|
Không phải con chào mào cardinal đỏ sẫm biểu tượng của tiểu bang mà lại là con robin mỏ vàng, đầu đen, yếm nâu, cánh màu sẻ đồng tha mùa xuân đến chốn này. Năm ngoái dọn về đây nhớ một người bạn có nói loáng thoáng chuyện cỏ cây chim chóc nhưng gay go cơm áo Luỵ quên đi, và sáng nay giá không là một ngày cuối tuần tươi sáng, ngồi đọc sách bên thềm, bất ngờ thấy một bệt vòng cung màu nâu vẽ qua suốt khu rừng sồi mới xanh lá trước nhà thì ngay chuyện xuân về anh cũng chẳng lưu tâm, huống hồ một cánh chim trời. Bất giác anh tự hỏi thời còn trẻ ở quê hương tín hiệu thiên nhiên nào báo cho anh biết mùa xuân đến? Không, dường như đời anh chưa hơn một lần may mắn bắt được tín hiệu ấy. Anh thốt thở dài. Đời hai lần di cư, bắc xuống nam rồi đông sang tây, căn cốt một cậu bé nhà quê thôi thế là cứ tuần tự bị đô thị hoá hết cả bề ngoài. Thay đổi ấy đời có lầm tặng cho lắm thứ nhưng cũng lấy đi của anh lắm thứ, trong có cái tín hiệu mùa xuân mà dường như đâu cũng vậy, người ta chỉ bắt được nơi miền thôn dã giống chỗ anh đang sống hiện giờ. Luỵ nghĩ mình sẽ ngồi rình cánh chim trở lại. * Tình bảo: “Em thích ở đây.” Luỵ nhìn dọc con đường mòn trước nhà. Trên những cành dẻ còn vương tí gió rét của mùa đông giông bão Đại Tây Dương đã khuất. Thứ gió rốt lòng này anh nhớ từng quen từng cảm. Nó bám trên những ngọn thông khi cơn bão qua đi ở quê Thanh — thứ bão lắc rung các cột lim trong nhà như những thanh đũa. Anh tính bảo vợ khi một người đã chán cái bánh nếp thì chắc không còn lý do để thích một hạt nhân đậu, nhưng thôi. Hai tháng nay anh giấu Tình căn bệnh đã biến chứng hiểm nghèo. Khi không Luỵ buột miệng: “Nó sẽ trở lại.” Tình ngạc nhiên: “Cái gì trở lại?” “Cái vòng cung.” “Vòng cung gì?” Luỵ giải thích vào nét nghi ngại của vợ, rồi nói: “Này em.” “Gì anh?” “Đã bao giờ em thấy một tín hiệu mùa xuân chưa?” “Nghĩa là sao?” Mất hứng, Luỵ bảo: “Thôi.” “Lạ, thì nói rõ em nghe.” Luỵ cười, khẽ đọc: “Xuân đời chưa hưởng kịp…” “Lại cụ Vũ. Anh kỳ. Mình đang hưởng đây thôi!” “Sàng tới sảy lui xuân chẳng được mấy mùa.” Thốt nhiên Tình choàng tay qua vai chồng, cười bảo: “Thông cảm. Cứ thuốc đều giùm em là hưởng chẵn trăm xuân.” Rồi thốt chỉ tay qua cánh rừng đối diện, Tình reo lên, “Đó, nó trở lại rồi kìa, anh nói đúng, đẹp thật, đẹp quá trời!” Khi không Luỵ lại thấy lòng hoang lạnh. Anh chống tay xuống thềm nói vu vơ: “Mùa này ngoài Thanh hay ăn món cá thu nướng kho riềng mía.” Tình mỉm cười quay vào bếp. * Dòng Katawba cách đây năm bảy dặm đường rừng mà lắm lúc Luỵ vẫn nghe như có tiếng nước xôn xao chảy qua đầu. Hè rồi đi câu có người bạn bảo sông này xưa đầy một giống cá bông lau to như thân chuối nay đã tuyệt giống, hoặc vẫn còn rơi rớt nhưng ẩn trong hang không cho người đời thấy nữa. Lúc ấy trong tiếng ve râm ran Luỵ có lặng đi. Tự dưng anh nhớ đến miền Tây. Nhớ quá. Hồi ấy trên chiếc tầu tuần nhỏ có lần anh cứ tiến mãi vào một vùng trời nước hoang sơ với ý nghĩ thống khoái chưa ai khác ngoài thầy trò anh là những kẻ đầu tiên. Trong hơi gió chướng hoa so đũa, hoa ô môi bắt đầu mở mắt trắng hường nhìn xuống vùng đầm lầy mênh mông mà nước bắt đầu rút để cá bắt đầu quẫy tìm đường ra sông. Đó, mùa xuân! “Chưa ông thầy ơi,” một người lính truyền tin bỗng nói. “Để trúng kỳ nó tới em sẽ bắt cái ‘morse’ mùa xuân chính hiệu xứ này cho ông thầy coi.” Vào một sáng kia người lính chợt chỉ một bệt mây xám từ xa bay tới. “Nó đó!” hắn reo lên. “Cái gì vậy? Giặc cào cào, hay dơi?” “Chim Lá Rụng.” “Chim Lá Rụng?” Người lính nhìn lên đám mây giờ đã hoá thành tấm thảm thần khổng lồ óng bạc đang bay qua, giải thích: “Dạ, cứ vụ gặt mùa xuân vừa tới là nó đi kiếm ăn từng bầy. Ông thầy coi, cả trăm ngàn con chớ ít chi. Năm nào như năm đó, không sai hẹn, bị vậy mà dân miệt này coi nó mới chính là dấu hiệu mùa xuân, dù dân nhậu chịu đi lưới lắm. Chu cha ông thầy chưa thấy nó đáp đâu; khi đáp nó khép cánh cho rơi xuống trông y chang một rừng lá rụng.” Đó là lần đầu trong đời Luỵ thấy một tín hiệu mùa xuân. Anh đem lòng yêu thầm vùng đất có tiếng muỗi kêu tựa sáo thổi đỉa lội tựa bánh canh này. Đôi phen anh tự nhủ khi tàn chinh chiến anh sẽ chẳng về lại quê Thanh, cũng chẳng sống ở Sài Gòn, anh sẽ về sống với cái vùng đất màu mỡ này… Tết rồi có người về thăm quê miền Tây, khi trở lại Mỹ buồn giọng kể anh nghe, “Cá chim miệt đó đã hết trọi hết trơn, đã tuyệt giống lâu rồi!” Luỵ rót tí rượu mùi. Cầm ly rượu đứng tựa cửa nhìn ra cõi mênh mông thơm buồn, bất giác anh buột miệng ngâm khẽ: Về chào nhau năm mới Khi tình đã cũ rồi Ngập ngừng nâng ly rượu Thấy bóng hoa đào rơi (*) * Tình đã trở ra đứng sau lưng chồng. Nàng thốt cười, hơi gằn: “Bao giờ anh mới để cho anh được thư thả tâm hồn?” Chẳng quay lại, Luỵ nói: “Quen tai biến mất rồi, từ ấu thơ.” Rồi anh trao chiếc ly không cho vợ, thấy trong bụng nôn nao, cái nôn nao nhè nhẹ gần với sự bồn chồn, luống cuống của kẻ lỡ muộn một chuyến tàu, hụt một cuộc hẹn. Anh thầm trách sao không sửa soạn trong ngoài hơn chút nữa, hăm hở hơn chút nữa để cùng vợ đón một mùa xuân mà nó vừa nghiêm chỉnh gửi anh một tín hiệu. Bất giác anh thấy áy náy. Anh dặn lòng nhất định mình phải thay đổi một thái độ. Từ phút này anh sẽ sống lại trong sự cảm kích một miếng ăn ngon, một câu chuyện vui, một hạnh phúc đang có thật. Anh sẽ lập lại với vợ câu tình tứ ỡm ờ ngày cũ “Thưởng xuân tí nhá?” nhưng rồi lại ngập ngừng. Ngộ nhỡ đôi má Tình không còn rực lên một màu hoa đào thì sao, và tai anh không còn được nghe mấy lời thầm thì âu yếm “Có khoẻ không đấy, trong người có khoẻ thực không đấy,” thì sao? Luỵ ấm giọng bảo vợ, “Dọn cơm ra ăn ngoài này đi. Mình vừa ăn vừa chờ con robin trở lại.” * Cơm xong. Một bữa cơm trưa bên thềm xuân không ngờ lại có sức kéo mỗi người đi về một ngả hồi tưởng riêng tư xa nhau đến thế. Rồi Tình dọn bát đĩa vào trong. Luỵ ngồi lại một mình. Khi nhìn ra cánh đồng cỏ xanh bóp bóp đôi chân, lần nữa anh lại thấy lòng oải ra. Anh thấy mình kiệt mất rồi cho một cái gì tươi; ghê hơn, cũ mất rồi cho một cái gì mới. Anh thấy như anh không còn vừa cho bất cứ gì ở ngày tới, ở mùa tới, ở thế kỷ tới. Lần này thì sự bồn chồn, luống cuống như tụt tay, không chỗ bấu víu và rơi hết cả vào nỗi ngậm ngùi. Luỵ trổi dậy bước vào nhà. Chồng sách bị đụng đổ xuống. Những cánh hoa đào bị khuấy động bay tan tác bên thềm. Từ trong bếp Tình lần nữa reo qua cửa sổ, “Đó, nó đó, nó trở lại đó!” Luỵ ngoái đầu nhìn lại cánh rừng. Con robin không vẽ đường vòng cung nữa mà lần này nó vẽ một đường thẳng như mũi tên bay vút vào khu rừng không tỏ. Bước qua khung cửa Luỵ cúi đầu nhủ thầm: Thôi, thế là nó không trở lại nữa rồi, mãi mãi./. ___ (*) thơ Ngữ An. Glendale 9-1999 H.T.S. |
-
Người phụ trách Văn Việt:
Trịnh Y Thư
Emails:
Văn:
Thơ:
Nghiên cứu – Phê bình:
Vấn đề hôm nay:
-
DANH NGÔN
-
Viết là một hình thức trị liệu; đôi khi tôi tự hỏi làm thế nào tất cả những người không viết, sáng tác hoặc vẽ có thể thoát khỏi sự điên rồ, u sầu, hoảng loạn và sợ hãi vốn có trong thân phận con người.
-
Writing is a form of therapy; sometimes I wonder how all those who do not write, compose, or paint can manage to escape the madness, melancholia, the panic and fear which is inherent in a human situation.
-
(Graham Greene, Ways of Escape, 1980)
-
Viết, tôi nghĩ, không tách biệt với sống. Viết là một dạng sống kép. Nhà văn trải nghiệm mọi thứ hai lần. Một lần trong thực tại và một lần trong tấm gương luôn chờ đợi trước hoặc sau.
-
Writing, I think, is not apart from living. Writing is a kind of double living. The writer experiences everything twice. Once in reality and once in that mirror which waits always before or behind.
-
(Catherine Drinker Bowen, The Atlantic, số tháng 12, 1957)
-
Tôi có thể viết những thứ rác rưởi, nhưng văn chương rác rưởi thì người ta bao giờ cũng có thể sửa. Chứ một trang trống thì đành thua.
-
I may write garbage, but you can always edit garbage. You can't edit a blank page.
-
(Jodi Picoult, npr ngày 22.11.2006)
-
Tôi chưa bao giờ bắt đầu một bài thơ mà tôi biết trước kết thúc. Viết… là khám phá.
-
I have never started a poem yet whose end I knew. Writing... is discovering.
-
(Robert Frost, Selected poems, ed. 1963)
-
Nếu có một cuốn sách bạn muốn đọc nhưng nó chưa được viết thì bạn phải viết đi.
-
If there's a book that you want to read, but it hasn't been written yet, then you must write it.
-
(Toni Morrison, bài nói tại Hội đồng Nghệ thuật Ohio 1981)
-
Cứ viết đi, bất kể điều gì. Vòi mở thì nước mới chảy.
-
Start writing, no matter what. The water does not flow until the faucet is turned on.
-
(Louis L’Amour, Education of a Wandering Man, 2008)
-
Bài viết mới
- Ghi chép của Nguyễn Phương Mai sau gần 4 tháng sống tại Ukraine, Nga và một số nước trong vùng đệm của hai bên chiến tuyến (kỳ 1) 21 Tháng Mười Hai, 2025
- Đọc Tuyển tập Trịnh Y Thư: Theo Dấu Thư Hương 2 21 Tháng Mười Hai, 2025
- Rằm tháng bảy (2) 21 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Trần Hoàng Phố 21 Tháng Mười Hai, 2025
- Con người, cuối cùng đều phải làm bạn với cô đơn 20 Tháng Mười Hai, 2025
- Con đường phải tránh! 20 Tháng Mười Hai, 2025
- Bức thư chia tay của nhà báo Tô Hòa (viết nhân vĩnh biệt chị Ngọc Lan) 20 Tháng Mười Hai, 2025
- Taxi đêm ở Tokyo 20 Tháng Mười Hai, 2025
- Rằm tháng bảy (1) 20 Tháng Mười Hai, 2025
- Nữ hoạ sĩ Kim Chi – Triển lãm tranh sơn dầu cá nhân lần thứ 7 “No Stopping 2” – 20 năm đến với nghệ thuật 20 Tháng Mười Hai, 2025
- Chọn lọc gen và ảo tưởng về tinh hoa 19 Tháng Mười Hai, 2025
- “Nỗi buồn chiến tranh”: Ai hiếp Phương? 19 Tháng Mười Hai, 2025
- Tiến sĩ ca 19 Tháng Mười Hai, 2025
- Chu Hồng Tiến và 29 bài thơ cuối 19 Tháng Mười Hai, 2025
- Có phải là như thế không? 19 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 8 – hết) 19 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Nguyễn Viện 19 Tháng Mười Hai, 2025
- Mùa nào thức nấy, có phải!?! (Về “Văn học Chấn thương”) 18 Tháng Mười Hai, 2025
- Sự ồn ào quanh Nỗi buồn chiến tranh và thứ đứng sau nó 18 Tháng Mười Hai, 2025
- Tôi nghe nhạc Từ Công Phụng 18 Tháng Mười Hai, 2025
- Người xé mặt nạ 18 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 7) 18 Tháng Mười Hai, 2025
- Tiệm cận sự thật và lật sử 17 Tháng Mười Hai, 2025
- Tuổi thơ và con sông Tonlé Sap trên Xứ Chùa Tháp 2/3 thế kỷ trước 17 Tháng Mười Hai, 2025
- Song Lang 17 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 6) 17 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Lê An Thế 17 Tháng Mười Hai, 2025
- Người buôn đồ cổ 16 Tháng Mười Hai, 2025
- Nỗi buồn của hận thù còn lớn hơn NỖI BUỒN CHIẾN TRANH 16 Tháng Mười Hai, 2025
- “Nỗi buồn chiến tranh” – Bản kinh thế tục phơi bày vô minh 16 Tháng Mười Hai, 2025
- Những nhân vật vắng mặt trong QUÁN KỲ NAM 16 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 5) 16 Tháng Mười Hai, 2025
- Văn học có cần phải “đẹp”: Nhìn từ “Báu vật của đời”? 15 Tháng Mười Hai, 2025
- Sartre đã biện hộ cho trí thức như thế nào? 15 Tháng Mười Hai, 2025
- Khủng hoảng tác giả và sự trỗi dậy của độc giả trí tuệ nhân tạo 15 Tháng Mười Hai, 2025
- Bài nói chuyện của Nguyễn Thị Khánh Minh trong buổi Ra Mắt Sách “Theo Dấu Thư Hương” tập 2 của nhà văn Trịnh Y Thư 15 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 4) 15 Tháng Mười Hai, 2025
- Gánh hát quê đã cũ và những ngụm nước bọt đang phun 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Cập nhật tiến độ kênh đào Funan Techo từ tháng 05.2023 tới tháng 12.2025 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Thăm một bảo tàng hòa bình ở Nhật 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Phát biểu nhân dịp giới thiệu cuốn Theo Dấu Thư Hương II của Trịnh Y Thư 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Nỗi buồn chiến tranh, và 4 thập kỷ dư luận 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Bùi Chát & Cụ thể trừu tượng 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Đặng Tiến (Thái Nguyên) 14 Tháng Mười Hai, 2025
- Từ một chiếc lồng nghĩ về “Nỗi buồn chiến tranh” 13 Tháng Mười Hai, 2025
- Bộ sưu tập các tác phẩm Hán văn của tủ sách Hoàng Xuân Hãn được đưa vào thư viện của Viện Đông Á (IAO, Lyon) 13 Tháng Mười Hai, 2025
- Năng lượng một con đường – Đọc hồi ký Bùi Mai Hạnh 13 Tháng Mười Hai, 2025
- Giám tuyển: Nghề kiến tạo tri thức và phẩm giá bị hiểu sai 13 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 3) 13 Tháng Mười Hai, 2025
- Những chuyến đi xa 13 Tháng Mười Hai, 2025
- Chiến tranh không chỉ có một giọng kể 12 Tháng Mười Hai, 2025
- Một nan đề thực tiễn 12 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 2) 12 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Nguyễn Quốc Chánh 12 Tháng Mười Hai, 2025
- Văn chương và phản-văn-chương 11 Tháng Mười Hai, 2025
- Nghĩ dưới cỏ 11 Tháng Mười Hai, 2025
- Diễn văn Nobel Văn học của László Krasznahorkai 11 Tháng Mười Hai, 2025
- Vì sao nhà văn Nga-Xô viết Alexander Fadeev tự sát? 11 Tháng Mười Hai, 2025
- Anne Cheng nhận diện và gọi tên những thực tại Trung Quốc 11 Tháng Mười Hai, 2025
- Tiểu thuyết ‘Tắt đèn’ bị… thu hồi 11 Tháng Mười Hai, 2025
- Dư luận – phê bình trong những năm 1990 về tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (kỳ 1) 11 Tháng Mười Hai, 2025
- Đừng dùng ký ức cá nhân để kết tội một tác phẩm văn học 10 Tháng Mười Hai, 2025
- Ông Hạo – một ánh sáng lụi tàn 10 Tháng Mười Hai, 2025
- Điểm mù tập thể trong quan hệ sáng tạo giữa họa sĩ, giám tuyển và phê bình tại Việt Nam 10 Tháng Mười Hai, 2025
- Sự thách đố của Cái Ác 10 Tháng Mười Hai, 2025
- SỰ SÁM HỐI với LINH MỤC và VỚI CÔNG CHÚNG… 10 Tháng Mười Hai, 2025
- Nguyễn Huy Lượng bình văn Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du 10 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Bùi Vĩnh Phúc 10 Tháng Mười Hai, 2025
- “Nỗi buồn chiến tranh” và hiện tượng thù ghét văn chương 9 Tháng Mười Hai, 2025
- QUÁN KỲ NAM – Bến duyên giang đầu mây che kín một niềm đau 9 Tháng Mười Hai, 2025
- Portrait of a Lady on Fire (Chân dung thiếu nữ trong lửa) – Càng xem càng thấy hay 9 Tháng Mười Hai, 2025
- Lẫn lộn (‘ngọng’) n – l qua lăng kính tiếng Việt từ TK 17 và mở rộng (phần 32C) 9 Tháng Mười Hai, 2025
- Hậu báo “Văn nghệ” và “Nỗi buồn chiến tranh” (kỳ 3) 8 Tháng Mười Hai, 2025
- Nỗi buồn chiến tranh và một công chúng văn chương 8 Tháng Mười Hai, 2025
- Vị khách 8 Tháng Mười Hai, 2025
- Collingwood và nỗ lực cứu chuộc nghệ thuật khỏi sự hời hợt của thời đại 8 Tháng Mười Hai, 2025
- Vấn đề sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để dịch tác phẩm văn học (2) 8 Tháng Mười Hai, 2025
- Nhà văn Bảo Ninh: “Sợ và né thì không viết được” 7 Tháng Mười Hai, 2025
- Quán Kỳ Nam – Sài Gòn một thời không gọi tên 7 Tháng Mười Hai, 2025
- Bến lở (kỳ 7 – hết) 7 Tháng Mười Hai, 2025
- Vấn đề sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để dịch tác phẩm văn học (1) 7 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Quảng Tánh Trần Cầm 7 Tháng Mười Hai, 2025
- Vinh danh tác phẩm – Có nên quốc doanh hoá sáng tạo văn chương và nghệ thuật? 6 Tháng Mười Hai, 2025
- Không gian nghệ thuật kỳ lạ của một hoạ sĩ không chỉ cầm cọ 6 Tháng Mười Hai, 2025
- Vương Gia Vệ và “Tâm trạng khi yêu” 6 Tháng Mười Hai, 2025
- Cành xuân khiết 6 Tháng Mười Hai, 2025
- Love without Sex – Những chuyện tình không xác thịt 5 Tháng Mười Hai, 2025
- Chính quyền Iran kết án vắng mặt đạo diễn Jafar Panahi một năm tù 5 Tháng Mười Hai, 2025
- Trần Mộng Tú, một dòng thơ tuôn chảy ngoài quê hương 5 Tháng Mười Hai, 2025
- Thơ Dương Thắng 5 Tháng Mười Hai, 2025
- THÔNG ĐIỆP THÁNG 12: Đến với “Nước Đức, người trẻ và di sản”, hãy cởi mở, hãy tư duy phản biện 5 Tháng Mười Hai, 2025
- Tôi nhớ một người phía sau Bảo Ninh 4 Tháng Mười Hai, 2025
- Giữ tượng đài hay giữ sự thật? Câu chuyện “Nỗi buồn chiến tranh” 4 Tháng Mười Hai, 2025
- Nỗi buồn chiến tranh 4 Tháng Mười Hai, 2025
- Nguyễn Duy viết về cú cúi đầu của Bảo Ninh 4 Tháng Mười Hai, 2025
- “Kỉ niệm nào ghi dấu trên tay”: Tiễn biệt một lãng tử âm nhạc 4 Tháng Mười Hai, 2025
- Đôi lời về phim “Quán Kỳ Nam” 4 Tháng Mười Hai, 2025
- Bến lở (kỳ 6) 4 Tháng Mười Hai, 2025
- Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” nhìn từ Mỹ 3 Tháng Mười Hai, 2025
- Từ nỗi buồn Bảo Ninh đến Nỗi buồn chiến tranh 3 Tháng Mười Hai, 2025
Danh sách liên kết