bị thương không cầm súng được nữa được gom lại chuyển về phía sau. Trong đám thương tích tơi tả đó, tôi bị nặng nhất, tưởng không sống nổi. Thế mà tôi lại thành người duy nhất sống sót. Mảnh đạn cối phá toác mảng đùi trái của tôi. Máu ra như xối. Đứa bạn tôi bị thương vào đùi nhẹ hơn tôi, không được cầm máu ngay đã chết vì mất máu. Đằm bị thương vào vai trái, vết thương không nặng nên được phân công cõng tôi về phía sau. Chết nhiều quá. Đội cứu thương phải đi gom xác chết. Lính bị thương, thằng bị thương nhẹ tha thằng bị thương nặng về phía sau như kiến tha mồi. Đi được đoạn nào biết đoạn đó. Không biết đoạn sau sẽ ra sao. Trận Mậu Thân năm đó cố đánh lấy được, định đổ hết máu lính ra đánh trận cuối cùng nhưng không xong, phải chịu tổn thất quá lớn. Mười đứa vào trận chỉ còn một đứa què cụt trở về. Trên đường đi, bọn tôi rơi vào ổ phục kính của đơn vị biệt kích Mỹ.

CHÍN

Buổi sáng nắng đẹp trong thung lũng lúp xúp những bụi cây nhỏ rậm rì lọt thỏm giữa dải rừng già thâm nghiêm và những mỏm núi cao. Đàn bướm dày đặc như một dải mây thấp la đà trên lùm cây. Trong lao xao tiếng gió có tiếng suối róc rách lúc gần, lúc xa. Tốp thương binh chân đi dép cao su đen, từ quần áo đến thân xác tơi tả, lê lết dìu nhau trên lối mòn. Cả tốp hai mươi ba người chỉ có ba khẩu AK giao cho ba thương binh nhẹ không phải dìu cõng đồng đội, hai khẩu AK đi đầu, một khẩu khóa đuôi. Tám cặp thương binh mười sáu người dìu cõng nhau. Bốn người tự đi được, không phải dìu cõng ai thì phải mang trang bị cho thương binh nặng và sẵn sàng thay thế người dìu cõng bị kiệt sức.

Cụt cõng què. Nhẹ dìu nặng. Người lính trẻ có vòng băng trắng quấn từ vai trái xuống nách cõng người lính quấn băng trắng đùi. Ống quần bên trái, bên chân bị thương đã bị cắt bỏ. Băng trắng quấn phồng cao kín đùi anh. Đó là cặp thương binh Đằm và Mạnh. Đằm bị thương vào vai dìu Mạnh bị mảnh đạn cối phá toác đùi. Cũng may Đằm có thân xác to lớn, vững chắc còn Mạnh thì gày guộc, mong manh.

Chợt Mạnh thều thào bên tai Đằm:

–  Đằm ơi!

Nghe tiếng bạn gọi, mặt Đằm tươi lên:

–  Cậu tỉnh lại rồi à? Có khát nước không? Nghỉ một tí, uống ngụm nước cho tỉnh táo nhé.

Đằm kêu cả tốp dừng lại nghỉ rồi nhìn quanh tìm chỗ đặt Mạnh ngồi tựa vào một bụi cây rậm rì. Mở nắp bi đông, Đằm nghiêng miệng bi đông rót từng chút nước vào miệng Mạnh. Nhìn Mạnh uống nước, gương mặt nhợt nhạt, Đằm nói:

–  Lần này cậu mê man lâu quá, chẳng còn biết gì nữa, người lại nóng rực như đang sốt cao, mình lo quá.

Mạnh mấp máy môi nhả ra từng âm thanh rời rạc. Đôi lúc mới bật ra được liền hai âm. Sau mỗi câu ngắn, Mạnh lại nghỉ khá lâu mới nói tiếp:

–  Mình. Không. Sống. Được. Đâu. Cứ. Để. Mình. Lại. Đây. Cậu. Và. Anh em. Rút. Về. Lẹ. Đi.

Dừng lại thở rồi môi Mạnh lai mấp máy:

–   Cứ. Lê lết. Thằng. Nặng. Níu. Chân. Thằng nhẹ. Rồi. Chết. Chết. Cả. Lũ.

Động viên bạn, muốn truyền cho bạn niềm lạc quan, niềm vui của lính, Đằm nhắc lại một chuyện vui rất lính:

–  Sắp về đến hậu cứ rồi. Cậu có biết mình về đến đâu rồi không? Về đến thung lũng Em Ơi rồi. Cậu có nhớ thung lũng Em Ơi không? Lối mòn qua thung lũng bọn mình vẫn đi về có nhánh rẽ vào trạm giao liên, nơi bọn mình thường hay gặp cô giao liên tóc ngắn và dày ôm lấy khuôn mặt tròn trắng trẻo, cậu có nhớ không? Ở rừng mãi, đứa nào cũng thèm khát bóng dáng con gái nên mỗi khi qua đây đứa nào cũng mong gặp nàng tiên giao liên. Không gặp thì phải nán nghỉ lại chờ. Mỗi lần thấy bóng dáng em giao liên, thằng nào cũng nhao nhao cất lên tiếng gọi thật tha thiết: Em ơi! Cậu là người cất tiếng gọi Em ơi đầu tiên, cậu nhớ không? Sau này địa chí vùng đất này sẽ ghi tên cậu là người đặt tên Em Ơi cho thung lũng. Mình về đến thung lũng Em Ơi rồi.

Mạnh lại mấp máy môi. Đằm nhìn môi Mạnh đợi nghe lời Mạnh như lời trăng trối. Mấp máy mãi Mạnh mới đẩy được âm thanh yếu ớt thoát ra khỏi miệng:

–  Hai. Thằng. Mình. Phải. Có. Một. Thằng. Sống. Về. Làm con. Của. Cả. Hai. Gia đình. Phải. Có. Một Thằng. Sông Về. Làm. Con. Của. Cả. Hai. Người mẹ. Mình. Không. Sống. Được. Thì. Đằm. Phải. Sống. Cứ. Lê. Lết. Níu. Nhau. Cả. Hai. Cùng. Chết mất. Không. Có. Người về. Với. Hai. Người mẹ. Tội. Nghiệp. Đang. Mong. Đợi…

Đằm kéo lại vòng băng trắng trên vai bị xộc xệch vì cõng Mạnh và cúi xuống bảo Mạnh:

–  Nào đi tiếp nhé! Về được đến đây là sống rồi. Cả mình, cả Mạnh, cả hai mươi ba thằng đều chắc sống rồi .  .  .

Chợt loạt đạn AR15 rát rạt rộ lên cắt ngang lời Đằm. Đằm vội cúi xuống đẩy Mạnh nằm ngửa chui sâu vào bụi cây rậm và Đằm nằm lấp vào khoảng trống của bụi cây vừa bị rạch ra. Tiếng súng chát chúa của một tình thế hiểm nghèo làm cho Mạnh đang trong trạng thái lơ mơ như thực như ảo giật mình trở về cõi thực. Mạnh nhận ra những tiếng thình thịch rất gần. Tiếng thịch nặng nề là những thân xác trúng đạn đổ vật. Tiếng thình thịch nhẹ và mau là tiếng bước chân chạy. Không có tiếng súng AK chống trả. Thế là tốp lính thương tích đầy mình lọt vào ổ phục kích và lãnh đủ rồi. Hai tay súng AK đi đầu lãnh trọn loạt đạn AR 15 đầu tiên. Sau những loạt AR15 đột ngột rộ lên, sau mấy tiếng thình thịch gấp gáp, thung lũng lại tĩnh lặng. Sao lại tĩnh lặng thế nhỉ? Đằm từ từ đứng lên quan sát. Nhưng Đằm vừa đứng lên thì bốn thân hình lừng lững mặc đồ rằn ri ào đến trước mặt Đằm. Một tên trẻ măng chĩa họng súng AR15 vào ngực Đằm. Nằm ngửa trong lùm cây, Mạnh mở to mắt nhìn tên lính trẻ. Bộ đồ biệt kích rằn ri. Chiếc mũ sắt chụp trên đầu hất ra sau gáy phơi ra mảng tóc vàng. Cặp mắt xanh biếc bên dưới mái tóc vàng hoe. Chợt chớp lửa nháng lên từ họng súng AR15. Đằm nảy người lên rồi đổ vật xuống, đè lên người Mạnh.

Những mũi giày đá vào người, vào đùi Mạnh. Mạnh đau điếng nhưng người vẫn cứng đơ, không nhúc nhích như một xác chết. Một đế giầy đạp xác Đằm lăn ra để Mạnh nằm tênh hênh trước những cặp mắt xanh biếc. Cặp mắt khép lại, gương mặt nhợt nhạt không còn sự sống và thân xác nằm ngửa bất động của Mạnh là thế nằm không tự chủ động của một xác chết. Những hiện trạng đó đã đánh lừa được những cặp mắt xanh biếc. Lũ lính mắt xanh, tóc vàng đếm xác chết và xướng to “Twenty-three bodies of Vi Ci”, hai mươi ba xác Vi Ci! Những bộ đồ rằn ri rời đi. Tiếng những bước chân thậm thịch xa dần và mất hút

Thung lũng lại trở về tĩnh lặng, hoang sơ. Không còn đàn bướm đông đúc lúc cụm lại thành một khối dày đặc, lúc rập rờn toả ra thành vệt dài và rộng như một áng mây thì lại có mấy con chuồn chuồn bay quẩn một chỗ, con bay cao, con bay thấp. Tiếng suối gần xa và tiếng gió ào ào lại ru Mạnh chìm dần vào cơn hôn mê.

Tia nắng chiều chiếu xiên vào mắt làm Mạnh tỉnh dậy. Mạnh quờ tay chạm vào mảng ngực vỡ toác của Đằm rồi giơ bàn tay trước mặt. Mạnh trân trân nhìn bàn tay đỏ lòm máu. Dần nhớ lại những sự việc vừa xảy ra. Mạnh  chống tay gắng ngồi dậy, vẻ mặt đau đớn vì sự động cựa làm vết thương đau nhói. Ngồi tựa vào ảng đá đợi cơn đau dịu lại, Mạnh nhìn đôi mắt Đằm vẫn mở trừng trừng và lưng vẫn đeo ba lô. Vuốt mắt bạn và gỡ chiếc ba lô ra khỏi lưng Đằm, Mạnh cố xoay Đằm nằm ngửa lên. Mạnh ngồi bất động nhìn Đằm trân trân.

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.