Đọc Vũ điệu không vần toàn tập của Khế Iêm

Phan Tấn Hải

blank

Sách dày khoảng 630 trang, khổ giấy 6X9 inches, bên cạnh các bài thơ là những bài lý luận phức tạp, bên cạnh một số tranh minh họa của Ngọc Dũng, Thái Tuấn… cũng là các đồ hình lý luận về thơ Tân Hình Thức và cả khoa học…

Nhà thơ Khế Iêm đã xuất hiện rất mực Khế Iêm… Thơ Tân Hình Thức thường bị ngộ nhận là khó hiểu và bí hiểm. Nhưng nơi đây, độc giả sẽ không thấy thơ Khế Iêm khó hiểu hay bí hiểm… thực sự nhiều câu thơ rất dễ hiểu. Thí dụ, như bốn câu đầu bài thơ nhan đề “Tân Hình Thức và Câu Chuyện Kể” nơi trang 13, trích:

Khi tôi ngồi uống cà phê ngoài lề

đường và kể lại câu chuyện đã được

kể lại, từ nhiều đời mà đời nào

cũng giống đời nào, mà lời nào cũng…

Trong bốn câu toàn chữ dễ hiểu, chữ đời thường, không có từ nào thuộc loại Hán-Việt hay chữ cổ… nhưng lý luận trong nhiều bài rất phức tạp, giải thích những lý do thơ kiểu Tân Hình Thức xuất hiện.

Như vậy, tại sao thơ toàn chữ đời thường mà lại là thơ Tân Hình Thức? Có trái nghịch gì với thơ Tiền chiến và ca dao hay không?

Nhà thơ, và là nhà lý luận, Khế Iêm trong bài viết nhan đề “Thơ Và Hiệu Ứng Cánh Bướm” nơi trang 47 đã giải thích, trích:

Tân hình thức Việt là con đường ngược chiều với Tiền chiến và ca dao lục bát, giải phóng khỏi vần và ngữ điệu hát (vần điệu), chắt lọc các yếu tố thơ cổ điển, thơ tự do và thơ không vần tiếng Anh, dùng ngữ điệu tự nhiên của những câu nói thông thường, vắt dòng và kỹ thuật lập lại (không vần), giống Tiền chiến, mượn các thể thơ 7, 8, 5 chữ như một hình thức nối, giữa truyền thống và hiện đại. Vần, nếu là yếu tố mạnh trong ngữ điệu hát, thì lại là yếu tố trở ngại trong ngôn ngữ thông thường, làm mất tự nhiên, và không còn cần thiết. Nếu thơ Tiền chiến chủ yếu dùng cách hoán chuyển chữ của ngôn ngữ độc âm, và thơ Tân hình thức Hoa kỳ quay về truyền thống, sắp xếp các âm tiết nhấn, thì thơ Tân hình thức Việt làm một khúc rẽ, không dựa vào ngôn ngữ mà vào những yếu tố ngoài ngôn ngữ trong cách vận hành của các hiện tượng đời sống, chẳng khác nào các thế võ Trung hoa hình thành từ sự học hỏi những động tác của loài cầm thú…” (ngưng trích)

Có thể ghi nhận về thơ Tân Hình Thức như giải thích trên: ngữ điệu tự nhiên, đời thường, không vần, lập lại (không vần), như thế võ từ loài thú…

Hình như Khế Iêm quên nói rằng thơ này múa theo động tác loài thú nào? Hổ quyền, hầu quyền, hạc quyền…?

Vâng, có một chỗ, hình ảnh cánh bướm được nhắc tới trong Vũ Điệu Không Vần… Nhưng, có phải cánh bướm vẫn có một nhịp điệu tự nhiên? Chỗ này lại cần tới công thức vật lý…

Tới đây, chúng ta có thể thắc mắc: Thơ Bùi Giáng, một hình thức thơ có vẫn đã hiển lộ rực rỡ nhiều thập niên qua, được nhìn dưới ống kính hiển vi của thơ Tân Hình Thức thế nào?

Khế Iêm trong bài viết nhan đề “Thơ Bùi Giáng, Một Thử Nghiệm Đọc” (trang 158-170) ghi nhận về ngọn núi thi ca họ Bùi, trích:

Thơ Bùi Giáng là cuộc vận chuyển không ngừng của ngôn ngữ. Và khi chuyển động, nghĩa của chữ chưa kịp xuất hiện thì ngay tức khắc bị chữ khác thay thế. Cứ như thế, thơ truy lùng thơ, ngôn ngữ truy lùng ngôn ngữ, và bài thơ này trùng lấp vào bài thơ khác. Nghĩa chữ chồng chất lên nhau, chữ này ẩn vào trong hay bị bao trùm bởi chữ khác, của bài thơ khác. Ý của thơ không còn nguyên ròng – bất định và ảo hóa. Đi tìm lại tiền thân, nhưng cũng chẳng ai biết bài thơ nào là tiền thân của bài thơ nào. Thơ ở trên trời dưới đất, muốn đọc thì với lấy, nhặt lên, bất chợt và tình cờ, chẳng thể chọn lựa, chẳng thể dừng lại vì vòng quay có bao giờ dừng lại.

Trong lịch sử thơ Việt, chưa bao giờ lại có cuộc luân vũ mãnh liệt đến như thế, của ngôn ngữ. Và thơ, phải chăng, không nằm ở chính ngôn ngữ, mà ở khoảng khắc bốc hơi của ngôn ngữ, và chúng ta có thể tạm gọi cho đơn giản là quy trình hóa thân của ngôn ngữ. Bài thơ chẳng còn ở quá khứ hay hiện tại (và cũng chẳng phải tương lai) mà là tiến trình của thời gian. Và người đọc được mời gọi, nhập vào tiến trình ấy, để cùng hoàn tất thơ. Thơ làm khó diễn dịch và giải thích, vì vậy, chỉ còn lại người đọc và tác phẩm. Ngay tác giả cũng mờ nhạt trong định mệnh của vòng chơi. Nhưng không phải vì thế bài thơ không cần diễn dịch; sự diễn dịch cần thiết vì nếu nó kéo người đọc càng lúc càng xa tác phẩm, xa cách thơ, thì sẽ tạo nên phản ứng và nỗ lực làm người đọc tìm cách đến gần tác phẩm…”(ngưng trích)

Nghĩa là, theo Khế Iêm, thơ Bùi Giáng là: thơ truy lùng thơ, chữ chồng chất chữ, ý thơ bất định và ảo hóa, bất chợt và tình cờ, là khoảnh khắc bốc hơi của ngôn ngữ…

.

Tới đây, một câu hỏi có thể nêu lên: vậy thì, đặc tính thi ca của tuồng tích và cải lương nằm ở đâu, và vì sao lôi cuốn nhiều triệu người dân Việt trong nhiều thế hệ như thế?

Nhà lý luận Khế Iêm nhìn thế nào về tuồng tích và cải lương trong khi mời gọi các thi sĩ lên đường cho phong trào thơ Tân Hình Thức?

Trong bài “Đọc Thơ” (trang 1449-157) Khế Iêm giải thích về kho tàng thi ca trong cải lương, trích:

“…Đáng nói là từ trước đến nay, người làm thơ chỉ để ý đến tân nhạc, ngâm thơ, và đánh giá cao ca dao. Trong khi một bộ môn ít người để ý và coi thường là cải lương, lại cho chúng ta nhiều điều suy ngẫm. Bỏ qua những khuyết điểm rất lớn của cải lương là tuồng tích, thiếu chất sáng tạo và tư tưởng có tính trí tuệ, (thật ra, đối với cải lương thì đây không phải là khuyết điểm vì mục đích là phục vụ cho giới bình dân), bố cục và nút thắt đôi khi lỏng lẻo, không hợp lý, những đề tài tâm lý xã hội quen thuộc và lập đi lập lại, chủ yếu chỉ để lấy nước mắt và khêu gợi mối thương tâm, tại sao cải lương lại hấp dẫn và mê hoặc khán thính giả bình dân đến vậy. Lý do có thể tạm giải thích là, ngoài những giai điệu phong phú, sự thích nghi với mọi hoàn cảnh và thời đại, cải lương có một tính truyện, phối hợp được với rất nhiều bộ môn từ ngâm thơ, tân nhạc, kịch nghệ đến những đối đáp, và ngay cả lời ca cũng không chuốt lọc mà chỉ là những câu nói đời thường, phù hợp với những tâm trạng và đời sống của người bình dân. Không những có khả năng mở rộng, dễ biến hóa, hòa nhập mọi hình thái diễn đạt, để làm thành bản sắc, cải lương còn có thể vừa bảo tồn vốn cũ vừa tiếp nhận những cách tân, xứng đáng là một bộ môn nghệ thuật có tầm vóc. Chỉ tiếc rằng, cải lương đã không được coi trọng, càng ngày càng sa sút, một phần cũng là do sự ngáng trở của tầng lớp thị dân, sự lơ là của những người làm văn hóa…”(ngưng trích)

Nghĩa là, nhiều người chúng ta bỏ quên và coi thường cải lương, trong khi kho tàng cải lương cần được cách tân để trở thành một bộ môn nghệ thuật có tấm vóc.

Chúng ta có thể nêu câu hỏi: nếu câu ca cải lương được vắt dòng như thơ Tân Hình Thức, có thể cứu được bộ môn cải lương đang bị sa sút hay không? Dĩ nhiên, không có câu trả lời. Vì không thấy soạn giả cải lương nào chịu vắt dòng cho câu ca. Thí dụ, cô đào cải lương đang khóc, câu ca “Ngày mai đám cưới người ta, vì sao sơn nữ Phà ca lại buồn” sẽ được vắt dòng kiểu thơ Tân Hình Thức như:

Ngày mai đám

cưới người ta

vì sao sơn

nữ Phà ca

lại ơ… buồn?

Khán giả sẽ vỗ tay tưng bừng sân khấu? Giả thuyết thôi, vì không soạn giả nào làm như thế. Và làm thế, không chắc là đỡ sa sút hơn, vì các gánh cải lương cần bán vé, và đó là quy luật thị trường, không phải hiệu ứng cánh bướm…

Tới đây, chúng ta thắc mắc về kỹ thuật: thơ Tân Hình Thức phá vỡ quy luật thơ Tiền chiến thế nào?

Trong bài viết nhan đề “Chú Giải về Thơ Tân Hình Thức” (trang 13-23) thi sĩ Khế Iêm giải thích:

Nếu thơ Tiền chiến, cách tân bằng cách, dùng cảm xúc để thoát ra khỏi luật tắc cứng nhắc của thơ cổ điển, thì thơ Tân Hình Thức Việt (tạm gọi như vậy) sử dụng ngôn ngữ đời thường, kết hợp với một số yếu tố và kỹ thuật của thơ tự do tiếng Anh, phá vỡ âm hưởng Tiền Chiến, chấm dứt nửa thế kỷ dậm chân tại chỗ của thơ. Thơ cổ điển, theo phép làm thơ của Thơ Đường, với luật bằng (level tone), trắc (deflected tone), vần (rhyme) và cao độ (pitch, gồm 4 tone), lao tâm khổ tứ vì chữ (dùng và chọn chữ) thì thơ Tiền Chiến chỉ còn giữ lại vài yếu tố như vần (thường là cước vận), trau chuốt chữ và cách đọc ngừng ở cuối dòng. Thơ chủ vào cảm xúc, nhẹ phần nội dung, nên không ra ngoài cảm xúc và ảo giác, đôi khi lại là cảm xúc mơ hồ, được tạo ra từ những vần điệu du dương. Thơ kéo người đọc ra khỏi đời sống, và chính người làm thơ cũng lánh xa đời sống. Có lẽ vì vậy nên nhiều người tưởng lầm rằng thơ chỉ có thể cảm chứ không thể giải thích vì làm sao giải thích cái không thể giải thích, khi âm điệu và cảm xúc được coi như điều kiện thiết yếu để đánh giá là thơ hay. Thơ trở nên bí ẩn, thuộc về thế giới mộng ảo, và nhà thơ giống như một nhà soạn nhạc, viết ký âm bằng chữ (nhiều bài thơ vần phổ nhạc rất thành công cho thấy, hai thể loại này gần gũi trong cách sáng tác). Đã có nhiều nhà thơ, cố gắng thoát khỏi ảnh hưởng Tiền Chiến bằng cách làm mới ngôn ngữ và cảm xúc, tuy nhiên vì vẫn sử dụng phương pháp thơ Tiền Chiến, nên không những không ra khỏi, mà còn làm mạnh thêm ảnh hưởng đó. Ngay cả những nhà thơ tự do sau này, phá bỏ thể loại và vần, nhưng vẫn nương vào cảm xúc, âm và nghĩa chữ, chỉ khác là cảm xúc trong thơ Tiền Chiến dựa vào nhạc tính của vần điệu thì trong thơ tự do, hoặc dựa vào ý tưởng và âm chữ, hoặc vẫn dựa vào cách tạo nhạc của Tiền Chiến…” (ngưng trích)

.

Như thế, nhà thơ Khế Iêm đã nói rõ là, muốn kêu gọi: “phá vỡ âm hưởng Tiền Chiến, chấm dứt nửa thế kỷ dậm chân tại chỗ của thơ…”

Cụ thể là thế nào?

Trong bài “Chú Giải về Thơ Tân Hình Thức” đã đưa ra lời kêu gọi (hay, nên gọi là tuyên ngôn?) rất rõ ràng, trích:

Chúng ta hãy cùng bước trên một con đường, dẫn dắt nhau, chẳng phải vì một cá nhân mình, mà cho sự hưng thịnh của thơ. Sự thất bại hay thành công không phải là điều quan trọng, mà là một dấu mốc cho những thế hệ mai sau, đỡ đi những vấp ngã. Nhìn lại trong suốt một chiều dài lịch sử văn học, từ thơ cổ điển, Tiền Chiến đến tự do đã có những tác phẩm định hình cho nền thơ Việt. Ngay bây giờ, chúng ta vẫn còn phải trở lại những thời kỳ đó, để học hỏi, rút tỉa kinh nghiệm và làm khác đi, mở đầu cho một nền thơ tân kỳ. Chúng ta chỉ xứng đáng, và tiếp nối được với công sức lớn lao của những thế hệ trước, nếu tìm ra được phương cách biểu hiện, tạo thành một chuyển tiếp, và chứng tỏ, thơ Việt vẫn là một nền thơ tràn đầy sức sống. Lịch sử đã sang trang, và một thời kỳ mới cũng đã bắt đầu, có một ý nghĩa vô cùng chuẩn xác. Chuẩn xác vì ai cũng biết, chúng ta không thể sống với một tâm tư cũ, những thói quen cũ. Chào đón một thiên niên kỷ hay một tân thế kỷ không phải chỉ là một lời nói suông, mà mỗi chúng ta cần phải chấp nhận sự lột xác. Sự học hỏi chỉ có ích nếu giúp cho chính chúng ta và mọi người áp dụng vào được trong sự thực hành. Chúng ta cần nhiều người tham gia vào công cuộc chung, có như thế mới thay đổi được, và chính thức bước vào một thiên niên kỷ mới…” (ngưng trích)

Lời kêu gọi đó đưa ra vào Mùa Xuân 2000… và bây giờ, khi tuyển tập Vũ Điệu Không Vần ấn hành là mùa hè 2019. Kể như sau 20 năm.

Trong Thư Cảm Tạ (trang 9), nhà thơ Khế Iêm viết:

Tập sách gồm 3 phần: Vũ Điệu Không Vần, Cách Làm Thơ, Thơ và Không Thơ, với 35 tiểu luận cùng phần dịch thuật, cung cấp thông tin chi tiết về ngôn ngữ, luật tắc trong sáng tác và thưởng ngoạn. Viết về thơ, không hẳn chỉ là công trình biên khảo, mà còn là sự ghi nhận những chặng đường tìm kiếm trong sáng tạo của người làm thơ. Bài viết, vì thế, có thể coi như một dạng thơ văn xuôi. Đó là lý do tại sao, tập sách đã kéo dài suốt 18 năm. Trong quá trình viết, in ấn, chúng tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của một số thân hữu, đặc biệt là các nhà thơ Nguyễn Đăng Thường, Điểm Thọ, Nguyễn Đình Chính, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Nguyễn Lương Ba, Xuân Thủy. và Phạm Quyên Chi. Sau cùng, chúng tôi chân thành cảm tạ bạn đọc đã dành chút ít thì giờ quan tâm tới những vấn đề chuyên biệt của thơ. Và, cũng như bất cứ những việc làm nào khác, sự sai sót là điều không thể tránh khỏi, xin quí thân hữu và bạn đọc lượng tình tha thứ…”

Ngắn gọn, tuyển tập cần đọc kỹ càng. Độc giả không thể đọc nhanh được, vì nhiều trang lý luận rất phức tạp. Tuyển tập do Tan Hinh Thuc Publishing Club ấn hành.

Câu hỏi liên lạc qua Email: baogiaytanhinhthuc@gmail.com

Trang web đọc thêm ở:

http://www.thotanhinhthuc.org

http://www.thotanhinhthucviet.vn

Nhưng nhà thơ Khế Iêm là ai?

Câu hỏi trên muốn được trả lời, nên đặt theo thể vắt dòng:

Nhưng nhà
thơ Khế
Iêm là
ai?

Theo tiểu sử chính thức, nhà thơ Khế Iêm là:

Tên thật Lê Văn Đức sinh năm 1946 tại Lê Xá, Vụ bản, Nam Định. Chủ trương Tạp Chí Thơ tại Hoa Kỳ và phong trào thơ Tân hình thức Việt. Thơ dịch của ông xuất hiện trên Xconnect (volume III, Issue II), Literary Review (Winter 2000) và The Writers Post; tiểu luận dịch trên The Writers Post. Ông tham gia hội nghị hàng năm lần thứ 56 (2004) của Hiệp hội Nghiên cứu Á châu (Association Asian Studies) về thơ các quốc gia vùng Đông Nam Á, gồm Thái Lan, Phi Luật Tân và Việt Nam, với chủ đề, “Poetry as a Window on History and Change in Southeast Asia” (Thơ, cửa sổ qua lịch sử và biến đổi tại Đông Nam Á).

Chủ biên Blank Verse (Thơ Không Vần, 2006) và Thơ Kể (Poetry Narrates (2010), cả hai là thơ Tân hình thức Việt, ấn bản song ngữ. Tác Phẩm: Hột Huyết (kịch, Sàigòn 1972), Thanh Xuân (Văn Mới 1993), Dấu Quê (Traces of My Homeland, ấn bản song ngữ. Tan Hinh Thuc Publishing Club, 2013), Thơ Khác (Other Poetry, ấn bản song ngữ, Tan Hinh Thuc Publishing Club, 2011). Stepping Out, Essays on Vietnamese Poetry (Bước Ra, ấn bản song ngữ, Tan Hinh Thuc Publishing Club, 2012).”

Tuyển tập Vũ Điệu Không Vần có thể mua trên mạng với giá 12 đôla, sau khi vào Amazon.com xin gõ nhóm chữ: “vu dieu khong van tu khuc va nhung tieu luan khac”…

Đây là một tác phẩm cần có đối với tất cả những người quan tâm về thi ca Việt Nam thế kỷ 21.

Comments are closed.