Tiếng vọng từ Chernobyl (kỳ 2)

Svetlana Alexievich

T. Vấn chuyển ngữ

clip_image002

clip_image004

Tranh Bìa :

Tiếng Vọng từ Chernobyl –Mai Tâm

Trình bày Bìa: T.Vấn

Svetlana Alexievich

Tiếng Vọng từ Chernobyl

Chuyển ngữ : T.Vấn

Tủ sách T.Vấn & Bạn Hữu

Ấn bản điện tử

2016

Mục Lục

Lời Tựa bản Việt Ngữ 001

Lời Tựa bản Anh Ngữ 015

Chú Thích về Lịch Sử 024

Mở Đầu – Tiếng lòng

của một mảnh hồn cô độc 029

Phần Một

Vùng Đất của Người Chết

Độc thoại về lý do tại sao

chúng ta vẫn nhớ 059

Độc thoại về những gì có thể nói

với người Sống và người Chết 063

Độc thoại về cả một cuộc đời

được ghi lại trên cánh cửa 074

Độc thoại về những người đã trở về 079

Độc Thoại về hình dạng chất

phóng xạ như thế nào 099

Độc Thoại về bài hát không có lời 105

Ba độc thoại về một miền quê hương 107

Độc thoại về tại sao mà một người

chỉ Thông Minh và Tinh Tế trong sự

Độc Ác 123

Dàn Đồng Ca Những Người Lính 128

Phần Hai

Mảnh đất của người sống

Độc Thoại về những lời dự báo cũ 158

Độc Thoại về hình ảnh một đêm trăng 165

Độc Thoại về một người mỗi khi thấy

Chúa bị ngã thì răng lại nhức 168

Ba Độc Thoại về một viên đạn độc nhất 179

Độc Thoại về tại sao chúng ta không thể

sống thiếu Chekhov và Tolstoy 192

Độc Thoại về những cuốn phim chiến tranh 201

Tiếng kêu trầm thống 218

Độc Thoại về một tân quốc gia 220

Độc Thoại khi viết về Chernobyl 234

Độc Thoại về dối trá và chân thực 245

Dàn Đồng Ca Nhân dân 262

Phần Ba

Sững Sờ Vì Sự Buồn Bã

Độc Thoại về điều mà chúng ta đã không

nhận ra : Cái chết có thể rất đẹp 280

Độc Thoại về cái xẻng và hạt nguyên tử 286

Độc Thoại về việc đo mức độ nhiễm xạ 299

Độc Thoại về tại sao mà những điều

đáng sợ trong đời sống cứ xẩy ra

một cách lặng lẽ và tự nhiên như thế 303

Độc Thoại về những câu trả lời 315

Độc Thoại về những hồi ức 321

Độc Thoại về tình yêu môn Vật Lý học 326

Độc Thoại về miếng xúc xích đắt tiền 336

Độc Thoại về Tự Do và ước mơ

một cái chết bình thường 341

Độc Thoại về cái bóng của thần chết 351

Độc Thoại về một đứa trẻ bị thương tật 360

Độc Thoại về sách lược chính trị 364

Độc Thoại của một kẻ bênh vực

chính quyền Xô Viết 374

Độc Thoại về những bản hướng dẫn 377

Độc Thoại về quyền lực vô hạn của

một người áp đặt lên người khác 383

Độc Thoại về tại sao chúng tôi

yêu Chernobyl 396

Dàn Đồng Ca Trẻ Em 403

Tiếng lòng

của một mảnh hồn cô độc 410

Thay lời Kết 433

Bạt 436

(Bản chuyển ngữ tiếng Việt)

Svetlana Alexievich

Tiếng Vọng từ Chernobyl

clip_image006

Lời Tựa bản Việt Ngữ

Ngày 26 tháng 4 năm 1986, nhà máy phản ứng hạt nhân Chernobyl của Liên Xô nằm trên lãnh thổ nước cộng hoà Ukraine đã phát nổ, gây nên một thảm hoạ tệ hại nhất chưa từng có trong lịch sử nhân loại vì những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng đến ba phần tư lãnh thổ châu Âu sẽ còn kéo dài hàng thế kỷ.

Trước khi bị tan rã năm 1991, Liên Xô bao gồm 15 nước cộng hoà : Armenia, Azerbaijan, Belarus, Estonia, Georgia, Latvia, Kazhakhstan, Kyrgyzstan, Lithuania, Moldavia, Russia, Tajikistan, Turkmenistan, Ukraine và Uzbekistan. Trong số này, Nga (Russia) là nước lớn nhất và đông dân nhất, kế đó là Ukraine.

Nhà máy hạt nhân Chernobyl nằm trên khu vực cách thủ đô Kiev của Ukraine 130 Km về hướng Bắc và cách ranh giới phía nam của Belarus 20 Km. Rạng sáng ngày 26 tháng 4 năm 1986, một tiếng nổ kinh hoàng đã phá tan mái lò phản ứng số 4 (có tất cả 4 lò trong khu vực) và bụi phóng xạ đã từ đó bay ra làm ô nhiễm không khí (khu vực bị ô nhiễm được ước tính là khoảng ba phần tư châu Âu). Nguyên nhân của vụ nổ được cho là một lỗi lầm do thiết kế đã làm cho “máy phản ứng hạt nhân” bị nóng quá sức chịu đựng của nó (overheat) và phát nổ.

Thoạt đầu, con số thương vong vì vụ nổ do nhà cầm quyền Liên Xô đưa ra rất khiêm tốn : chỉ có 31 người chết. Và cũng theo ước tính ban đầu, khu vực bị nhiễm phóng xạ không quá chu vi 30 Km tính từ nhà máy số 4, bao gồm thành phố Pripyat, nơi cư ngụ của hàng ngàn công nhân làm việc ở nhà máy cùng với gia đình của họ.

Mới nhìn qua, tai nạn Chernobyl chẳng có ý nghĩa gì so với số người chết do động đất, bão táp hoặc về diện tích thiệt hại so với một cuộc cháy rừng. Nhưng thực tế cho thấy, thiệt hại về con người và môi trường vượt quá sự ước tính mà khoa học có thể phác hoạ được.

Cho đến nay, đã có 485 ngôi làng, thành phố bị xoá sổ, 2.1 triệu người sống trên những vùng đất bị nhiễm xạ rất nặng. Con số chính thức người chết vì phóng xạ chưa có cách gì kiểm chứng được, nhưng đã có hàng ngàn trẻ em sinh ra với những dị tật mà nguyên nhân là cha mẹ chúng đã bị nhiễm phóng xạ hoặc sống trong vùng bị nhiễm xạ. Hàng chục ngàn người khác vẫn còn mang trên người những chứng bệnh cả trên thể xác lẫn tinh thần không thể chữa trị.

Con số thiệt hại to lớn ấy còn có nguyên nhân đến từ cung cách đối phó với vụ nổ, một cung cách rất điển hình của những nhà nước cộng sản. Họ tìm cách che giấu tin tức, hoặc làm giảm nhẹ tầm thiệt hại, không cho thế giới bên ngoài và chính công dân của mình biết rõ sự thực về điều gì đã và đang xẩy ra. Ngay cả cư dân của thành phố Pripyat, nơi nhà máy phát nổ, cũng bị chính quyền dấu diếm không cho biết rõ nguyên nhân và hậu quả không thể tránh khỏi. Vì thế, đội giải cứu được gởi đến nhà máy với những trang thiết bị thật thô sơ, không được bảo vệ cho chính người đến giải cứu nạn nhân vụ nổ. Cư dân của khu vực xẩy ra vụ nổ mãi đến gần 40 tiếng đồng hồ sau mới được lệnh chính quyền di tản. Vào thời điểm này, rất nhiều người đã bị nhiễm độc phóng xạ ở những mức độ khác nhau.

Do cách đối phó vô trách nhiệm ấy, các biện pháp bảo vệ an toàn công cộng đã không được thực hiện kịp thời và đúng mức. Những nghiên cứu y khoa hiện nay đã phát hiện ra sự tương quan về con số người mắc bệnh ung thư ngày càng gia tăng ở những khu vực bị ô nhiễm, đặc biệt là ở vùng đất gồm 3 nước : Nga, Ukraine và Belarus. Theo ước tính, hậu quả nghiêm trọng về môi trường và sức khoẻ con người ở khu vực này còn kéo dài cả hàng thế kỷ.

Một hậu quả khác không thể không nhắc tới là những chấn thương tâm lý nặng nề cho người dân khu vực nhiễm xạ. Một chứng bệnh hỗn loạn tâm lý có tên Hội chứng Chernobyl (Chernobyl Syndrome) thường thấy ở những người bị ám ảnh, sợ hãi bởi sự dấu diếm, lừa dối, che đậy của nhà cầm quyền qua vụ nổ nhà máy hạt nhân. Hội chứng này không phải là hậu quả của vụ nổ nhà máy, mà chính là kết quả không thể tránh khỏi của sự không lương thiện, vô trách nhiệm nói trên.

Tác phẩm “Tiếng vọng từ Chernobyl” của nhà văn đoạt giải thưởng văn chương Nobel năm 2015 Svetlana Alexievich là tác phẩm văn chương đầu tiên lấy chủ đề chính từ vụ nổ nhà máy hạt nhân Chernobyl. Tác phẩm là tổng hợp những câu chuyện kể của từng con người, trực tiếp hoặc gián tiếp là nạn nhân của vụ nổ, xa hơn nữa, là nạn nhân của chính cách đối phó với thảm hoạ của nhà cầm quyền. Mỗi câu chuyện bộc lộ sự đau khổ, sự mất mát, sự sợ hãi, nỗi giận dữ, cảm thức bất an mà mỗi người kể cùng với gia đình họ đã trải qua.

Để ghi lại bi kịch của từng nạn nhân nói trên , tác giả – vốn xuất thân là một nhà báo chuyên nghiệp – đã để ra thời gian 10 năm đi phỏng vấn khoảng năm trăm nạn nhân vụ nổ, từ những người dân thường, nhân viên cứu hoả cho đến những công nhân được giao phó nhiệm vụ dọn dẹp .

Do nội dung là những chứng từ trung thực, phản ánh mọi khía cạnh của thảm hoạ, từ bản thân vụ nổ, nguyên nhân, hậu quả cho đến cách đối phó trong lúc và sau vụ nổ của các giới chức trách nhiệm, nên tác phẩm đóng vai trò bản cáo trạng một chế độ chỉ biết lấy lừa bịp, dối trá làm phương châm hành xử. Chính vì lý do này mà tác giả của nó đã bị chính quyền độc tài Lukashenka của Belarus kết án và bị buộc phải sống lưu vong từ năm 2000 đến năm 2011.

Tác phẩm “Tiếng vọng từ Chernobyl” của Svetlana Alexievich đã góp phần quan trọng để Uỷ ban chấm giải Nobel Thuỵ Điển quyết định trao gỉai thưởng văn chương năm 2015 cho tác giả. Quả thật, như nhận định của uỷ ban chấm giải, những tác phẩm của bà là “một tượng đài cho sự thống khổ và lòng can đảm trong thời đại chúng ta.”.

Tiểu thuyết gia người Mỹ gốc Nga Keith Gessen, dịch giả bản Anh ngữ của “Tiếng vọng từ Chernobyl” (mà chúng tôi dựa vào để chuyển ngữ sang tiếng Việt), khi hay tin Svetlana Alexievich được trao giải văn chương Nobel 2015, đã bày tỏ ý kiến rằng, khi thế giới thực sự cảm thấy bực bội với nước Nga thì sự kiện một nhà văn có gốc gác từ đó được trao giải Nobel không nằm ngoài sự mong đợi của nhiều người. Nhất là đó lại là một nhà văn phản kháng đã từng chính thức lên tiếng phê phán chế độ (trong trường hợp Svetlana Alexievich là chế độ ở Belarus). Hành động này phải được hiểu là một sự “quở trách”(rebuke) gởi đến điện Kremlin.

Bằng hình thức để mỗi nạn nhân tự độc thoại về những suy nghĩ của mình với tư cách người trong cuộc, tác giả “Tiếng vọng từ Chernobyl” đã đưa người đọc len lỏi vào tận ngõ ngách tâm hồn mỗi người, cảm được nỗi đau mất con, mất chồng, mất người thân một cách trực tiếp không qua trung gian của ngôn từ văn vẻ, cường điệu, hiểu được nỗi giận dữ, sự sợ hãi mà mỗi người trong cuộc biểu lộ bằng hình thức đơn sơ nhất, giản dị nhất. Có thể nói, chất liệu làm nên “Tiếng vọng từ Chernobyl” là chất liệu ròng, rất ít có sự dụng công gọt dũa của tác giả. Nhìn từ góc độ “vị nhân sinh” trong quan niệm văn chương của tác giả, đây là một lựa chọn khôn ngoan vì nó gây hiệu quả cao nhất trong ý đồ tố cáo chế độ, cảnh tỉnh thế giới về một hiểm hoạ tương tự có thể xẩy ra ở bất cứ đâu trên thế giới.

Mặt khác, để giải thích cho phong cách viết của mình, trong bài phát biểu tại Đại Hội Văn Chương Quốc Tế tổ chức lần đầu tiên ở New York tháng 4 năm 2005, Svetlana Alexievich đã cho biết, ở những quốc gia Đông Âu, ngôn ngữ nói giữ vai trò rất quan trọng. Ngôn ngữ không chỉ được dùng để truyền đạt thông tin và sự kiện – mà quan trọng hơn nữa – nó phải nói lên được bản chất của đời sống và những bí nhiệm đến từ con người. Ngôn ngữ nói trên đường phố, trong đám đông, trong những sinh hoạt thường ngày giúp người ta hiểu được dễ dàng hơn đời sống cùng với những vui, buồn, sướng, khổ, giận dữ, sợ hãi, mà đã là con người, ai cũng đã từng trải qua, sống với, chịu đựng với, hân hoan với.

Vì thế, với Svetlana Alexievich, mỗi tác phẩm của bà có sự đóng góp của rất nhiều người khác nhau. Một người nói nửa trang, người kia nói vài dòng, người khác nữa có thể chỉ có một câu. Bà gọi đó là “tiểu thuyết của những tiếng nói” và tự cho mình chỉ là kẻ làm công việc đi nhặt những chất liệu tác phẩm của mình trong đám đông, ngoài đường phố, rồi đem về sắp xếp chúng lại. Những nhà văn trên thế giới, từ xưa tới nay, viết nên tác phẩm của mình bằng ngòi bút, còn Svetlana Alexievich khẳng định rằng mình viết bằng cái tai.

Tác giả bản Anh ngữ của tác phẩm là một nhà văn người Mỹ gốc Nga, nên chúng tôi suy đoán rằng khi chuyển ngữ tác phẩm từ nguyên bản tiếng Nga, ông đã cố bảo toàn “phong cách Slavic” mà “ngôn ngữ nói” của tác phẩm được tác giả sử dụng một cách đầy dụng ý.

Do vậy, khi làm công việc chuyển ngữ tác phẩm này, chúng tôi ý thức được rằng ngoài việc chuyển tải nội dung thực sự của từng câu nói, còn cần phải giữ được bản sắc “văn nói” của “phong cách Slavic” và đồng thời phải không được phép quên rằng đây là một bản văn tiếng Việt (dù là bản dịch từ một ngôn ngữ khác), trước hết nó phải mang phong cách Việt, từ câu chữ đến cách diễn đạt.

Ý định là như vậy, nhưng có làm được hay không, và làm được đến đâu lại là một chuyện khác. Nhưng dù sao cũng xin được kính cáo về thiện ý và cố gắng của người làm công việc chuyển ngữ tiếng Việt tác phẩm này.

Cuối cùng, chúng tôi quyết định dành thì giờ giới thiệu tác phẩm “Tiếng vọng từ Chernobyl” đến với độc giả tiếng Việt, không chỉ vì tác giả của nó vừa được trao giải thưởng Nobel về văn chương, – thành thực mà nói sự kiện này góp phần làm tăng uy tín tác giả và giá trị tác phẩm – mà còn vì tác giả của nó là một nhà văn phản kháng chế độ độc tài toàn trị ở nước mình. Đất nước Belasus với gần 9 triệu dân, đã trải qua thảm họa hạt nhân tồi tệ nhất lịch sử nhân lọai mà hậu quả của nó còn kéo dài nhiều năm về sau, đang chịu đựng một chế độ hà khắc của “nhà độc tài cuối cùng của châu Âu” Aleksandr Lukashenka từ năm 1994 ngay sau khi thóat ra khỏi được nhà nước cộng sản Liên Xô. Tất nhiên, sự đau khổ và sức chịu đựng của dân tộc Belarus quả là lớn lao, nhất là trong bối cảnh thế giới ở thế kỷ 21. Những nỗi thống khổ và sự can đảm đối phó với họan nạn của dân tộc Belarus đã được dựng tượng đài tôn vinh trong những tác phẩm văn chương của một người con ưu tú mà đất nước nhỏ bé này sản sinh được : Nhà văn Svetlana Alexievich. Việc Ủy Ban Giải Nobel Thụy Điển quyết định trao giải thưởng văn chương năm 2015 cho bà, không chỉ để vinh danh một tài năng văn học thế giới, mà còn gián tiếp – và quan trọng hơn – trân trọng những nỗi thống khổ mà dân tộc Belarus phải chịu đựng, đồng thời vinh danh lòng can đảm mà người dân nước này đang hàng ngày phải đối phó với chế độ độc đảng của Aleksandr Lukashenka, với hậu quả khôn lường của vụ nổ hạt nhân Chernobyl.

Đọc Svetlana Alexievich, không thể không liên tưởng đến số phận dân tộc Việt Nam mà nỗi thống khổ dân tộc chúng ta chịu đựng có thể lớn gấp nhiều lần nỗi thống khổ của dân tộc Belarus. Sau cuộc chiến tranh nồi da xáo thịt 30 năm, với hàng triệu người chết ở cả hai bên cuộc chiến, với một đất nước tan hoang vì bom đạn ngọai bang tàn phá, tưởng rằng khi tiếng súng chấm dứt cũng là khi những nỗi thống khổ của dân tộc bắt đầu từ từ kéo da non chờ ngày lành lặn mọi vết thương. Nhưng kẻ thắng trận với chế độ Cộng Sản hà khắc phi nhân đã đầy đọa cả dân tộc trong vũng bùn của hận thù, ngu dốt, nghèo đói, chia ly, đau khổ. Kết quả là thảm cảnh Thuyền Nhân kéo dài từ năm 1976 cho đến năm 2001 là năm Cao Úy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc chính thức ra lệnh đóng của các trại tiếp đón người tị nạn Đông Dương, với hàng triệu người ra khơi đi tìm tự do trên những chiếc tàu thuyền mong manh, lênh đênh trên biển từ tuần lễ này qua tuần lễ khác, làm mồi cho hải tặc, bão tố, đói khát. Cho đến nay, số người mất xác trên biển là bao nhiêu vẫn chưa có con số thống kê chính thức, nhưng con số hàng trăm ngàn người mất tích không phải là con số cường điệu. Kể cả người sống sót đến được các bến bờ tự do, cũng không phải là không mang chấn thương suốt cả cuộc đời còn lại của họ. Hình ảnh chính mình hay chứng kiến người thân bị hải tặc hãm hiếp, bị giết chết, những bào thai bất đắc dĩ mà hải tặc để lại trong bụng cô gái tội nghiệp, thảm cảnh phải xẻ thịt người chết để ăn, uống nước tiểu của chính mình cho đỡ khát v…v… và rất nhiều những câu chuyện thương tâm khác xẩy ra trên đường vượt biên, nếu tom góp lại, chắc cũng hãi hùng và thương tâm không kém những câu chuyện liên quan đến thảm họa Chernobyl mà nhà văn Belarus Alexievich ghi lại trong “Tiếng Vọng từ Chernobyl”, một trong những tác phẩm chính đưa bà đến Stockholm để nhận giải thưởng Nobel về văn chương.

Chúng tôi không thể không nhắc đến tập hồi ký “Hành trình biển Đông” của nhiều tác giả do Ngụy Vũ thực hiện gồm hai bộ với hàng trăm câu chuyện về thảm cảnh vượt biên mà nhà văn Giao Chỉ đã nhận xét “có nhiều chuyện bi thảm và ghê gớm đến nỗi tôi phải lướt qua mà không dám ngừng lại trên các dòng chữ tưởng chừng chan hòa máu và nước mắt . . . “(Hành trình biển Đông -Giao Chỉ).

So sánh về nội dung, “Tiếng Vọng từ Chernobyl” và “Hành trình biển Đông”, cùng là những câu chuyện được kể lại về những nỗi thống khổ vô hạn mà con người đã chịu đựng. Người kể cũng là những con người thực, những nhân chứng tại chỗ, đã sống sót, đã có cơ hội kể lại. Tính chất hãi hùng, bi thảm, ghê gớm hẳn cũng ngang nhau, tuy khó lòng so sánh vì hai hòan cảnh gây nên thảm kịch có khác nhau.

Về hình thức, các truyện kể trong “Hành trình biển Đông” là do chính người trong cuộc viết lại, không có bàn tay dụng công biên tập của người chuyên nghiệp. Ở “Tiếng Vọng từ Chernobyl”, có bàn tay sắp xếp của một nhà văn, hơn nữa, một nhà văn có tầm cỡ. Nhưng cũng khó lòng để nhìn thấy bàn tay dụng công của nhà văn đến mức độ nào và tác động của công việc ấy đến những câu chuyện kể.

Mục đích của việc lưu truyền những câu chuyện về thảm cảnh mà người này, người nọ, ở bất cứ nơi nào trên thế giới phải chịu đựng, chính là để đánh động lương tâm con người. Từ giây phút lương tâm mỗi người bị đánh động, hẳn sẽ có những người không chịu ngồi yên một khi nhìn thấy những nguy cơ khiến thảm kịch ấy có thể tái diễn.

Có lẽ nhà văn Svetlana Alexievich đã muốn xác định nhiệm vụ lớn nhất của một nhà văn khi phát biểu trong buổi họp báo tại Minsk sau khi được tin mình sẽ nhận giải Nobel văn chương 2015: Điều duy nhất làm tôi luôn nhức nhối là câu hỏi: tại sao chúng ta không học được điều gì từ những nỗi thống khổ mà chúng ta đang phải gánh chịu? Tại sao chúng ta không thể nói : tôi không muốn làm người nô lệ thêm một ngày nào nữa? Tại sao chúng ta cứ tiếp tục chịu thống khổ mà không hề phản kháng? Tại sao chúng ta cứ xem nó như là gánh nặng phải mang, là số phận phải cam chịu? Tôi không có câu trả lời. Nhưng tôi muốn những tác phẩm của mình gợi lên được những suy nghĩ từ người đọc, để từ đó, họ đi tìm câu trả lời cho chính mình.”( T.Vấn : Giải Nobel Văn Chương 2015 và sứ mạng nhà văn trong thời đại chúng ta ).

Chúng ta mỗi người sẽ suy nghĩ, sẽ tự tìm câu trả lời cho lương tâm của mình sau khi đọc xong “Hành trình Biển Đông”, “Tiếng Vọng từ Chernobyl” và những tác phẩm văn học nghệ thuật khác có cùng đề tài.

Thế giới đang phải đương đầu với làn sóng dân tỵ nạn từ Syria. Những thảm cảnh trên đường vượt biên, tị nạn của dân Syria chẳng xa lạ gì với người Việt Nam, dù là người Việt Nam chưa từng nếm mùi vượt biên. Hình ảnh đứa bé 3 tuổi người Syria nằm chết trên bãi biển được truyền đi tòan thế giới với những nỗi phẫn nộ vì người ta chưa bao giờ được nhìn thấy một đứa bé bị chết như thế. Nhà văn Khuất Đẩu, với sự nhạy bén của một người mà tác phẩm của mình luôn hướng về những nỗi đau khổ của dân tộc, đã nhanh nhẹn so sánh :

“ . . .Những năm ấy, trên các bãi biển Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippine… biết bao nhiêu xác những em bé miền nam Việt Nam đã phải trôi dạt như em bé Syria. Những xác trẻ thơ bụng ỏng xanh xao, áo quần rách rưới khiến người ta kinh hãi chứ không thương cảm.

Em bé Syria, dẫu sao em cũng được mặc quần áo đẹp, được mang giày chỉn chu chứ không đi chân đất. Em chết như nằm ngủ vì trước đó em không cùng cha mẹ trốn chui trốn nhủi, không phải nhịn đói nhịn khát, không kinh hoàng khi thấy bọn hải tặc hãm hiếp mẹ, cắt cổ cha trước khi ném em xuống biển.

Em bé Syria được ví như thiên thần, còn những em bé Việt Nam, giống như em bé châu Phi đói lã bên cạnh con diều hâu đang chờ xé xác. . . “ (Khuất Đẩu: TỪ HÌNH ẢNH EM BÉ SYRIA NGHĨ ĐẾN NHỮNG EM BÉ MIỀN NAM VIỆT NAM.)

Biết đâu, nhờ những em bé Việt Nam phơi xác trên những bãi biển vượt biên năm xưa mà ngày nay, dù chỉ được nghe nói đâu đó, lương tâm thế giới không thể ngồi yên khi nhìn những hình ảnh trẻ thơ như thế xẩy ra lần nữa, và vì vậy, hình ảnh em bé Syria đã làm họ phẫn nộ.

Mang trong lòng niềm hy vọng đó, chúng tôi gởi đến người đọc tiếng Việt bản chuyển ngữ tác phẩm “Tiếng Vọng từ Chernobyl”.

Để mỗi người đọc, sau khi đóng màn hình máy tính (hay gấp lại trang sách), sẽ nhớ đến những nỗi đau khổ của chính mình, của chính dân tộc mình, mà không thể ngồi yên vô cảm được nữa trước những điều ác, dù điều ác ấy đến từ một chế độ độc tài với đầy đủ quyền hành để đàn áp trong tay.

T.Vấn & Bạn Hữu

Keith Gessen

Lời Tựa của bản Anh Ngữ

clip_image008

(Keith Gessen 1975- )

Ngày 11 tháng 9 năm 2001, sau khi chiếc máy bay thứ nhất của bọn khủng bố đâm vào toà nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới (WTC), các tiền trạm y tế khẩn cấp đã được thiết lập ở nhiều nơi trong thành phố New York. Các bác sĩ, y tá hối hả đến bệnh viện tình nguyện nhận thêm ca trực phụ trội và rất nhiều người khác đến để sẵn sàng hiến máu. Đây là những cử chỉ hào phóng bầy tỏ thái độ sẵn sàng chia sẻ khi hoạn nạn. Điều đau lòng xẩy ra sau đó là những cử chỉ hào phóng đó và các trạm đón tiếp nạn nhân đã không còn cần thiết nữa. Có rất ít người sống sót sau khi toà tháp đôi WTC sụp đổ.

Sự thiệt hại khi nhà máy hạt nhân phát nổ gây nên hoả hoạn ở Chernobyl lại hoàn toàn ngược lại với tai nạn khủng bố ở WTC. Ban đầu, tiếng nổ ở Chernobyl chỉ làm chết một công nhân của nhà máy, Valeriy Khodomchuk, và trong mấy tuần lễ kế tiếp sau đó chỉ có chưa tới 30 công nhân và lính cứu hoả chết vì bị nhiễm phóng xạ nặng. Nhưng hàng chục ngàn người khác đã bị nhiễm độ phóng xạ rất cao – đây là một tai nạn mà – theo một cách nhìn khác – số người sống sót nhiều hơn người chết – và quyển sách này là để nói về họ.

Phần lớn những chất liệu sử dụng trong quyển sách có thể khiến người đọc nhăn mặt vì sự gớm ghiếc. Ở cuộc phỏng vấn đầu tiên, Lyudmilla Ignatenko, vợ một người lính cứu hoả mà đơn vị của anh ta có mặt tại hiện trường sớm nhất, nói về sự huỷ hoại trên lớp da của chồng trong tuần lễ trước khi anh ta qua đời. Lyudmilla đã mô tả một hình ảnh rất ghê sợ mà lẽ ra chúng ta sẽ không bao giờ phải chứng kiến. “Chỉ một nếp gấp trên tấm drap giường cũng đủ làm anh ấy rách da.” Cô kể : “Tôi phải cắt móng tay mình sâu đến độ cấn cả vào thịt bật máu để không vô tình làm chồng bị thương vì nó.”

Có những đọan phỏng vấn nghe xong không thể không thấy rợn người. Viktor Iosifovich Verzhikovskiy, hội trưởng hội những người thợ săn và ngư phủ thiện nguyện của thành phố Khoyniki, kể lại buổi gặp gỡ của anh ta với các viên chức đảng uỷ khu vực vài tháng sau vụ nổ. Họ bảo Viktor rằng, ở Khu Cấm, tên gọi được chính quyền Liên Xô đặt cho vùng đất nằm trong chu vi 30 Km của nhà máy hạt nhân Chernobyl, tuy người dân đã được di tản đi hết, nhưng vẫn còn lại súc vật nuôi trong nhà. Những con chó, mèo mà lông của chúng dính đầy bụi phóng xạ, hay đi lung tung ra khỏi Khu Cấm. Cánh thợ săn được lệnh phải tìm và bắn chết hết chúng không chừa con nào. Còn nhiều câu chuyện khác nữa được kể lại, đặc biệt là về nỗ lực “khử xạ” vùng đất nằm trong Khu Cấm – công việc đào đất thật sâu để chôn cây cối, nhà cửa đã bị nhiễm bụi độc – cũng mang màu sắc truyện của Gogol(1) : Những họat động bình thường của con người bỗng trở nên biến dạng một cách khủng khiếp.

Nhưng cuối cùng, chính ngay sự bình thường, đơn điệu trong những lời kể của nhân chứng đã viết nên một bản báo cáo mang tính nhân bản độc nhất. Arkady Filin, người bị cưỡng bách sung vào đội “Thanh Toán”, tức nhóm người làm công việc dọn dẹp, nói : “Tôi biết bà tò mò muốn được nghe về những gì đã xẩy ra. Những ai không có mặt ở đó thì luôn tò mò. Đó vẫn là thế giới của con người. Họ uống Vodka. Họ chơi bài, đi tìm gái.”. Hoặc, qua những lời của nhóm thợ săn: “Chiếc xe Jeep cán ngang qua con rùa, vậy mà vỏ nó không bị hề hấn gì. Tất nhiên, chỉ khi say chúng tôi mới làm như vậy.”. Ngay đến cả những trường hợp tuyệt vọng nhất cũng vẫn chỉ là một phần của “thế giới những con người”, với những ưu tư, lo lắng của con người. Chồng của Valentina Timofeevna Panasevich, một người ở trong toán dọn dẹp ở Chernobyl, sau khi được mãn nhiệm thì vài năm sau mang trong người căn bệnh ung thư. Khi biết mình không thể tiếp tục cuộc chiến không cân sức, anh dặn vợ: “Khi anh chết, bán chiếc xe với cái vỏ xe dự trữ đi. Nhớ đừng có lấy Tolik.” Tolik là em trai của anh ta. Nghe lời chồng, Valentina không tái hôn với Tolik.

*

Svetlana Alexievich thực hiện những cuộc phỏng vấn này năm 1996 – thời điểm mà tư tưởng chống cộng vẫn còn thịnh hành với vai trò là một chính kiến trong xã hội hậu Xô Viết. Sự thực hiển nhiên là, vụ nổ ở nhà máy phản ứng hạt nhân Chernobyl tuy chỉ là một tai nạn không ai cố ý làm cho nó xẩy ra, nhưng nhìn ở một khía cạnh khác, nó cũng là hậu quả không thể tránh khỏi của thái độ vô cảm đáng sợ trước an nguy của xã hội, sống chết mặc bay tiền thầy bỏ túi, cộng thêm sự lười biếng, thói bè phái cửa quyền. Giới văn học, khi bàn về thảm hoạ Chernobyl, hầu như hoàn toàn đồng ý với nhau rằng chính nhà cầm quyền Xô Viết phải là người đầu tiên chịu trách nhiệm về việc nhà máy hạt nhân vốn đã được thiết kế cẩu thả, lại còn bị giao phó cho những người không đủ khả năng chăm sóc, điều hành . Sau khi tai nạn xẩy ra, như lời chứng thực của những nạn nhân được phỏng vấn, lại dối trá, che đậy sự thực bằng cung cách đáng bị đem ra xét xử như những tên tội phạm. Ngay trong 10 ngày đầu tiên của vụ nổ, khi mà những hạt nhân vẫn còn đang cháy âm ỉ và phóng thích ra môi trường xung quanh lớp bụi phóng xạ độc hại, thì các giới chức trách nhiệm không ngừng lập đi lập lại rằng tình hình đã hòan tòan được kiểm sóat chặt chẽ. Một trong những quả phụ có chồng bị đưa đến làm công việc dọn dẹp ở Chernobyl nói với Svetlana Alexievich : “Nếu tôi biết trước thế nào chồng tôi cũng bị nhiễm bệnh vì bụi phóng xạ, tôi sẽ đóng chặt mọi cửa nẻo và khóa lại bằng tất cả những ổ khóa mà tôi có được.”. Chẳng may, không ai biết được số phận của mình đã được định đọat.

Tuy nhiên, tất cả những chứng từ này cũng làm rõ được một điều: không phải nhà cầm quyền Xô Viết cứ để mặc cho nhà máy Chernobyl cháy mà không làm gì hết. Đây là một điều đáng được chú ý. Một mặt, đó là sự bất lực, vô cảm và dối trá tòan diện.Mặt khác, những nỗ lực đến độ điên cuồng nhằm đối phó với hậu quả vụ nổ. Ngay trong tuần lễ sau đó, trong khi vẫn thẳng tay bác bỏ mọi nguồn tin về mức độ nghiêm trọng của sự việc với thế giới bên ngòai, nhà cầm quyền Xô Viết đã đưa hàng ngàn người đến điểm chết Chernobyl. Họ dùng trực thăng thả những bao đựng cát xuống hòng dập tắt đám cháy từ những lò phản ứng hạt nhân (Các phân tích sau này cho thấy việc làm này gây hại nhiều hơn lợi). Khi lửa tắt, họ leo lên mái nhà máy, dọn dẹp đống đổ nát chứa đầy chất phóng xạ. Máy móc họ mang theo đã bị chất phóng xạ làm cho trở nên vô dụng vì không họat động được. Còn con người thì phải mất hàng tuần hoặc hàng tháng sau mới bị gục ngã. Đến thời điểm này thì cái chết của con người rất đáng sợ.

Năm 1986, chính quyền Xô Viết ném những nhân viên cứu hộ không được huấn luyện kỹ lưỡng, không được trang bị những phương tiện bảo hộ cần thiết vào lò lửa hạt nhân Chernobyl cũng giống như năm 1941 họ ném những người lính chưa được huấn luyện, không được trang bị vũ khí đối diện với Wehrmacht (2), hy vọng rằng quân Đức sẽ phải ngừng tiến quân đủ lâu để có thì giờ bắn chết những người lính Liên Xô tội nghiệp này. Nhưng, như viên quản đốc viện bảo tàng Chernobyl đã giải thích một cách chính xác, nếu những cố gắng tuyệt vọng này không được thực hiện, thì hậu quả vụ nổ còn tệ hại hơn rất nhiều.

*

Ở Belarus, từ lúc những cuộc phỏng vấn này được thực hiện cho đến nay, hầu như mọi chuyện vẫn như cũ vì có rất ít những thay đổi. Thời điểm năm1996, Aleksandr Lukashenka (3) là nhân vật ít được biết đến trong số “hai nhà độc tài cuối cùng” của Châu Âu. Bây giờ thì Slobodan Milosevic(4) đang phải trả lời những tội ác của mình trước tòa án quốc tế The Hague, còn Lukashenko vẫn còn giữ vững địa vị. Ông ta đàn áp mọi nỗ lực nhằm đòi quyền tự do tư tưởng và các đối thủ chính trị của ông ta tiếp tục “biến mất”. Về vùng đất nhiễm xạ Chernobyl, ông ta khuyến khích những cuộc nghiên cứu có mục đích chứng minh rằng vùng đất này đang ngày một trở nên an tòan hơn và rằng những họat động nông nghiệp cần sớm được phục hồi. Năm 1999, nhà Vật Lý học Yuri Bandazhevsky, là bạn và là đồng nghiệp của Vasily Borisovich Nesterenko (Trả lời phỏng vấn ở phần III), tác giả bản báo cáo chỉ trích khuynh hướng coi nhẹ an tòan công cộng trong chính sách của chính quyền Belarus và tố cáo Belarus cố ý xuất khẩu những thực phẩm bị nhiễm xạ ra các thị trường ngòai nước. Đến nay, Bandazhexsky vẫn còn bị nhà cầm quyền giam giữ.

Keith Gessen (2005)

Chú Thích( của bản Việt Ngữ):

1. Nikolai Gogol (1809-1852)-nhà văn Nga, tác giả Dead Souls ( Những linh hồn chết)

2. Wehrmacht-Tên gọi lực lượng quân sự phối hợp của Đức Quốc Xã, bao gồm 3 binh chủng Hải, Lục và Không quân.

3. Aleksandr Lukashenka (1954- )- Cựu ngọai trưởng Mỹ, bà Condoleezze Rice, gọi Lukashenko là “nhà độc tài cuối cùng của châu Âu”.Tổng thống Belarus từ năm 1994 cho đến nay.

4. Slobodan Milosevic (1941-2006)-Tổng thống Serbia từ năm 1989 đến 1997 và từ năm 1997 đến năm 2000 là Tổng thống nước Cộng Hòa Nam Tư.Tháng 2 năm 2002, bị đưa ra tòa án quốc tế The Hague ở Hòa lan để xét xử về tội diệt chủng và các tội ác chiến tranh khác. Ngày 11 tháng 3 năm 2006, Milosevic chết vì bệnh tim trong lúc vẫn còn bị giam giữ trong nhà tù.

*về Keith Gessen :

Sinh năm 1975 tại Moscow trong một gia đình gốc Do Thái. Năm 1981, cùng với cha mẹ định cư tại Boston, tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ. Mẹ của ông là một nhà phê bình văn học và cha là chuyên viên nghiên cứu máy tính điện tử.

Gessen tốt nghiệp đại học Havard, ngành Sử và Văn chương. Thường xuyên viết bài điểm sách cho New York Magazine, cùng lúc, ông chuyên về nước Nga trong các bài vở viết cho The New Yorker, The Lodon Review of Book, The Atlantic và The New York Review of Book.

Ngòai bản chuyển ngữ sang tiếng Anh tác phẩm “Voices from Chernobyl” của nhà văn Belarus Svetlana Alexievich năm 2005, Gessen còn là tác giả tác phẩm tiểu thuyết “All the sad young literary men” xuất bản năm 2008, “Diary of a Very Bad Year: Confessions of an Anonymous Hedge Fund Manager”, một quyển sách nghiên cứu về cuộc khủng hỏang tài chánh, xuất bản năm 2010. . . .

Gessen hiện đang làm chủ bút một số các tạp chí văn học, chính trị, văn hóa định kỳ có tòa sọan đặt ở thành phố New York.

Chú Thích về Lịch Sử

clip_image010

(Toà nhà chứa lò phản ứng số 4. Hình chụp năm 2006, bao gồm cả lớp vỏ bọc được dùng để niêm kín lò phản ứng sau khi nổ)

Belarus không sở hữu một nhà máy năng lượng nguyên tử nào. Trong số những nhà máy nguyên tử vẫn còn họat động trong vùng lãnh thổ cũ của của Liên Xô, thì những nhà máy gần Belarus nhất là những nhà máy được Liên Xô thiết kế theo kiểu RMBK* đã lỗi thời và không an tòan. Ở về phía bắc Belarus là nhà máy Ignalinks, phía đông, nhà máy Smolenks và phía nam, nhà máy Chernobyl.

Ngày 26 tháng 4 năm 1986, lúc 1 giờ 23 phút 58 giây, một loạt những tiếng nổ đã phá hủy lò phản ứng trong tòa nhà chứa Khối Năng Lượng số 4 của nhà máy năng lượng nguyên tử Chernobyl. Tai họa này đã trở thành một thảm họa kỹ thuật lớn nhất thế kỷ 20.

Đối với đất nước nhỏ bé Belarus (dân số khỏang 10 triệu) thì đây là một thảm họa mang tầm vóc quốc gia. Thời đệ nhị thế chiến, đã có 619 ngôi làng ở Belarus cùng với cư dân ở đó bị Đức Quốc Xã tiêu diệt. Với vụ nổ ở Chernobyl, Belarus mất sạch 485 ngôi làng và cư dân. Trong số này, 70 làng bị chôn vùi vĩnh viễn dưới lòng đất. Chiến tranh đã lấy đi một phần tư dân số Belarus. Ngày nay, một phần năm dân số xứ sở nhỏ bé này sống trên những mảnh đất bị nhiễm xạ. Nói cách khác, đó là con số 2.1 triệu người, trong đó có 7 trăm ngàn trẻ em. Nguyên nhân chính cho sự kiện dân số Belarus ngày một giảm đi là nhiễm độc phóng xạ. Trong các vùng Gomel và Mogilev, hai nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất do vụ nổ Chernobyl, số người chết cao hơn số trẻ em sinh ra với tỷ lệ là 20 phần trăm.

Vụ nổ đã phóng thích vào không khí 50 triệu đơn vị phóng xạ, trong số này, 70 phần trăm bay vào bầu trời Belarus; 23 phần trăm đất đai Belarus hòan tòan bị nhiễm xạ với mật độ 1 đơn vị trên kilô mét vuông (1Ci/Km2). Trong khi đó, tỉ lệ ở Ukraine là 4.8 phần trăm và nước Nga chỉ có chưa tới 1 phần trăm ( chính xác .5%). Belarus có 18 triệu héc ta đất đai trồng trọt bị nhiễm xạ với mật độ 1 đơn vị trên ki lô mét vuông. 2.4 ngàn héc ta đất bị lọai trừ vĩnh viễn khả năng canh tác nông nghiệp. Belarus là xứ sở của rừng. Nhưng 26 phần trăm trên tổng số rừng và một phần lớn khu đầm lầy trong vùng đất gần các sông Pripyat, Dniepr và Sozh được xem là khu chứa chất nhiễm xạ. Do sự hiện diện vĩnh viễn của những hạt bụi phóng xạ với cường độ độc hại tuy rất nhỏ, nên con số người mắc bệnh ung thư, bệnh tâm thần kém phát triển, chứng hỗn lọan tâm lý , chứng hóan chuyển về di truyền cứ mỗi năm mỗi gia tăng.

Chernobyl – Belaruskaya Entsiklopedia

Chú Thích:

* Theo T.S. Tô Lệ-Hằng (Cựu nhân viên Viện Bảo vệ và An toàn Hạt nhân tại Pháp) thì RMBK là những chữ Viết tắt của tên của lò phản ứng của Nga có đặc điểm là: uranium được làm giàu ít, làm chậm nơtron bằng than graphit, tải nhiệt bởi nước sôi trong ống nhiên liệu .(Tham khảo : BÀI HỌC KINH NGHIỆM TAI NẠN LÒ PHẢN ỨNG HẠT NHÂN Chernobyl – T.S. Tô Lệ-Hằng).

Ngày 29 tháng 4 năm 1986, các máy đo phóng xạ ghi nhận mức ô nhiễm cao ở Ba Lan, Đức, Áo và Romania. Ngày 30 tháng 4, Thuỵ sĩ và miền Bắc nước Ý có tên trong danh sách. Ngày 1 và 2 tháng 5, đến lượt Pháp, Bỉ, Hoà Lan, Anh và miền Bắc Hy Lạp. Ngày 3 tháng 5, thêm Israel, Kuwait và Thổ Nhĩ Kỳ . . . Các hạt xạ li ti theo không khí đi khắp toàn cầu: ngày 2 tháng 5 chúng có mặt ở Nhật bản, ngày 3 tháng 5 ở Ấn Độ, và ngày 5 và 6 tháng 5 ở Hoa Kỳ và Canada. Chỉ cần chưa tới 1 tuần lễ, thảm hoạ Chernobyl đã trở thành thảm hoạ chung của toàn thế giới. -“ Những Hậu Quả của tai nạn Chernobyl ở Belarus”. Minsk, Trường Đại Học Quốc Tế Sakharov ngành Phóng Xạ Học.

Lò phản ứng số 4, hiện còn có tên là Cover (Vỏ Bọc), vẫn còn chứa khoảng 20 tấn nhiên liệu nguyên tử trong cái lõi làm bằng chì và sắt của nó. Không ai biết được những gì đang diễn ra trong đó.

Lớp vỏ bọc được làm bằng xi măng trộn sắt, dùng để bao bọc toàn bộ hình thể lò phản ứng số 4, là một sáng kiến được sử dụng riêng trong trường hợp này, đã được nhóm kỹ sư ở St. Petersburg chế tạo cấp tốc. Đây là một sáng kiến đáng khen ngợi. Nhưng vì những tấm đan được đúc khuôn ở một nơi, rồi sau đó dùng máy robot và trực thăng vận chuyển đến và ráp chúng vào với nhau nên không thể tránh khỏi những chỗ hở và những chỗ bị nứt. Theo một vài ước tính, hiện có khoảng 200 mét vuông diện tích tổng số những khoảng hở và vết nứt của lớp vỏ bọc này, và những hạt bụi phóng xạ vẫn tiếp tục thoát ra từ đó . . .

Liệu lớp vỏ bọc này một ngày nào đó sẽ bị phá vỡ? Không ai có thể trả lời câu hỏi đó, vì hiện tại, không có cách gì để đến gần lớp vỏ bọc, xem những chỗ nối và tổng thể kiến trúc để xác định sự ổn định của nó. Nhưng ai cũng biết rằng, nếu lớp vỏ bọc này bị phá vỡ, thì hậu quả của nó sẽ tàn khốc hơn những gì xẩy ra năm 1986. – Ogonyok Magazine, số 17, tháng 4 -1996

Comments are closed.