Một chút tri kỷ muộn màng

Nguyễn Tường Thiết

“Truyện của Nguyễn Tường Thiết rất gần gũi với tôi. Khi đọc chúng tôi thấy cảm động một cách tin cậy và có nhiều mối đồng cảm với tác giả. Có thể chúng tôi có nhiều mẫu số chung với nhau trong thời trẻ tuổi của chúng tôi, mặc dù anh Thiết và tôi mãi đến… tuổi già mới quen nhau ở Hoa Kỳ. Một trong các mẫu số chung đó có thể là Tự Lực Văn Đoàn và nhà văn Nhất Linh, có thể là tình hình chính trị tại Việt Nam khi chúng tôi vừa bước vào tuổi thanh niên. Đó là những chuyện đã xa lắm rồi. Bây giờ chúng tôi bắt đầu bước vào tuổi già, anh Thiết lại bắt đầu viết hăng, tôi chỉ biết gửi gắm đôi nét của lòng mình vào tác phẩm của anh, gọi là đánh dấu một chút tri kỷ muộn màng…”

Trên đây là đoạn kết Bài Tựa của Phạm Phú Minh viết cho tập truyện Mùa Hạ Năm Ấy của tôi xuất bản năm 2008.

*

Anh Phạm Phú Minh ơi, câu kết của anh “đánh dấu một chút tri kỷ muộn màng cũng là nội dung bài viết tôi dành riêng cho anh hôm nay đây.

Như anh Minh nói chúng tôi quen biết nhau khá muộn khi cả hai chúng tôi đều đã bước qua tuổi 60. Do duyên văn nghệ chúng tôi quen nhau đúng 20 năm trước. Năm 2002, anh Minh lúc ấy là chủ bút tờ Thế Kỷ 21 thực hiện ở Nam California một số báo Tưởng Niệm Nhất Linh nhân ngày 7 tháng 7. Cùng thời gian ấy ở Seattle tôi đánh máy sửa soạn tái bản tác phẩm Xóm Cầu Mới của thân phụ tôi. Để lần tái bản này thêm trang trọng tôi gửi bản sao một số trang bản thảo của ông Cụ tôi cho nhà văn Võ Phiến để nhờ anh viết Lời Bạt cho cuốn sách này. Anh Võ Phiến gửi tôi bài viết “Đọc bản thảo của Nhất Linh”. Cùng lúc ấy anh Phạm Phú Minh cũng xin anh Võ Phiến một bài để đi trong số Tưởng Niệm. Anh Võ Phiến cho anh Minh hay anh vừa viết xong một bài mới về Nhất Linh nhưng đã gửi bài ấy cho tôi rồi, nay nếu anh Minh muốn đăng bài ấy trên Thế Kỷ 21 thì anh nên “thương lượng với anh Thiết”. Thế là do môi giới của nhà văn Võ Phiến anh Minh và tôi quen nhau từ đó.

Sau này xem lại một tấm ảnh cũ tôi tình cờ khám phá ra rằng anh Minh và tôi đã gặp nhau từ năm 1999 nghĩa là từ ba năm trước đó nhưng cả hai đều không biết là đã gặp nhau. Năm đó như mọi năm tôi xuống Nam California ăn Tết Kỷ Mão. Người anh họ tôi Nguyễn Tường Quý dẫn tôi đến trụ sở đài phát thanh VNCR ở Garden Grove và nói với tôi là nhà báo Lê Đình Điểu đang lâm trọng bệnh, mọi người đến trụ sở này vào cái Tết Kỷ Mão ấy – cái Tết sau cùng của thế kỷ 20 – đều ngầm ý đến để gặp anh Điểu lần cuối. Sau khi vào trong thăm anh Điểu mọi người ra đứng trò chuyện ăn uống trên vỉa hè bên ngoài trụ sở. Trong một bức ảnh sáu người do anh Quý chụp tôi đứng giữa anh Phạm Phú Minh và anh Nguyễn Mộng Giác nhưng lúc ấy vì không được giới thiệu tôi không biết người đứng bên trái tôi là ai. Mặc dù vậy cái dáng cao ráo và vẻ mặt điềm tĩnh trí thức của người không quen ấy đã gây ngay trong tôi ấn tượng đầy thiện cảm về người mà sau này trở thành bạn tri kỷ của tôi.

clip_image002

Từ phải: Phạm Phú Minh, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Mộng Giác, Lê Văn Ba, Ngô Mạnh Thu, Phạm Quốc Bảo (Garden Grove, Tết Kỷ Mão 1999)

Nếu tin vào những chuyện linh thiêng là có thật ở trên đời thì có thể nghĩ rằng mối tri kỷ ngày nay giữa hai chúng tôi là tiếp nối từ một tình bạn đã nẩy nở từ một thủa rất xa xưa, non 150 năm trước, tận thời vua Tự Đức.

Số báo Tưởng Niệm Nhất Linh ngày 7-7-2002 có đăng bài Nắm cỏ đưa về tấc đất xưa của Phạm Phú Minh trong đó anh tiết lộ một chi tiết lý thú: họ Phạm Phú và họ Nguyễn Tường đã có một thời giao du mật thiết với nhau. Ông cố của anh Minh là Phạm Phú Thứ cùng làm quan triều Tự Đức với ông cố của tôi (tức ông nội của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam) là Nguyễn Tường Tiếp. Anh Minh kể: “Ngày nhỏ, mỗi lần về thăm nhà thờ họ của tôi – họ Phạm Phú ở làng Đông Bàn, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam – tôi thường được các bậc chú bác đọc và dịch cho nghe những câu liễn, câu đối, hoành phi trong nhà thờ. Tôi nhớ có một đôi liễn rất dài, bằng gỗ màu nâu chữ mạ vàng, nói là của ông Nguyễn Tường Tiếp tặng ông Phạm Phú Thứ… Sự giao du của các vị tiền bối khiến cho tôi cảm thấy như có một sự liên hệ tinh thần với họ Nguyễn Tường, mặc dù cho đến gần đây tôi chẳng mấy khi có dịp giao du thân thiết”.

Anh Minh ơi, tôi tin rằng chính cái “liên hệ tinh thần” anh nêu ra là nền móng sâu xa làm nên mối đồng cảm và tri kỷ giữa anh và tôi, như anh viết: “Thời tôi còn trẻ tuổi, ngoài việc đọc hết những tác phẩm của Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, tôi còn được biết một liên hệ trong gia tộc khiến tôi thấy những tác gỉa tài hoa của họ Nguyễn Tường một phần nào gần gũi với mình về phương diện quê hương bản quán.”

Vào năm 2002 một người quen trong họ tôi anh Chu Xuân Viên đến Seattle chơi. Nhân dịp này tôi kể cho anh Viên nghe là trong chuyến đi về Việt Nam của tôi năm trước tôi có ghé thăm nhà thơ Huy Cận ở Hà Nội và thuật lại với anh cuộc nói chuyện lý thú giữa tôi với nhà thơ. Anh Viên thích quá khuyên tôi nên viết thành một bài về cuộc gặp gỡ này vì theo anh đây là một tư liệu văn học quan trọng. Tôi nói tôi rất ngại viết về cuộc gặp này và nếu có viết chắc gì báo chí sẽ đăng. Tôi nói thế vì hồi đó vấn đề Việt Nam còn đang rất nhạy cảm đối với khá nhiều người ở hải ngoại. Nội chuyện về nước không thôi đã gây tranh cãi, huống hồ tìm gặp một người đã từng là Thứ trưởng Bộ Văn hoá của chế độ Cộng sản thì chắc chắn là “có vấn đề”. Anh Viên khuyên tôi: “Đừng ngại. Anh cứ viết đi. Viết xong gửi cho tập san Thế Kỷ 21. Chắc chắn họ sẽ đăng. Tôi theo dõi tập san này từ nhiều năm nay tôi biết, một tạp chí văn học rất đứng đắn”.

Thế là tôi viết. Để giảm bớt tầm quan trọng cuộc gặp gỡ Huy Cận tôi không viết cuộc gặp này như trọng tâm của bài viết mà chỉ đề cập đến nó như một trong những hoạt động của tôi trong chuyến hồi huơng trở về Việt Nam đầu tiên kể từ ngày xa quê năm 1975 của tôi. Bài viết mang tên Cây bàng lá đỏ được đăng tải trên Thế Kỷ 21 số báo Xuân Quý Mùi 2003. Ngay khi nhận được bài viết chủ bút Phạm Phú Minh đã gọi liền cho tôi. Với giọng phấn khởi anh khen bài viết của tôi. “Lối viết lạ”. Anh nói.

Cây bàng lá đỏ xuất hiện trên Thế Kỷ 21 năm 2003 gây tiếng vang trong giới cầm bút khiến tôi nhớ đến Niềm vui chết yểu bài viết đầu tiên của tôi xuất hiện trên báo Văn Học ở Sài Gòn năm 1964 cũng gây nên tiếng vang tương tự. Bốn mươi năm trước tôi còn trẻ, mặc dù được rất nhiều khuyến khích tôi không chọn đi vào con đường văn vì nhiều lý do cá nhân. Bốn mươi năm sau thì khác, tôi đã bước qua cái tuổi xấp xỉ về hưu, cái nợ cơm áo đã trả gần xong, nên sau Cây bàng lá đỏ tôi viết thường xuyên đều đặn.

Anh Minh là người đã đi song hành với tôi trong suốt 10 năm trời sau đó. Thời gian này tôi là người sáng tác, còn anh là nguời phổ biến những bài viết của tôi trên tạp chí Thế Kỷ 21. Những bài viết ấy sau này tôi tập họp lại xuất bản thành ba cuốn sách Nhất Linh Cha Tôi, Mùa Hạ Năm ẤyCăn Nhà An Đông của Mẹ Tôi. Với ba tác phẩm xuất bản ấy tôi được thiên hạ khoác lên vai hai chữ “nhà văn”.

Phải nói một cách thành thật là nếu không có anh Minh và báo Thế kỷ 21 thì chưa chắc tôi đã là nhà văn. Bản tính của tôi vốn lười lại thiếu chất đam mê viết lách mà theo tôi là yếu tố thiết yếu cho một nhà văn. Viết với tôi lại là một công việc khá nhọc nhằn đòi hỏi một sự cố gắng, nó dị ứng với cái tính lười cố hữu của tôi. Có anh Minh luôn luôn ở bên cạnh khích lệ như một người bạn tin cậy và đồng cảm khiến tôi vững tin ở mình và giúp tôi vượt những khó khăn. Cho nên bắt chước câu nói của người xưa: “Không có Nhất Linh thì đã không có Tú Mỡ”, tôi thường nói với bạn bè một cách thật lòng: “Không có anh Minh thì đã không có tôi nhà văn”.

Như đã nêu ở phần đầu bài viết này trong Lời Tựa cho cuốn sách Mùa Hạ Năm Ấy anh Phạm Phú Minh nhắc đến những “mẫu số chung” trong thời trẻ của chúng tôi, chủ yếu là về nhà văn Nhất Linh và tình hình chính trị ở Việt Nam khi chúng tôi vừa bước vào tuổi thanh niên.

Mặc dù hoàn toàn không quen biết nhau trong thời gian ở Việt Nam, nhưng sau này thân nhau, kể cho nhau nghe vể những mảnh đời cũ thời trẻ của mình, chúng tôi đều không khỏi ngạc nhiên khi thấy chúng tôi rất “gần” nhau đến độ như có thể “va” vào nhau mà không biết.

Chẳng hạn như có lần anh Minh nói thời trẻ anh đã từng gặp ông Cụ tôi trong một buổi họp tại một căn nhà của người chị dâu của anh ở gần Ngã Bảy số 652 đường Phan Thanh Giản Sài Gòn. Anh Minh kể: “Tôi có người anh rể tên là Trần Hoàng ở Quảng Ngãi, hoạt động theo hệ phái Nguyễn Tường Tam, thỉnh thoảng anh đi Sài Gòn có lẽ về việc đảng thì ghé căn nhà đó. Một ngày vào năm 1959 hay 60 tôi đang ngồi học trên gác thì thấy một nhóm gồm năm bảy người do anh Hoàng đưa lên gác, trong số đó tôi nhận ra ngay ông Cụ, mặc dù từ trước tôi chưa gặp lần nào. Tôi mang sách vở ra ngoài hiên, nhường phòng cho quí vị họp, độ nửa giờ sau, quí vị khách ra về.” Anh Minh đâu có ngờ rằng cũng chính tại căn nhà đó, căn gác đó, năm 1964, tức một năm sau ngày ông cụ tôi mất, anh họ tôi là LS Nguyễn Tường Bá đã dẫn tôi đến đó để gặp anh Trần Hoàng. Ít lâu sau anh Bá còn cử tôi đi ra Trung liên lạc với các đảng viên VNQDĐ, tôi đã ở nhà anh Trần Hoàng trong mấy ngày lưu lại Quảng Ngãi.

Cùng với cả ngàn sinh viên thời đó ngưỡng mộ nhà văn Nhất Linh anh Phạm Phú Minh cũng đi dự đám tang thân phụ tôi vào này 13 tháng 7 năm 1963. Năm ngoái trong lúc khoe anh Minh một số ảnh cũ do nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh chụp lúc hạ huyệt ở nghĩa trang Hạnh Thông Tây Gò Vấp anh Minh chỉ một người nhỏ xíu trong ảnh – người ấy đứng ở phía khá xa sau lưng nhà văn Nhật Tiến đang đọc điếu văn – và nói người đó chính là anh.

Nhưng cảm động nhất cho tôi là khi anh Minh kể câu chuyện trong thời gian 13 năm tù cải tạo anh đã để tâm suy nghĩ rất nhiều về con người và cuộc đời của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam và anh tự nguyện nếu trời cho mình sống đến ngày ra khỏi tù thì mình sẽ “phải làm một cái gì” cho nhân vật ấy.

Như một cái duyên thiêng liêng, lúc về già chúng tôi gặp nhau trở nên tri kỷ để cùng nhau thực hiện giấc mơ chung “làm một cái gì” cho nhân vật Nhất Linh nói riêng và cho Tự Lực Văn Đoàn nói chung để nhân đó khôi phục giá trị một nền văn hoá tinh hoa của dân tộc đã bị chế độ Cộng sản phủ nhận suốt 70 năm qua.

Anh Phạm Phú Minh là một người rất nặng lòng với nền văn hoá của nước Việt Nam. Theo tôi anh là một trong số rất ít người có công lớn nhất trong việc bảo tồn và phát huy nền văn hoá ấy ở hải ngoại. Anh lại là người đa tài, những hoạt động của anh bao trùm nhiều lãnh vực khác nhau và xem ra lãnh vực nào có anh nhúng tay vào đều rất thành công. Chả thế mà một người bạn ở cùng thành phố với tôi, nhà văn Lê Hữu, có lần ngỏ ý thắc mắc không biết gọi Minh là gì… anh là nhà văn, nhà báo, nhà tổ chức, nhà văn hoá, nhà điểm sách, nhà xuất bản… hay là “nhà” gì nữa…

Gần đây, trong một bức thư gửi cho một số người thân, cũng là gián tiếp trả lời thắc mắc của anh Lê Hữu, anh Minh viết: “Nhìn lại đời mình tôi thấy nghề chính của tôi là nghề làm báo, dù tôi đã học và tốt nghiệp Đại học Sư phạm tôi chẳng dạy học được bao nhiêu, những năng lực của tôi dồn hết vào nghề làm báo”.

Tôi đã nhìn thấy rất rõ “năng lực của anh dồn hết vào nghề làm báo” qua những số báo Thế Kỷ 21 mà anh đã thực hiện trong suốt 11 năm anh làm Chủ bút tờ báo này kể từ năm 1996 đến năm 2007. Theo tôi đây là thành tựu lớn nhất trong sự nghiệp của anh.

Nhà văn Trần Doãn Nho dường như cũng đồng ý với tôi về điểm này khi anh viết trong bài Trò chuyện với nhà văn Phạm Phú Minh đăng trên báo mạng Diễn Đàn Thế Kỷ ngày Chủ Nhật 16 tháng 10, 2016: [Trong dịp tìm lại báo cũ để nói chuyện với anh tôi tò mò đọc lại nhiều số Thế Kỷ 21 và với con mắt tương đối khách quan tôi đã gặp những số báo rất hay. Càng về sau hình như càng hay. Tôi bỗng nhớ đến lời Đỗ Quý Toàn nói hôm tôi tới thăm tháng 7/2016 vừa rồi: “Công lớn của ông Minh là thời gian làm báo Thế Kỷ 21 cho đến số cuối cùng”. Theo tôi đó là một cái nhìn sâu sắc và toàn diện].

Thân phụ tôi, nhà văn Nhất Linh, từ năm 1932 đến năm 1940 là người chủ trương báo Phong Hoá & Ngày Nay. Tôi tự hỏi có sự tương đồng nào để giải thích sự thành công của báo Phong Hoá & Ngày Nay và Thế Kỷ 21, hai tờ báo được thực hiện ở hai nơi cách xa nhau cả một đại dương về không gian và cách nhau cả gần một thế kỷ về thời gian.

Theo tôi sự tương đồng làm nên thành công của hai tờ báo tạo nên bởi cá tính của hai người chủ trương mà tôi là người may mắn ở vị trí được trông thấy rõ cả hai. Trước hết tôi nhìn thấy ở bạn tôi những tính nết của ông cụ tôi, khiêm tốn, điềm tĩnh, hoà nhã… khiến người đối diện có cảm tình ngay với anh trong buổi đầu gặp gỡ; ngoài ra cũng như cha tôi anh có lối nói chuyện nhỏ nhẹ, từ tốn, anh thường lắng nghe hơn nói, và khi anh phát biểu, tiếng nói của anh rất có trọng lượng vì bao giờ cũng đi thẳng vào vấn đề và có chiều sâu.

Những đức tính đó khiến chủ bút báo Thế Kỷ 21 thu phục được cả một mạng lưới hùng hậu những người cộng tác ở khắp nơi trên thế giới, từ những nhà văn, những học giả tiếng tăm, cho đến rất nhiều những cây viết mới chưa thành danh, trong số có tôi. Đây là yếu tố hàng đầu khiến Thế Kỷ 21 là tờ báo giá trị bậc nhất ở hải ngoại, theo ý kiến tôi.

Cũng trong bài viết Trò chuyện với nhà văn Phạm Phú Minh của Trần Doãn Nho anh Minh kể lại: “Trong một chuyến đi du thuyền với bạn bè trên biển Baltic, tôi lên bến Oslo (Na Uy) được hai vợ chồng nhà văn Tâm Thanh – Khánh Hà đón ở bến tàu để đưa đi chơi. Buổi trưa về nhà anh chị thì được gặp các bạn văn cư ngụ ở Oslo Nguyễn Văn Thực, Trương Kim Anh, Song Chi cùng nhau ăn uống. Trong bữa ăn Nguyễn Văn Thực nói với mọi người một câu khiến tôi sửng sốt: “Không có anh Phạm Phú Minh thì không có Nguyễn Văn Thực”. Thực giải thích ngay: “Anh Minh đã đăng các sáng tác của tôi trên báo Thế Kỷ 21, nhà xuất bản Thế Kỷ của anh đã ấn hành hai cuốn sách của tôi”. Lúc đó tôi mới hiểu ảnh hưởng sự phổ biến bài vở của một tác giả trẻ trên Thế Kỷ 21 có tầm quan trọng như thế nào. Tối hôm đó trở lại tàu tôi kể lại với các bạn cùng đi câu nói của Nguyễn Văn Thực, thì anh Nguyễn Tường Thiết lại làm tôi sửng sốt hơn nữa khi thốt ra: “Tôi cũng thế, không có anh thì cũng không có tôi”. Các câu nói đó chỉ để khẳng định một điều: tờ báo Thế Kỷ 21 quả có ảnh hưởng khá quan trọng đối với uy tín của các cây bút cộng tác.”

Anh Minh ơi, anh nhắc đến chuyến du ngoạn Baltic khiến tôi nhớ tới ba chuyến đi cruise với anh. Chính do những chuyến đi du thuyền này mà tình bạn giữa anh và tôi trở thành khắng khít hơn. Phần lớn câu chuyện anh Minh kể tôi nêu trong bài viết này đều do anh tâm sự trên du thuyền trong những chuyến đi như thế. Hồi ấy khoảng hơn mười năm trước ba cặp chúng tôi gồm anh chị Minh, anh chị Đạt (anh Đạt là con trai họa sĩ Lemur Nguyễn Cát Tường) và vợ chồng tôi đáp du thuyền Princess đi hai chuyến Âu châu và một chuyến Nam Mỹ. Một bữa chúng tôi chụp chung một bức ảnh trước du thuyền của hãng Princess, anh Minh chỉ vào cái Logo của hãng in trên đuôi du thuyền với hàng chữ lớn ESCAPE COMPLETELY và nói: “Cái khẩu hiệu này của hãng Princess đánh đúng thị hiếu của khách hàng. Chỉ trên những chuyến đi như thế này thì đầu óc tôi mới thoát ly hoàn toàn khỏi những công việc tôi đang làm”.

Tháng trước trong lúc vợ chồng tôi xem lại cái album hình kỷ niệm ba chuyến đi cruise có một bức hình khiến tôi chú ý. Đó là bức ảnh anh Minh đang say tôi chụp khi anh đang uống thử rượu trong một vườn nho ở bên Ý. Khi say cái nhìn của anh Minh rất là… say đắm. Tôi chuyển bức hình này cho bạn bè miền Tây Bắc xem, anh Lê Hữu viết: “Đúng như anh Thiết nói, tôi chưa thấy ánh mắt nào đắm đuối, nồng nàn đến thế. Ánh mắt này mà chiếu tướng người đẹp nào thì chỉ có… mềm như cọng bún”.

Tôi gửi kèm đây bức ảnh “chân dung nhà văn Phạm Xuân Đài khi say” để tặng anh Minh.

clip_image004

Chân dung nhà văn Phạm Xuân Đài khi say.

*

Để kết thúc bài viết ghi dấu 20 năm quen biết với anh Phạm Phú Minh tôi tính dành những hàng chữ sau cùng để mô tả con người sâu bên trong cái “dáng dấp cao ráo và vẻ mặt trầm tĩnh trí thức” đã gây ấn tượng nơi tôi trong buổi đầu gặp gỡ. Đang loay hoay tìm chữ để mô tả tôi khám phá ra là đã có người thay tôi nói ra những điều tôi đang suy nghĩ. Người đó là cố giáo sư khả kính Nguyễn Khắc Hoạch, nguyên Khoa trưởng Đại học Văn Khoa Sài Gòn.

Trong phần đầu mở đầu Bài Tựa cho cuốn sách Hà Nội Trong Mắt Tôi của tác giả Phạm Xuân Đài, bút hiệu của anh Minh, vị giáo sư ấy, dưới bút hiệu Trần Hồng Châu, nhà thơ, đã viết những hàng sau đây:

Phạm Xuân Đài là một con người trầm lặng, khiêm cung, ăn nói nhỏ nhẹ. Hình như toàn sức sống của ông đều dồn vào nội tâm. Trầm lặng của một mẫu người hoạt động, không phải chỉ có cái vỏ ngoài hoạt động, mà là để thể hiện thực sự. Khiêm cung của con người ý thức được ranh giới giữa biết và không biết, giữa có thể và không có thể. Dấu ấn của một kinh nghiệm trí thức, một nếp sống văn hoá vững vàng…

Anh Minh ơi, trong khi đánh máy những dòng chữ trên tôi chợt ý thức là mình đã khởi đầu bài viết này của tôi bằng một đoạn bài Tựa cho tác phẩm Mùa Hạ Năm Ấy, và kết thúc bài viết này cũng bằng một đoạn bài Tựa cho cuốn sách Hà Nội Trong Mắt Tôi. Hai bài Tựa viết cho hai tác phẩm của anh và tôi đã khép lại ở đây “một chút tri kỷ muộn màng”.

Bây giờ là đang giữa mùa Thu của miền Tây Bắc. Khi tôi rời mắt khỏi máy vi tính nhìn ra ngoài cửa sổ thì cơn mưa đầu mùa làm ướt sũng những cánh lá phong ở sau vườn nhà đang chuyển sang màu vàng đỏ. Bất giác tôi nghĩ đến Đôi Bạn:

– Trời muốn trở rét…

Comments are closed.