Tháng 4/2019, nhà thơ Như Quỳnh de Prelle đã cho ra mắt bạn đọc tập thơ thứ tư của mình: Biến đổi khí hậu.
Nhà thơ cho biết,với mong muốn tìm kiếm một cách thức thể hiện mới, tập thơ đã được viết với ý thức tối giản. Ngoại trừ tựa đề chung cho năm phần là Màu, Mùa, Nhịp, Biến đổi khí hậu và Zen, các bài thơ trong mỗi phần, với nhiều thể thơ, được nối liền nhau, không có tựa đề riêng. Đặc biệt, ngôn ngữ thơ được sử dụng “tiết kiệm” đến mức tối đa.
Văn Việt trích giới thiệu chương Mùa và bài viết về thơ Như Quỳnh de Prelle của nhà thơ Phạm Quyên Chi, như là lời chúc mừng gửi đến chị.
Văn Việt
Những cuộn gió cuốn cát bay
những đôi ủng trên đường nối dài
những chiếc áo phao
mùa xuân
biển bắc lạnh ngắt
những chiếc thuyền lênh đênh như ngã xuống
khó mà đứng lên thẳng tắp
Bọn trẻ nghịch đùa
xây những lâu đài cát
chạy đua những cánh diều
Đi về phía biển
thấy gập gềnh
những chân trời tăm tắp
bao giờ chạm tới
khơi xa
bầy sâu chi chít trên những nụ hoa hồng
dưới những chiếc lá non
chi chít chi chít
nắng lên
hoa anh đào đã tàn
chờ mùa hoa hồng nở
tháng 5 tháng 5
trên một chuyến bay qua đại dương
chở những đôi cánh từ chữ
từ những nỗi buồn
những bất cập
người đàn ông bên biển
trở về nhà
bên một cuốn thơ trắng xoá
của một buổi sáng
phủ định sạch trơn
lịch sử
thế kỷ
những mất mát điêu tàn
và những khoảng vỡ
trên những toà nhà trống
thành phố bỏ hoang
và cả những ngôi nhà bị cháy
những đoàn người chạy theo nhau
lao qua cửa sổ
những đứa trẻ biến mất
giữa không trung vô định
và mọi người vẫn đọc những bản tin hàng ngày
giữa những lỗi sai chính tả
giữa những hàng chữ vô nghĩa
của những tờ báo lớn
hôm nay
có tin tức về một cái chết
của nữ sinh
bị quấy rối
ở toà soạn
mang tên
Tuổi trẻ thế hệ chấm mắm
năm mấy mươi ngàn tận thế
Trời xanh sau lưng
sao trước mặt chỉ toàn bóng tối
những người đàn bà điên
khóc vì thơ
kiêu hãnh vì thơ
chết vì thơ
quặn quại chữ
giữa những con mồi
và thú hoang
vật vã điên cuồng
giữa trùng trùng bất trắc
một người đàn ông yêu
một người đàn ông im lặng
một người đàn ông như trẻ nhỏ hát ca
một người đàn ông cầm tù
một người đàn ông bị chết bởi những câu thơ kỳ thị thi ca và đàn bà
những người đàn bà điên
khóc thì thơ
kiêu hãnh vì thơ
chết vì thơ
thế kỷ 21
còn sót lại
một tộc người
yêu thi ca hơn cả sự sống
hơn cả cái chết vô thức
yêu thi ca như một cơn nghiện thuốc phiện
không bao giờ cai được
chết trên một cành hoa anh đào
một ngày nắng xanh
bên gốc mận trắng tinh
Dưới cây mận trắng
tôi nhắm mắt lại nhìn vào bóng đêm
Dưới gốc hoa mộc lan màu sen tím
tôi ngửi thấy mùi hương của mùa xuân
Dưới bóng hoa anh đào
tôi nhìn thấy những xác chết
Dưới cành mai nhật đỏ
tôi nhìn thấy những bài thơ
Dưới bông hoa tulip của tháng 4
tôi nhìn thấy cuộc đời vô thường ngắn ngủi
Dưới những bầy sâu xanh chi chít trên hoa hồng
tôi nhìn thấy những mầm đen mọc lên
Dưới những bông hoa thược dược
tôi nhìn thấy tuổi thơ xa xôi
Dưới những quả đào mọc lên từ những bông hoa đào ngày tết
tôi thấy quê nhà và cha mẹ
Dưới chân tôi
tôi thấy sự bước đi mạnh mẽ
chùng lại những nỗi buồn
cả những giọt nước rơi trên mặt đất
Dưới một bài thơ
tôi im lặng
đến chết
không bao giờ nói ra
một sự thật
Với một con người bao dung
tôi hiền từ tĩnh lặng
Cái van tim của N hở ra
nàng nhìn thấy ngôi nhà trống và những hàng ghế băng dài
gió thổi vào thốc mạnh
những bài thơ bị khóc, bị đánh, bị rượt đuổi
và bay lên
hoá thành
mây
ánh sáng
những cơn mưa
hoá thành một tình yêu
chạm vào ai đó
nàng nhìn thấy trái tim phập phồng, sưng rộp
một trái tim màu nho tím
những cục máu đông mềm nhũn nhĩn
chuyển thành màu đen huyền yên lặng
nó vẫn ngập ngừng thở
ngập ngừng sống
và chưa bao giờ hết ngập ngừng yêu
chưa bao giờ biết ngập ngừng thù hận
luôn đầy xót xa
Cái van tim của N có lúc nàng nhìn thấy
nó đã từng đóng lại, chết lâm sàng
và một bàn tay ai đó chạm vào
thức tỉnh
một trái tim nghiêng màu nho tím
của riêng ai
Một bài thơ chiết tiệt
phân biệt và kỳ thị
ác ý và
lấy đi người đàn ông thi ca của tôi
bóp nghẹt trái tim tôi
chia rẽ cuộc đời tôi
phần nhân loại
Mặt trời màu đỏ như câu đối Tết
đôi mắt nheo nheo
mùa nắng lên
đông vẫn chưa tan
tuyết chưa cạn
thời gian chưa bao giờ ngưng lại
và chúng ta đi trên những đường dây
của trí nhớ và ký ức
sự hiện thời
Tuyết tháng 10
Những cơn mưa tháng 10
Những gương mặt tháng 10
Những lời, giọng nói, hơi thở trong tháng 10
Chúng ta là một
Thi ca là một
Mùa thu và những bông hoa đen huyền
dấu ấn trên mặt đất
trên đôi bàn tay cày xới thi ca
nảy những mầm sống
hy vọng không ngưng lại
sinh sôi trong sự lạnh giá
của gió mưa tuyết dầy
Những bông hoa đen huyền
như mắt như vùng sâu của đêm
mọc lên giữa sự sống còn
hơi thở mặt đất
mùi hương không khí tự nhiên
Những bông hoa màu đen còn lại
trong ký ức của vùng tương lai
như niềm tin là hiện thực
diễn dịch khỏi ý niệm nhiệm màu
Những bông hoa màu đen nhung huyền
như ngón tay em sơn màu
chạm vào ngực anh
vĩnh cửu
nghiến răng đứt lưỡi
xiết cổ dưới bàn chông
tự vùi mình trong cát
những tiếng hát của tâm hồn ma quỷ
ăn sần sật những đốt ngón tay trần
ohlala tàu khựa
tao căm ghét chúng mày
bẩn thỉu hôi hám
người giàu mới ăn toàn bio mà ỉa ra toàn cứt đen
nhà không lau chùi dù bóng lộn
toillet bẩn x ngồi được 1s
trong tủ toàn rượu ngoại như lũ quý tuộc khoe khoang
hít hà thử hết loại này loại kia
phát kinh tởm gớm ghiếc
chúng mày ô uế toàn nhân loại văn minh
văn hoá tinh hoa của chúng mày chôn vùi dưới những bức tượng thời Tần Hán
tsb chúng mày
chúng tao căm hận đến thiên thu
Tôi tìm thấy người đàn bà
trên mắt lá của mùa thu
chưa vàng úa
giữa trời xanh và
những chú chim
sơn ca
bồ câu
quạ
cùng hải âu mùa về trú ấm
Tôi gặp người đàn bà
thủa đôi mươi thanh xuân
trên từng hàng chữ
những đôi mắt của giấy
của màn hình tinh thể lỏng
những đôi mắt cuả tình yêu
tuyệt vọng vô ngôn
Tôi gặp người đàn bà giữa mùa thu
giữa vườn nắng của mùa trái ngọt
hạt dẻ nâu
đàn sóc nô đùa
Tôi nói với nàng giữa hồ sâu
đừng đi nữa
như thu sang
bắt đầu ngày mới
một cái chết
2 cái chết
một ngôi mộ lớn
2 ngôi mộ rất lớn khác
1 ngai vàng
2 hai chụp lại
một hòn núi
hiên ngang
trước ngày định mệnh
lụi tàn
nếu tôi chết
đừng làm gì cả
cứ để tôi an yên
không ai đã biết
tôi đã chết từ lúc nào
thật là hạnh phúc
“Định mệnh và tự do” trong thơ Như Quỳnh de Prelle
Phạm Quyên Chi
Don Quixote của Cervantes thời phục hưng đã biến một nửa quá khứ của con người bước vào cuộc hành trình bay đến bầu trời không giới hạn. Một cuộc đấu được xây dựng trên mọi tưởng tượng, và như đưa đến vực thẳm đầy đọa trong hình dung thì cũng chính là giây phút một Don Quixote trở thành biểu tượng quang đãng cho ta chạm tới “tự do”. Tự do đó tồn tại trong kí ức nhân loại, một khát vọng bất tử của con người đã biến mọi khiếp sợ bay vào hư vô. Và sự tồn tại của quá khứ không mất đi chính nhờ một phần là sự bất tử ấy sống lại trong niềm tin của tương lai mà một Như Quỳnh de Prelle đã kích hoạt vào cấu tạo từng con chữ, như kích lại sự sống, ý chí:
“Buổi sáng hôm nay
Tôi không muốn đọc những bản tin về bóng đá
Về những cái chết
Và những kẻ bệnh hoạn tâm thần
Về những ngày lịch sử đi qua
Đầy xác chết hận thù
…
Tôi sẽ ra công viên
Nhìn lên những giọt nước đọng trên những đốt cây
Lắng nghe sự sinh sôi
Tràn đầy
Mùa xuân đang đến
Hoa hồng sẽ nở
(Buổi sáng phủ định)
Trí năng của “tôi” đã tự mình kiểm chứng lại niềm tin này bằng một niềm tin khác, đồng thờ đánh vào biến chuyển đời sống với những thiết định bất kháng, đã bó buộc con người phải đi theo vạch lề. “Tôi sẽ ra công viên” một mệnh đề tỉnh thức đầu tiên mang đến tính chủ thể với hành động “nhìn”, “lắng nghe”, những phản kháng cần thiết để phủ định. Cái gì là nguyên nhân hiện hữu và bản thể bao hàm sự hiện hữu ấy trong và cả những lối tin tưởng nhất thời đã đánh mất đi tinh thần và phóng ra ánh sáng giả tạo:
“Chúng ta bịt mắt lại và hôn nhau
Không cần gặp nhau
Chỉ cần 2 cái nick
2 cái màn hình phẳng
…
Chúng ta bịt mắt lại và hôn nhau
Sinh ra những đứa trẻ
Trầm cảm trên những dòng chữ
Mưa mùa xuân trong mắt
Từng giọt như mực rơi”
(Siêu thực)
Bài thơ tự thân chứa trong mình một phán đoán hợp logic, ở đây tính phân đoạn trong lời thơ cho phép từ tạo ra tính ẩn dụ sâu xa. Đó là lời nói có ý thức, cho phép đạt được thỏa ước về cuộc trượt dốc không thể giao ước. Gọi tên sự vật, đồ vật có nghĩa là hành động mượn lời cộng với tính phán đoán trong từ đã tạo nên mối quan hệ giữa chúng đối với thực tế đời sống. “Chúng ta bịt mắt lại và hôn nhau” đây chính là một hành vi lời thông báo – cái hành động của người tự hành động lại chịu thêm một tác động của một hành động khác dẫn truyền đến hình ảnh “ngôi”, như cách bản thân các từ ngữ trong bài thơ biểu thị đại từ nhân xưng”chúng ta” gợi mở quá trình thõa mãn từ thế giới ảo ảnh. Mà trong “chúng ta” đã xa rời một chủ nghĩa khổ hạnh. Người khổ hạnh luôn nói không trước thế gian mọi ảo ảnh, rằng tội lỗi nằm ở chỗ tham luyến. “Những đứa trẻ trầm cảm trên dòng chữ” giống như nhân vật Nashe trong cuốn tiểu thuyết “Nhạc đời may rủi” bất ngờ thừa hưởng gần hai trăm ngàn đô la từ người cha mất vì bệnh ung thư và may mắn ấy chẳng thể cứu vớt được thực tại bi đát, bởi đổ vỡ đã diễn ra. Rồi căn nguyên đời sống những đứa trẻ có thật sự thấy mùa xuân – ý nghĩa cuộc hành trình khi con người đang tự do dịch bước vô nghĩa.
“Cơn điên của mùa hè
Người đàn bà lúc nào cũng đòi sự thật sự thật
Những người đàn ông lí tưởng thì lúc nào cũng muốn đánh nhau
Nắng không thể cạo hết nỗi buồn nhân gian
Bão không thể thay gió mưa làm lại trong lòng tích tắc
Em không còn nhớ nỗi gương mặt anh
Người đàn ông tự kỷ
Người đàn ông vừa là đàn ông vừa là đàn bà
Vừa là quái vật
Vừa là đứa trẻ con
Yêu thi ca
Yêu chữ
Đến mù lòa
…
Và em thì đã quên tất cả
Như một người đàn bà mất trí
Vô tri”
(Song tử 17)
Một câu chuyện, người kể ban đầu đứng ngôi thứ 3 thì ngay sau đó lại là “em” điểm nhìn “em” trực tiếp can thiệp vào hiện thực. Như Quỳnh đã khéo léo vận vào tính khách quan trong nhiều góc độ, và kí gửi nỗi niềm vào hình tượng nhân vật. Lối trần thuật này rất hay mà tìm ngẫm chắc tác giả ít nhiều đã hiểu tìm ở Faulkner, Ernest Hemingway,…người đàn ông tự mang lấy sự kì thị, kì quặc trước mặt người đàn bà của đời mình. Như Quỳnh, cô ấy liên tục đưa ra nhiều thể nghiệm với những đánh động giữ kẽ “người đàn ông tự kỷ” và “và em thì đã quên tất cả”, người đàn ông giống đàn bà – người đàn bà thì mất trí. Cách dàn nguyên nhân theo lối móc xích tạo nên âm điệu, nhạc tính là bở tư tưởng của nhà thơ muốn gián cách cho bạn đọc dễ hình dung mạch tự sự. Cuộc sống nào nhiều hạnh phúc, chủ yếu con người ta chưa chịu đi tìm ý nghĩa sự tồn tại của mình trong chính bản thân mình.
Trong thơ Như Quỳnh de Prelle có một phần bức bách khao khát đi tìm cho ra được đôi cánh tự do phá bỏ mọi ràng buộc đời sống để rồi cách dẫn chữ đôi lúc có biến động giúp cho người bên ngoài đoán định, soi chiếu rồi ướm thử đôi cách của mình trong diễn tiến số phận.
“Trong những ngày buồn tôi vừa khóc
Vừa cười vừa đau vừa khổ vừa
Đắng vừa cay vừa ói vừa thương
Làm sao tháng nào tôi cũng rơi
Vào trạng thái này như thần kinh
Phân liệt thành con người khác cái
Tôi là tôi nên kệ tôi…”
(Một bài thơ tân hình thức là tôi)
Ngay tựa bài thơ, một phép so sánh ngang bằng nhưng không hiểu sao dòng nhịp điệu của nhan đề bài thơ ngôn ngữ như kéo dài ra đến hết mọi giác quan. “Tôi” trong tính “miêu tả”, “tôi” có lẽ đang buồn. Chọn thể Tân hình thức là nhà thơ, muốn bứt bỏ cú pháp để chuyển động tiến vào dạng thức kí hiệu cảm xúc. Trong tôn chỉ của phái hình tượng mà nhà thơ Khế Iêm (trưởng trường phái thơ THT Việt) đã chỉ ra trong tập Vũ điệu không vần thì khuôn mặt đóng vị trí quan trọng nhất của cách mạng T. E. Hulme, Erza Pound…sau này là T.S. Eliot đã đóng góp cho nền thơ mỹ ở định hướng lại chủ đề và hình tượng đưa vào trong thơ chữ, nhóm chữ chưa bao giờ dùng, có khả năng liên hệ tới ngôn ngữ nói của đời sống hiện đại. Như Quỳnh cũng chọn lối không vần theo đúng luật tắc như muốn nắm bắt âm thanh, hình ảnh của ý nghĩa ngôn ngữ đã chuyên chở được cảm xúc trong “tôi”. Và do đó, những câu thơ như biến đổi hình ảnh qua hình ảnh tạo nên niềm mê hoặc phản ảnh nên chính ta.
Trở lại một câu hởi muôn đời, văn chương chân chính là văn chương như thế nào? Làm sao những bài thơ thức dậy, ăn sâu vào cội rễ tâm thức nhân loại theo thời gian. Thì một lần nữa, thông qua, những khúc thơ Như Quỳnh de Prelle – mới hay mọi giới hạn sẽ chẳng có sự giới hạn nào cho tưởng tượng, sáng tạo và cũng không có bất cứ rào cản nào khiến ngôn ngữ ngừng tìm đến tự do. Tự do mà thánh Paul đã dùng khi nói: “Hãy nhận biết sự thật và nó sẽ khiến bạn trở nên tự do”. Và tự do chân chính trong một tác phẩm chỉ có thể là một Don Quixote mãi miết bay qua những ngã rẽ cuộc đời và biết mình làm gì! Còn tự do bắt gặp được trong tập thơ “Buổi sáng phủ định” của Như Quỳnh trong hiện tại – một buổi sáng đang bay bằng “phủ định” với đôi cánh thiên thần tìm đến chân trời thơ ca “Định mệnh và tự do”.