Văn Hải ngoại sau 1975 (208): Mùa biển động (9)

Tiểu thuyết của Nguyễn Mộng Giác

Image result for "Mùa biển động"


MÙA BIỂN ĐỘNG TẬP 2: BÃO NỔI

Chương 16

Buổi sáng Ngữ đến Tiểu khu đúng giờ. Trong nhà để xe, xe đạp xe gắn máy còn thưa thớt nhưng chàng đã thấy chiếc xe Jeep của đại tá tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng đậu ở trước lối ra vào rồi. Ngữ thầm nghĩ: “Chắc hôm nay có chuyện”. Chàng đoán như vậy vì thường ngày, viên đại tá vẫn thích đi chiếc Ford Falcon đen hơn là đi xe Jeep. Hơn nữa, anh tài xế lái xe lại mặc đồ nhà binh, giống như những lần đại tá phải xuống phi trường Phú bài hay vào sân bay Tây lộc đón tiếp một ông tướng cấp vùng hay ở Tổng tham mưu ra kinh lý.

Ngữ giơ tay chào anh tài xế, quên hẳn nên chào theo lối nhà binh. Anh ta chào lại, và bảo Ngữ:

– Đại tá cho tìm anh đấy.

Ngữ càng tin có chuyện thật. Anh tùy phái tòa hành chánh thấy Ngữ đến, làm mặt nghiêm cho quan trọng, thấy giọng nói như sắp thổ lộ một tin mật:

– Chẳng hiểu có gì cần mà đại tá báo khi nào ông đến bảo ông vào trình diện ngay. Liệu có việc gì không?

Ngữ đáp:

– Tôi cũng không hiểu. Trong văn phòng có khách không?

– Không. Ông vào đi. À mà thôi, để tôi vào trình trước.

Rồi cố lấy giọng thân mật kẻ cả, anh tùy phái bảo nhỏ:

– Hôm nay trông mặt đại tá đăm đăm, không làm đúng phép tắc, lãnh “củ” như chơi. Ông đợi ở đây nhé!

Anh tùy phái đi rón rén về phía văn phòng tỉnh trưởng. Vai anh ta khép lại, lưng hơi khom thói quen sẵn sàng chịu đựng bao lời quở mắng của biết bao nhiêu đời tỉnh trưởng trong cuộc đời công chức của anh.

Ngữ cảm thấy thương hại hơn là khinh bỉ, và không hiểu mỗi lần có việc vào gặp viên đại tá, dáng đi thái độ của mình có lóm thóm đến độ ấy không.

Anh tùy phái vào phòng tỉnh trưởng một lúc, đi ra, đứng ngay chỗ cánh cửa vừa khép nhẹ sau lưng, anh thẳng người hách dịch đưa tay ngoắc Ngữ đến. Ngữ bật cười nhỏ vì thấy anh tùy phái thay đổi thái độ nhanh quá. Trước khi mở cửa văn phòng tỉnh trưởng để nhường lối cho Ngữ vào, anh tùy phái còn dặn nhỏ:

– “Ngài” không vui. Ông liệu giữ thân nhá!

Ngữ lo lắng không biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng không còn thì giờ để đoán già đoán non nữa.

Viện đại tá mặc đồ trận như lúc ông còn làm chỉ huy trưởng đơn vị tác chiến, nhưng khác với lời báo động của anh tùy phái, nét mặt ông có vẻ thoải mái ân cần. Ông cười tươi nhại theo cách nói tiếng Việt của ông cố vấn Mỹ, nói:

– “Chào cậu buổi sáng”. Ngồi xuống đây đã!

Mặc dù tối hôm qua có được nói chuyện khá thân mật với viên đại tá, nhưng Ngữ vẫn ngỡ ngàng trước vẻ thân mật khác thường sáng nay. Tối hôm qua dù sao cũng ngoài giờ làm việc, và câu chuyện hai người trao đổi nhau là chuyện văn chương, Ngữ được nâng cao hơn vị trí một hạ sĩ quan làm việc bàn giấy. Hơn nữa, Ngữ cũng có cái tự tín của một tác giả trước một độc giả. Hoàn cảnh hôm nay đổi khác. Đây là giờ làm việc, và một trung sĩ cấp dưới đang chờ nghe lệnh một đại tá chỉ huy trực tiếp. Ngữ ngần ngừ chưa muốn ngồi lên cái ghế lót nệm xanh trước bàn làm việc của viên đại tá, thì ông ta lại bảo:

– Cậu ngồi xuống đó vì chúng ta làm việc hơi lâu. Tùy phái đã chuyển các nội lệnh cho cậu chưa?

– Thưa đại tá, tôi vừa đến thì vào ngay đây.

Viên đại tá cười nhỏ:

-Thế à. Thôi, để tôi bảo tùy phái chuyển giúp xuống các phòng ban cho cậu.

Ông bấm nút chuông gắn ở gậm bàn bên tay phải.

Anh tùy phải mở cửa vào, từ dáng đi cho tới nét mặt thật lạ. Dường như sự hiện diện của Ngữ khiến cung cách khép nép trước mặt tỉnh trưởng của anh tùy phái trở nên thiếu tự nhiên. Anh ta lúng túng đến nỗi viên đại tá cũng cười xòa, hỏi lớn:

– Anh làm cái trò gì vậy? Thôi được rồi. Sáng nay trung sĩ Ngữ bận làm việc với tôi, anh đưa mấy phong bì nội lệnh xuống tất cả các phòng ban ngay. Chỉ có thế. Vâng, chỉ có thế. Anh ra được rồi.

Viên đại tá chờ cho anh tùy phái khép cửa xong, mới hỏi Ngữ:

– Cậu ở ngoài, thấy tình hình thế nào?

Ngữ không biết trả lời sao trước một câu hỏi quá tổng quát như vậy, lúng túng hỏi lại:

– Thưa đại tá tình hình về cái gì ạ?

Viên đại tá đáp:

– Về dư luận của dân chúng. Nhất là của Phật tử.

Ngữ đáp mơ hồ vì quả thực, chàng cũng không biết trả lời thế nào cho chính xác:

– Nói chung thì ngoài phố họ hoang mang, không biết Trung ương và ở đây có quá găng với nhau không.

– Nếu ông Kỳ mạnh tay, dân chúng sẽ phản ứng như thế nào?

Ngữ do dự, trước khi nói:

– Thật khó mà đoán được. Dân ở đây hầu hết là Phật tử, các thầy lại đang được khâm phục sùng mộ.

Viên tỉnh trưởng nôn nóng chuyển sang câu khác:

– Thế bên phía sinh viên học sinh. Cậu quen biết họ nhiều, phải thế không?

Ngữ chưa kịp nói gì, viên đại tá đã tiếp:

– Nhất là cậu thân với ông Tường!

Ngữ thấy mình bị dồn vào một góc kẹt. Tâm trạng chàng thật phức tạp. Chàng khó chịu như người cảm thấy mình vô cớ bị đưa vào một trò xiếc, mà kết quả chắc chắn là sẽ tan xương nát thịt nếu không khéo cầm cây sào liêm sỉ để đi trên sợi dây giăng cao. Chàng nhìn thẳng vào mắt đại tá, nói thật chậm:

-Đại tá chắc đã rõ là tôi thân với Tường từ thời đi học. Nhưng không phải hễ thân nhau là biết hết tâm tình của nhau. Huống hồ trong vụ này…

Viên đại tá cười xòa, gật gù thông cảm:

– Tôi hiểu, tôi hiểu chú. Chắc bên đó thấy cậu mặc đồ lính, lại không phải là quân nhân Phật tử, họ không dám tâm sự gì đâu! Thôi, tôi hỏi cho vui vậy thôi. Thế nào, dù tình hình lộn xộn nhưng cậu vẫn viết đều đấy chứ?

Mỗi lần ai nói tới chuyện viết lách, Ngữ đều đỏ mặt như bị bắt quả tang đang làm một việc không giống ai, chẳng khác nào một kẻ dại khờ đến nỗi cởi quần áo giữa đám đông cho thiên hạ xem thân thể ốm o xấu xí của mình. Ngữ chỉ ấp úng được mấy tiếng vô nghĩa:

– Thưa đại tá…  chuyện đó…

Viên tỉnh trưởng cười thỏa mãn:

– Cậu giấu không cho tôi biết “tác phẩm vĩ đại” để đời thì thôi. Nhưng này, cậu thương tôi thì nhớ một ngày đẹp trời nào đó, đừng đem tôi vào truyện của cậu đấy nhé. Nhất là đừng viết lên giấy trắng mực đen là lâu lâu cậu viết giùm diễn văn cho tôi nhé! Nếu có viết, rán quàng vòng hoa cho tôi nhiều nhiều vào. À, vòng hoa thật, chứ không phải hoa cườm, hay là kiểu vòng hoa cậu dành cho ông tướng.

Nói đến đây, viên đại tá đập nhẹ tay phải vào trán như chợt nhớ một điều quan trọng. Ông hỏi Ngữ:

– À, tí nữa quên chuyện vui này. Cậu có muốn xem hồ sơ bên An ninh Quân đội gửi qua về cái truyện ấy không?

Ngữ dằn nỗi háo hức tò mò và sự khó chịu, đáp kiểu cách:

– Nếu đại tá cho phép!

– Sao lại không cho phép. Sáng nay Trung ương loan báo trung tướng đã xin từ chức đi Mỹ chữa bệnh, cho nên vụ của cậu coi như yên. Hồ sơ xếp luôn, hoặc hủy bỏ không cần lưu nữa. Đây, tôi cho cậu mượn xem qua rồi chốc nữa trả lại cho tôi.

Viên đại tá rút trong hộc bàn một tấm bìa màu vàng chìa cho Ngữ. Dấu “MẬT” đỏ chói ở ngay giữa xấp bìa, ở bên trên có hàng chữ in “Ty An ninh Quân đội Thừa thiên”.

Ngữ cố trấn tĩnh lắm, nhưng lúc đưa tay nhận xấp hồ sơ, chàng vẫn không thể giữ cho được khỏi run. Viên đại tá cười:

– Không còn gì đáng sợ nữa. Cậu yên tâm!

***

Từ văn phòng tỉnh trưởng đi ra, Ngữ về thẳng bàn làm việc của mình, dán mắt vào những hàng chữ in và chữ viết tay trên tấm bìa tập hồ sơ mỏng. Ngoài tên thật và cấp bực của Ngữ, còn có cả bút hiệu và tên cái truyện ngắn “sinh chuyện” ấy.

Chàng nô nức muốn biết ngay nội dung phúc trình của Ty An ninh Quân đội về tác phẩm của mình. Ðây là kinh nghiệm đầu tiên trong đời cầm bút của chàng. Dĩ nhiên tác giả nào khi cầm bút viết, là viết cho mình trước hết, viết vì một nhu cầu nội tâm thúc giục mình giải tỏa những nỗi ẩn ức, ước vọng, khao khát, viết vì nhu cầu được cảm thông với kẻ khác. Cho nên sau khi tác phẩm được phổ biến, sự nao nức đầu tiên là muốn biết phản ứng của người đọc nó. Đối với sách vở, phản ứng ấy hiếm hoi đến nỗi tác giả có cảm tưởng lời viết của mình mất hút vào cõi hư không, và âm thanh vọng lại không có gì khác hơn là những tiếng rạn vỡ sụp đổ của những điều tưởng như bền vững của chính tác giả: như niềm tin vào súc mạnh của ngòi bút, như lòng đam mê nghệ thuật, như tài năng sáng tạo. Có người vì thế đã bỏ cuộc ngay từ những bước chập chững ban đầu. Có người cứ mong mỏi một ngày nào đó tìm được “khách tri âm”, gặp được “nòi tình thương người đồng điệu”. Không gặp ai, họ cứ viết vì tưởng tượng đến sự đón nhận niềm nỡ của “hải nội chư quân tử” vào ba trăm năm sau.

Trong hàng triệu triệu người đọc từ khi tác phẩm ra đời cho đến ba thế kỷ nữa, dù trí tưởng tượng của người viết phong phú đến đâu, ít có ai nghĩ tới một loại độc giả đặc biệt, đọc sách một cách kỹ càng cần mẫn, như các kiểm duyệt viên. Như cảnh sát mật vụ. Ngữ có bao giờ tưởng tượng ra được có ngày chàng cầm trong tay một xấp tài liệu mổ xẻ phê phán tác phẩm của chàng kỹ lưỡng, theo đôi mắt nhà nghề của Ty An ninh Quân đội.

Ngữ về tới bàn làm việc là cắm cúi đọc xấp phúc trình, không còn chú ý đến gì khác. Chàng thấy trước hết là cái truyện ngắn cắt từ tuần chí văn chương. Vì tuần báo này in trên giấy khổ nửa tờ nhật báo, nên cái truyện được in ở trang nhất là một mẩu hình chữ nhật bằng bàn tay, phần còn lại là một mẩu dài dính liền với một mẩu ngắn khác như hình chữ L. Nhan đề “Vòng hoa dành cho ngài lãnh tụ” ở mẩu báo đầu tiên được vòng khoanh bằng bút đỏ, ai đó đánh một dấu hỏi thật lớn trên ba chữ “Ngài lãnh tụ”.

Ngữ đọc dò cái truyện của mình từng chữ, đọc thật chậm, cố gắng đọc như nhân viên phụ trách đọc truyện chàng bên Ty An ninh Quan đội, và lạ lùng thay, Ngữ thấy quả tình mình phạm quá nhiều tội với thượng cấp. Chàng cố “khách quan” kết tội mình theo đôi mắt an ninh nhà nghề, và thích thú nhận ra rằng những chỗ chàng cho là khả nghi thì Ty An ninh Quân đội cũng cho là khả nghi. Chẳng hạn theo phúc trình của An ninh Quân đội: “Mặc dù tác giả mở đầu bằng một câu mông lung “Một ông tướng chỉ huy vùng chiến thuật” nhưng ở trang sau vì có thêm chi tiết “Về Huế, ông thường lui tới Royal Youth Club để sưu tập thêm vài bà dì bà cô nhỏ tuổi của Bảo Long”, nên chắc chắn tên trung sĩ tác giả đã xuyên tạc bôi xấu trung tướng tư lệnh quân đoàn Một. Những chi tiết xuyên tạc bôi nhọ ấy, theo điều tra của thiểm ty, đều vô căn cứ, đều là sản phẩm bịa đặt có manh tâm xấu xa. Chẳng hạn ở Huế chưa hề có một hội hợp pháp nào hoạt động có tên là Royal Youth Club, Phòng Tâm lý chiến chưa bao giờ có một sĩ quan có bằng cao học sử, và sau khi xác minh với Lữ đoàn Thủy quân lục chiến đặc phái tại quân khu, thiểm ty biết chắc không bao giờ có một quân nhân nào tương tự như “đại hiệp” trong truyện ngắn nói trên.

Đó là chưa kể theo xác nhận của Phòng Tùy viên Bộ chỉ huy Quân đoàn, thì Trung tướng Tư lệnh không có vị phu nhân nào chỉ bận lo tiếp các nhà thầu xây cất phi trường mới, cũng như bản thân Trung tướng không bao giờ có ý làm một bộ sưu tập kỳ quái như thế. Tất cả bấy nhiêu ý trong cái truyện ngắn trên đều là những lời bịa đặt xuyên tạc có ác ý. Động cơ của manh tâm xuyên tạc ấy không hiểu là gì, vì quân bạ của nghi can cho thấy chưa có điều gì khả nghi. Nhưng liên hệ chặt chẽ và thường xuyên của nghi can đối với những tên chuyên xách động gậy rối thân cộng (hoặc có thể là cộng sản nằm vùng) như tên Tường cho thấy truyện ngắn này chắc chắn được viết ra nhằm dụng ý xấu”.

Bản phúc trình sau đó ghi chi tiết ngày giờ và địa điểm những lần Ngữ gặp Tường, khi thì tại xưởng vẽ của Ngô, khi thì tại nhà Ngữ, khi thì tại nhà một người bạn chung, nhiều lần khác ở quán cà phê. Theo nhận định của Ty An ninh Quân đội, thì truyện “Vòng hoa dành cho ngài lãnh tụ” đã gây những hậu quả tai hại lên tinh thần chiến đấu của quân đội vì:

1. bôi nhọ danh dự của Trung tướng Tư lệnh quân đoàn

2. bôi nhọ danh dự và uy tín của cơ quan lập pháp trung ương

3. bôi nhọ uy tín của các tu sĩ Phật giáo và Công giáo, vô tình hay cố ý tán dương chủ thuyết vô thần của cộng sản.

Vì những lý do đó, Ty An ninh Quân đội đề nghị Tiểu khu theo dõi sát hành động của nghi can, và cảnh giác không giao cho bất cứ nhiệm vụ nào liên quan đến bí mật quốc phòng cũng như chiến tranh chính trị.

Bản phúc trình ấy được gứi cho Chánh sở An ninh Quân đội, bản sao gửi cho phòng Hai quân đoàn, Khu chiến thuật (phòng Hai sư đoàn) và Tiểu khu trưởng Thừa thiên (phòng Hai Tiểu khu).

Càng đọc, Ngữ càng choáng váng, vừa tức giận vừa lo sợ. Chưa bao giờ Ngữ tưởng tượng ra một loại “bạn đọc” đã nhìn tác phẩm của mình theo nhãn quan ấy. Điều bi đát hơn, là Ngữ nghĩ : nếu mình phục vụ tại Ty An ninh Quân đội và được cấp trên giao cho phân tích và lập báo cáo một truyện ngắn như “Vòng hoa dành cho ngài lãnh tụ”, chàng sẽ làm gì? Viết gì? Có làm khác viết khác với người lính an ninh đã lập bản phúc trình này không?

Ngữ chìm đắm trong suy tưởng, ngồi thừ trên ghế, mắt không nhìn thấy gì ngoài những hình dạng lờ mờ chao động chung quanh. Ngữ không thấy mọi người trong phòng công văn, cả những quân nhân Tiểu khu có việc đi ra đi vào văn phòng Tiểu khu trưởng, đều nhìn chàng với đôi mắt e ngại. Chàng là cái đích của bao nhiêu cảnh giác ngờ vực. Ngữ không đủ bình tâm nhận biết điều đó.

***

Có ai đó đến bên Ngữ, giọng Huế thật nặng và hách dịch:

– Anh chuyển gấp cái này cho đại tá tỉnh trưởng.

Rồi đột nhiên, giọng người lạ đổi ra thân mật, kinh ngạc:

– Ủa, anh Ngữ đấy hả? Đau yếu ra sao mà ngồi thừ ra vậy? Không nhận ra tôi à? Mân đây! Tôn Thất Mân, anh nhớ không?

Ngữ giật mình, mắt nhìn rõ mọi sự hơn. Chàng nhận ra Mân, con trai ông thầu khoán Tôn Thất Toàn. Mân kéo ghế ngồi tự nhiên trước bàn Ngữ, bắt tay chàng thật chặt, vồn vã hỏi:

– Lâu nay vẫn mạnh khỏe chứ? Mấy lần tôi đi với Lãng lại thăm anh nhưng rủi quá, không lần nào gặp cả. Cả sáng nay nữa. Tôi vừa chở Quế với bác gái từ Đà nẵng về xong. Này, xừ đại tá có trong đó không?

Ngữ nghiêm mặt đáp nhát gừng:

– Có đấy.

Mân chồm qua bàn hỏi nhỏ Ngữ:

– Chuyến này chuyện làm ăn của tụi mình lại trúng lớn. Anh biết vì sao rồi chứ gì?

Ngữ vẫn nói bằng cái giọng nhát gừng thiếu ân cần:

– Chuyện gì thế?

Mân hỏi:

– Anh không biết thật à?

– Tôi chẳng biết gì cả!

Mân chưa tin lời Ngữ, nhưng vẫn chậm rãi giảng giải:

– Lần này thì ông tướng vùng đi đoong thật rồi. Đã có tin tìm được người để bổ nhiệm tân tư lệnh vùng. Anh biết ai chưa?

– Chưa!

– Tôn Thất Đính đấy! Ông tướng gọi ba tôi bằng chú, anh nhớ chứ! Đúng là right man in the right place. Anh biết rồi, hoàng tộc chúng tôi lúc nào cũng sùng đạo Phật. Đưa một ông tướng cách mạng dòng dõi hoàng tộc ra nắm vùng Một vào lúc này, vừa giữ được uy quyền trung ương, vừa hòa giải được các mối mâu thuẫn nghi kỵ tại đây. Một người con của Huế, lại dòng dõi hoàng tộc, thì không bao giờ phản lại nguyện vọng của bà con đồng hương. Không biết ai đã nghĩ ra giải pháp kỳ diệu này. Chắc lại đại sứ Lodge. Dân Mỹ hay thật! Đại sứ của người ta thế, chứ đâu như mấy ông đại sứ mình, dắt vợ con ra nước ngoài chẳng làm ăn gì cả, chỉ lo nhảy đầm.

Lúc ấy, viên đại tá từ văn phòng đi ra, bộ đi hơi vội vàng. Mân vội đứng dậy chạy lại chỗ cửa đón đại tá. Viên đại tá ngạc nhiên cau mày hỏi:

– Cái gì đấy? Tôi có việc bận.

Không hiểu Mân nói gì, mà ngay ít phút sau, nét mặt viên đại tá dịu lại. Ông đi trở ngược về văn phòng, Mân bước mau theo sau. Cửa văn phòng tỉnh trưởng đóng ập một tiếng hơi lớn.

Có nhiều tiếng lào xào bàn tán trong phòng công văn và các phòng kế cận. Dường như mọi người không còn giữ gìn ý tứ nữa. Tiếng cuời nói rổn rảng dội qua dội lại giữa các bức vách phòng, hoặc âm vang trong hành lang dài, báo hiệu những xao động bất thường trong lòng từng người. Các quân nhân Phật tử được mời lên chùa chiều nay cảm thấy nao núc như sắp bước vào một cuộc thử thách mà phần thắng sẽ về phía mình. Những kẻ lo xa hết thấy lo xa vì rõ ràng qua thái độ nét mặt của viên đại tá, tình hình đã gần đến chỗ phức tạp mơ hồ để người khôn ngoan ở đầu gió không dám đưa ra một biện pháp hay lập trường dứt khoát, chưa nói một biện pháp kỷ luật gây bất mãn cho cấp dưới. Tỉnh đường là căn nhà vắng chủ, và các quân nhân theo đạo Công giáo lấy cớ này cớ nọ tìm cách tránh khỏi chỗ thị phi. Nguời ta lớn tiếng hỏi nhau, ngay bên ngoài văn phòng kín cửa của viên tỉnh trưởng:

– Chiều nay đi chứ?

– Hỏi cái gì lạ vậy! Nên đi sớm nhá, làm sao đúng ba giờ là anh em có mặt đông đủ bên đó rồi.

– Sao lại bên đó? Bên nào?

– Thế cậu chưa biết sao? Đã có thông báo dời địa điểm. Không phải Từ đàm. Thầy đã về chùa Diệu đế rồi!

Một người hỏi Ngữ, giọng như giọng hỏi cung:

– Hồi sáng cậu tới hồi mấy giờ?

Ngữ hỏi lại: .

– Hỏi chi vậy?

Có lẽ giọng cáu kỉnh của Ngữ làm anh hạ sĩ hơi chùn, nên giọng nói của anh ta nhẹ nhàng hơn:

– Tìm cậu đi uống cà phê mãi, tuy thấy cái xe đạp của cậu ngoài nhà xe. Hân nó tìm cậu đó.

Ngữ cũng dịu giọng:

– Tôi nhớ giờ họp mà!

Anh hạ sĩ vui mừng:

– Cậu nói thật chứ? Vậy mà… Này, hồi sáng xừ đại tá gọi cậu vào dọa phải không?

– Không.

Anh hạ sĩ không tin lời Ngữ. Ngữ phải thêm:

– Ông ấy hỏi thăm tình hình ngoài phố ra sao.

– Chứ không phải hỏi thăm sức khỏe anh em Phật tử à? Kể ra ông ấy cũng biết điều. Nhưng tại sao lại có cái nội lệnh cấm trại 100%?

Ngữ đáp cho qua:

– Phải làm thế, lỡ ra…

Anh hạ sĩ bắt bẻ:

– Lỡ cái gì? Lỡ nếu ông Kỳ đưa được ông tướng Công giáo ra đây thì có bằng cớ lập công phải không! Đừng có hòng. Phải đi tới cùng mới được.

Ngữ hỏi:

– Các thầy nói thế à?

– Không. Ðấy là ý riêng của tôi thôi. Chiều nay thế nào cũng biết chủ trương của Thầy. .

Lúc đó, ở bên kia phòng công văn, có nhiều tiếng ồn ào khác thường. Rất nhiều tiếng cười lớn. Ngữ chạy qua xem, thấy nhiều mảnh giấy vụn rơi vương vãi khắp mặt bàn đặt ngay cửa ra vào.

Ba người lính Tiểu khu trong phòng này đang hớn hở, mắt sáng và da mặt đỏ hồng. Họ vừa xé tờ nội lệnh cấm trại, làm confetti, tờ nội lệnh mà tùy phái tòa tỉnh đã đem đến tận từng phòng giao cho tất cả quân nhân phục vụ trong Tiểu khu.

_________________________________________

Chương 17

Ở chùa Diệu đế ra, Ngữ có một tâm trạng hoang mang tột độ. Không phải vì chàng vừa trải qua những giây phút quyết định, những thách thức phức tạp ở Tiểu khu như Ngữ đã tiên liệu hôm qua. Không phải thế. Việc lựa chọn cuộc hội họp của quân nhân Phật tử vào lúc ba giờ chiều để trực tiếp thách thức uy quyền của chính quyền địa phương, đồng thời để phân biệt rõ kẻ bênh người chống đối với phong trào Phật giáo, hôm qua Ngữ tưởng sẽ đặt mình vào một tình thế khó xử. Nhưng vào phút cuối mọi sự trở nên dễ dàng. Đại tá tỉnh trưởng hấp tấp ra xe đi với Mân lúc hai giờ chiều, Toà Hành chánh trở thành căn nhà vô chủ. Báo Sài gòn ra Huế vào buổi trưa, xác nhận tin tướng Kỳ loan báo tư lệnh quân đoàn Một xin từ chức để đi Mỹ chữa bệnh thối mũi do đài phát thanh VOA, BBC, Úc Ðại Lợi, NHK đã loan hồi sáng sớm. Nét mặt lo âu của viên tỉnh trưởng cùng việc ra đi hấp tấp của ông càng khiến cho tất cả quân nhân phục vụ tại Tiểu khu yên tâm. Viên đại tá đi rồi, cả tòa hành chánh thực sự trở thành cảnh chợ phiên. Mạnh ai nấy nói. Mạnh ai nấy cười giỡn, ca hát, la hét, lớn tiếng bàn luận về cái tin sốt dẻo nhất liên quan trực tiếp đến cuộc đời mọi người. Những lời bàn tán không đầu không đuôi, cũng không cần xác thực hay là hợp lý. Dường như mọi người mừng rỡ vì được cơ hội nói thẳng những điều thoạt đến trong đầu ngay tại nơi mà chỉ mới ngày hôm qua thôi, họ phải khép nép giữ gìn. Câu chuyện lan man, cuối cũng thu gọn lại, bao quanh cái bệnh thối mũi của ông tướng Vùng:

– Thật khéo tìm ra cái bệnh kỳ quái cho ông tướng! Bệnh gì lại bệnh thối mũi.

– Cậu biết gì! Đó là bệnh tiếng Tây nó gọi là Sinus đó!

– Tây với u! Mũi có việc gì thì tiếng nói phải khác đi. Tao có thấy ông ấy nói giọng khác thường nào đâu. Giọng ông ấy hôm đến chủ tọa đêm văn nghệ ở rạp Hưng Ðạo vẫn sang sảng. Mũi bị thối, giọng nói đổi khác liền.

– Hơi đâu tin mấy cái chuyện ba vạ đó! Nhiều khi cha Kỳ sốc nổi đã mắc bẫy của ông tướng vùng không chừng.

Nhiều tiếng nhao nhao hỏi:

– Sao vậy?

– Thật thế à?

– Mày nói như chuyện Phong thần!

– Lại không thật! Này nhé! Cứ tưởng tượng ông tướng được triệu vào Sài gòn hội họp gì đó, chẳng hạn để kiểm điểm tình hình an ninh lãnh thổ. Cuộc họp có ông tướng vùng mình, có tướng Lộc vùng Hai, tướng Trị vùng Ba, tướng Quang vùng Bốn. Sài gòn thì chắc chắn là có bộ ba Thiệu, Kỳ, Có. Rồi trong cuộc họp, đột nhiên có lời yêu cầu ông tướng từ chức, và phải ở lại Sài gòn đãi lệnh để chờ lãnh nhiệm vụ mới. Ông tướng hỏi lý do. Bộ ba Sài gòn nêu một lý do chính đáng nào đó, chẳng hạn phong trào đấu tranh của Phật tử và sinh viên đã trở nên nguy hiểm cho an ninh quốc gia, chẳng hạn cộng sản đã trà trộn vào được phong trào tranh đấu và sắp sửa chiếm chính quyền ở miền Trung. Do đó phải thay tư lệnh vùng. Ông tướng biết đã có xếp đặt trước, có cãi cũng vô ích, nên hỏi lý do công bố cho dân chúng biết vì sao cách chức ông là gì. Bàn qua tán lại một hồi, chính ông tướng đề nghị nên chọn cái bệnh thối mũi.

– Nói dóc tổ sư! Sao lại nghĩ ông tướng tự chọn cái bệnh ấy?

– Chọn như vậy là thâm lắm. Ông Kỳ trẻ người non dạ, chịu liền, nhưng đâu có biết ông tướng mình giăng bẫy.

– Thôi đi cha nội! Tán hươu tán vượn vừa thôi! Thối mũi là thối mũi. Chẳng lẽ lại đưa ra cái bệnh quá tầm thường là bệnh thối tai. Vì không ai sành bệnh thối mũi là bệnh gì, nên việc đưa đi Mỹ chữa bệnh mới có lý!

– Mày biết gì! Chính ông tướng chọn cái bệnh thối mũi. Ông ấy muốn nói: không khí chính trị ở Sài gòn thối quá, ngửi không được, ông ấy ở ngoài này mấy năm không sao, vào có mấy hôm đã bị thối mũi liền!

Nhiều tiếng ồ, à… khâm phục.

– Ồ! Cũng có lý.

– À. Ra thế.

– Ờ! Thằng này nói dóc, nhưng nghe được lắm.

Cứ bàn qua tán lại như vậy họ quên cả giờ kéo qua Diệu đế để họp. Lúc có người chợt nhớ, đã ba giờ mười lăm. Thế là mọi người vội vã nhét hết giấy tờ công văn vào hộc bàn, kéo nhau đi. Bác tùy phái lo khóa cửa phòng tỉnh trưởng. Người lính gác Tiểu khu cũng đem súng cất vào chiếc tủ ngay chỗ cầu thang. Tòa Hành chánh đồng thời cũng là văn phòng Tiểu khu trưởng hoàn toàn bỏ ngỏ. Phút lựa chọn khó khăn Ngữ e ngại hôm qua, không bao giờ xảy đến. Huế ồn ào náo nhiệt như một ngày hội, không có dấu hiệu nào chứng tỏ mọi người lo âu cho những biến động bi thảm có thể xảy ra.

***

Ngữ đã chen ra khỏi đám đông náo nhiệt ồn ào ở chùa Diệu đế để ra chỗ bờ sông An cựu trước chùa thở chút không khí trong lành. Bên trong khuôn viên nhà chùa, hết đại diện đoàn thể này đến đại diện khác lên micro tố cáo bộ ba Thiệu Kỳ Có, đòi họ phải từ chức ngay lập tức để trả lại chính quyền cho dân sự. Ðòi phải bầu cử quốc hội. Ðòi loại trừ ngay tức khắc những tướng tá tham nhũng. Không có ai nhắc tới vụ ông tướng bị bệnh thối mũi sắp được đưa đi Mỹ điều trị. Cũng không có ai nhớ rằng mục đích cuộc hội họp chiều nay là để tập họp quân nhân Phật tử thành một lực lượng tranh đấu có kỷ luật, có tổ chức, khả dĩ đủ sức chống lại mọi mưu toan của Sài gòn nếu có đối đầu.

Ngữ lạc lõng giữa đám đông, cố tìm một người quen để bàn luận hay trao đổi vài câu về những điều đang nghe, nhưng không gặp ai. Trong chùa, từng chặp tiếng loa phóng thanh lại rít lên, chen lẫn với những lời hoan hô đả đảo ầm ĩ. Cuối cùng, không chịu đựng được nữa, chàng lấy xe đạp đi ngược về phía cầu Gia hội. Chẳng hiểu sao đến chỗ ngả ba đầu cầu, Ngữ không rẽ trái để về nhà. Chàng rẽ tay mặt, qua một phố đêm vắng vẻ, qua khu Phú Văn lâu im lìm. Ngữ đạp xe đến đầu cầu Bạch hổ lúc nào không hay. Trạm canh đầu cầu không có ai. Chàng qua cầu, nghĩ sẽ được một mình hưởng trọn luồng gió mát trong sạch thổi nhẹ qua mật sông êm đềm. Ngữ qua đến bên kia cầu, tự nhiên rẽ trái xuống phía nhà ga. Mãi tới lúc nhìn thấy chiếc cầu xi măng bắc qua con sông đào, chàng mới giật mình tự hỏi: “Ta đi đâu đây?”

Và Ngữ đỏ mặt xấu hổ, khi biết rằng trong cơn hoang mang thời sự, bên trong chàng, có một sức thúc đẩy huyền diệu êm ái đưa chàng đi tìm Diễm.

Khi biết rõ lòng mình, Ngữ phanh gấp xe lại, ngay đầu cầu. Chàng tự hỏi: “sao lại đi thăm Diễm vào giờ này? Nại lý do gì? Diễm có nhà vào lúc này không? Và Diễm sẽ nghĩ gì?” Ngữ thêm ngại ngùng khi nhớ rằng buổi tối, ông Bỗng thường ở nhà, và thường ngồi duỗi chân hút thuốc uống trà ở cái bàn nước độc nhất ngay cửa ra vào. Nếu gặp ông Bỗng, chàng sẽ nói gì? Và liệu có lúc nào đó, có chỗ nào đó Ngữ có thể đủ cơ hội nói riêng với Diễm đôi ba câu hay không?”

Do dự hồi lâu, cuối cùng Ngữ quyết đạp xe quá về phía ga để vào nhà Diễm.

May cho chàng, ông Bỗng không ngồi lì ở chỗ bàn nước như mọi hôm. May hơn nữa là dưới ngọn đèn néon bốn tấc treo lủng lẳng bên trên bàn nước bằng hai sợi dây thép buộc vào xà gỗ trên trần, Diễm đang ngồi đọc báo. Nàng mặc chiếc áo cánh mầu tím cổ tròn, khiến nước da hơi nâu ở cổ và hai cánh tay Diễm trở nên trắng nõn. Ngữ dựng nhẹ xe đạp ngoài cửa vì hồi hộp, se sẽ bước vào vùng ánh sáng chiếu hắt từ căn phòng ra. Diễm không hay biết gì, điềm nhiên ngồi đọc báo. Ngữ không dám lên tiếng, cảm thấy nghẹn thở, ở hai thái dương máu đập nhịp gấp, căng thẳng. Chàng đứng lặng ngắm dáng ngồi thoải mái của Diễm, ngắm mái tóc dài của Diễm, chiếc cổ cao của Diễm, ngắm chiếc mũi nhỏ thật xinh xắn của Diễm. Có tiếng ai đó, giọng đàn ông, trọ trẹ rổn rảng ngoài đường. Đột nhiên Ngữ sợ bị bắt gặp đúng vào lúc đang nhìn trộm Diễm.Chàng vội lên tiếng.

– Diễm ơi, có Ngô ở nhà không?

Diễm giật mình ngước lên, ngỡ ngàng nhìn Ngữ, rồi cố trấn tĩnh, đáp thật chậm:

– Mời anh vào chơi! Anh Ngô em đi họp!

Ngữ bước hẳn vào trong phòng. Diễm xấu hổ vì trên bàn còn bừa bộn nào son cơm, ba chiếc đũa dơ, cái muỗng thiếc bị gãy cán, đĩa xương cá, vài mẩu giấy nhàu, tách nước trà nguội, hai cái kẹp tóc… nên vội vã thu dọn mọi thứ, sau đó lấy khăn lau thật sạch mặt bàn. Vừa thu dọn, Diễm vừa xin lỗi, cố cười vui để che giấu nỗi e thẹn xấu hổ:

– Gớm, em mới về nên chưa kịp dọn dẹp gì cả. Vã lại, em “nội trợ” không bằng chị Nam con Quế bên anh đâu! Anh ngồi xuống đó đi. Anh Ngô chắc cũng sắp về!

Ngữ vừa ngồi xuống đã hỏi, cho yên tâm:

– Bác đi làm chưa về à?

Giọng Diễm reo vui:

– Ba mạ em ra Quảng trị ăn đám cưới.

– Đám cưới ai thế?

– Một cô gọi mạ em bằng dì.

– Sao Diễm không đi?

Diễm ngúng nguẩy, làm cho mái tóc ở hai bên thái dương phơ phất:

– Em ngại đi dự đám cưới lắm.

– Sao thế?

Diễm nghiêm mặt đáp:

– Em cũng chẳng rõ. Có lẽ sợ thấy cô dâu tội tội thế nào…

Ngữ cười thoải mái vì biết chắc chắn chỉ có Diễm ở nhà, hỏi lại:

– Sao lại “tội tội”? Được lấy chồng, được hạnh phúc, lại tội?

Giọng Diễm buồn buồn:

– Vì em thấy hầu hết các bạn gái của em đi lấy chồng, ít lâu sau gặp lại, mắt người nào cũng thâm quầng, đầy lo âu. Hỏi thì người nào cũng bảo đã tìm được hạnh phúc. Nhưng nụ cười thì… như cười gượng.

– Diễm chỉ tưởng tượng. Nghĩ như Diễm, chắc không ai dám lấy chồng.

Diễm làm ra vẻ cương quyết đáp:

– Vâng, riêng em thì nhất định không bao giờ lấy chồng.

– Thật không?

– Thật chứ! Anh không tin em hả?

– Không tin. Chỉ vì…

Ngữ muốn nói tiếp một lời bóng gió nào đó cho Diễm hiểu, nhưng đúng vào lúc cần thiết, chàng lại quên béng hàng trăm câu văn hoa có,mộc mạc có,trực tiếp có,xa xôi có,bạo dạn có, e dè có… mà chàng đã soạn sẵn từ bao lâu nay. Chàng ấp úng không thể nào nói tiếp cho hết câu “chỉ vì”, nhưng tự nhiên Diễm hiểu. Nàng đỏ mặt cúi xuống, bàn tay phải thừa thãi không biết làm gì cuối cùng phải dùng để vuốt lại mái tóc lòa xòa trước trán và sửa lại vạt áo. Hai ngưòi cũng cảm thấy lúng túng nếu cứ kéo dài mãi phút im lặng dễ thương này, nên đều cố tìm cái gì đó để nói. Ngữ tìm ra trước, nhân thấy bàn tay trái của Diễm vô cớ vò nhàu một góc tờ nhật báo. Chàng hỏi:

– Diễm đang đọc báo ư?

Diễm ngửng lên, đáp nhỏ, giọng hơi run:

– Dạ.

Ngữ tìm được một ý đùa cợt để chuyển hướng câu chuyện:

– Đấy, tình hình khẩn trương như vậy mà cô phó tổng thư ký đặc trách nội vụ ngồi nhà đọc báo, không chịu đi họp với chị em.

Diễm bật cười, xua tay:

– Thôi anh đừng nói chuyện đó nữa. Em từ chức lâu rồi.

– Từ chức à? Sao không thấy báo đăng gì cả?

– Anh nói mỉa em rồi! Em nói thật mà. Bây giờ đã có một chị huynh trưởng Phật tử qua thay thế em.

Ngữ ngạc nhiên:

– Thế còn “bà ngoại” Quỳnh Như ?

Diễm thích thú vì cách gọi của Ngữ, cầm tờ báo lên che mặt cười rúc rúc một hồi, cười đến đỏ mặt. Một lúc sau, Diễm mới nói tiếp được:

-“Bà ngoại”còn hăng lắm. Hồi trưa nó chạy Solex qua rủ em đi họp, em lấy cớ phải ở nhà trông nhà.

Ngữ tò mò hỏi:

– Diễm thôi ngang, Quỳnh Như có buồn không?

– Nó mắng em quá trời.

– Rồi Diễm đáp thế nào?

– Em không dám bảo em nản. Em đổ thừa cho ba. Em bảo Quỳnh Như ba em đe là nếu còn xuống đường biểu dương không lo học, ba từ luôn.

– Quỳnh Như tin lời Diễm không?

– Chắc nó tin. Vì hôm thứ ba tuần trước, anh Tường đến đây tìm anh Ngô em, gặp phải ba, ba “làm” cho một trận.

– Thế à? Bác nói gì thế?

– Nhiều lắm. Nếu anh Tường không giận dữ bỏ về, chắc ba còn nói nhiều nữa. Nhiều điều em không tiện nói lại với anh.

– Ngô có biết chuyện đó không?

– Biết. Vì ngay tối hôm đó, ba lại kêu anh Ngô qua rầy suốt một tiếng đồng hồ. Em cũng bị liên lụy.

Ngữ vừa thích thú vừa tò mò, hỏi Diễm:

– Nếu tối nay gặp bác, bác có…

Diễm cười mỉm, mắt mơ màng:

– Với anh thì… với anh thì em nghĩ ba em ít “cảnh giác” hơn anh Tường. Miễn là các anh đừng tụ họp nhau bên “xưởng vẽ”. Hôm ấy ba dọa sẽ lên ga trả lại kho hàng, nếu…

– Rồi “anh” Ngô đáp sao?

Nói xong, Ngữ căn môi lại để dằn nỗi xấu hổ khi tự mình bắt gặp mình gọi Ngô bằng “anh” theo cách gọi của Diễm. Diễm không chú ý gì, vui vẻ đáp:

– Anh Ngô, anh biết rồi, chỉ lầm lì ậm ừ cho qua. Ba em nghĩ anh ấy vâng lời, bỏ đi ngủ. Thế là tụi em thoát.

Nói xong, Diễm rùn vai lại cười rúc rúc. Ngữ cố tìm vành tai đỏ hồng của Diễm, nhưng mái tóe dài che mất. Diễm vẫn giữ nụ cười trên môi, hỏi Ngữ:

– Ông tướng vùng bị cách chức, chắc ngày mai tụi em khỏi đi học?

Ngữ nhớ không khí sôi nổi ở chùa Diệu đế, bảo Diễm:

– Chắc chắn là sẽ có biểu tình. Nói cho đúng hơn là biểu dương lực lượng, vì sẽ không có cảnh dùi cui lựu đạn cay chờ đón đâu.

– Sao anh biết?

– Huế mấy hôm nay như chỗ vô chính phủ; quân nhân bỏ súng vào tủ khóa lại đi nghe thuyết pháp, cảnh sát biến mất trên đường phố. Chưa biết lúc có trộm cướp hay tai nạn xảy ra, người dân sẽ nhờ đến ai. Cuộc hội họp náo nhiệt rộn rã này, cuộc biểu dương lực lượng sẽ có vào ngày mai, ngày mốt, ngày kia… Chắc chắn là rất êm ả bình thường, nhưng sau đó là gì? “Anh” chịu!

Và lần thứ nhì Ngữ lại giật mình xấu hổ, khi bắt gặp mình xưng “anh” với Diễm.

***

Ngữ về tới trước trường Quốc học thì gặp Ngô và Tường đèo nhau bằng Vespa từ trong cổng trường ra đường Lê Lợi. Ngữ vừa đạp xe vừa ngửa mặt lên trời mơ màng, nên chính Ngô nhận ra Ngữ trước. Ngô gọi lớn:

– Ơ, thằng Ngữ kìa! Ngữ ơi Ngữ!

Ngữ phanh xe lại. Tường rề chiếc Vespa đến gần, bớt ga cho máy nổ êm, hào hứng hỏi bạn:

– Mày ở Diệu đế về sao lại đi ngược lên đây?

Ngữ nói dối:

– Họp xong tao lên Kim long có chút việc.

Tường hỏi cho có hỏi, không chú ý câu trả lời ngập ngừng bối rối của Ngữ. Tường khoe:

– Cuộc họp của tụi tao bên này cũng thành công lắm. Mọi việc xong cả rồi.

Tường quay hỏi Ngô:

– Mày đói không, đi tìm cái gì ăn?

Ngô đồng ý ngay:

– Phải đấy. Qua Lạc sơn chắc còn phở hay bún bò bán khuya.

Tường đề nghị với Ngữ:

– Mày bá vào vai tao để tụi mình qua phố cho nhanh.

Ngữ tiếc giây phút hân hoan lâng lâng sau khi gặp Diễm, từ chối khéo:

– Bà con đi họp về đông thế kia, bá vai mày nguy hiểm lắm.Hay hai đứa mày qua trước, tao sẽ đạp xe qua sau.

Tường định rồ ga vọt đi trước, Ngữ chặn lại hỏi:

– Nhưng này, tìm tụi mày ở đâu?

Ngô đáp thay Tường:

– Cứ đến cái kiosque Lạc sơn, rồi đi tìm chỗ ăn sau.

Nói xong, hai người bạn Ngữ chạy đi. Ngữ hơi lấy làm lạ, thấy hình như Ngô đêm nay có vẻ dễ thương, vui vẻ hoạt bát hẳn lên. Cái bộ mặt lúc nào cũng băng hăng bó hó đăm chiêu bất mãn không còn nữa. Trông Ngô thật dễ thương. Mặc dù… mặc dù Ngô rất ít giống Diễm. Nghĩ tới đó, Ngữ quay sang ngờ vực xét đoán vừa rồi của mình. Hay chỉ vì Diễm mà mình thấy đêm nay mọi sự đổi khác. Gió thì thào âu yếm với lá cây, lá cây ngả nghiêng ve vuốt những cành khô tỏ dấu biết ơn. Và cả những cành cây khẳng khiu cũng biết lặng lẽ chiêm nghiệm nỗi vất vả hy sinh của những chùm rễ âm thầm dưới mặt đất. Bầu trời bao la ôm lấy mặt đất mênh mông. Sao trên trời lưa thưa nhưng sao không cô đơn, vì đêm tối không ngăn được những ánh sao nhấp nháy gửi nhau những tín hiệu thân ái. Cả những ngôi công ốc lặng lẽ bên tay phải đường Lê Lợi, đêm nay, và chỉ riêng đêm nay mà thôi, dường như cũng biết tạm quên những thăng trầm của lịch sử để thay nhau đón đợi Ngữ đi qua như nghênh đón những ông to bà lớn từng nắm vận mệnh của đất nước. Vì Ngữ đã trở thành ông hoàng giầu có và hạnh phúc nhất trong những ông hoàng trên thế gian. Vì Ngữ xứng đáng được vũ trụ bao bọc che chở để đáp lại lòng từ ái bao la Ngữ gửi cho cả vũ trụ.

Ngữ đạp xe thật chậm, đi qua những đám đông tụ họp, đi qua những rộn ràng náo động của một thành phố lên cơn sốt mà như đi qua một khu vườn thượng uyển. Chàng như người tách ra khỏi cuộc sống bụi bặm, và bay được lên khỏi mặt đất như những thiên thần trong tranh Chagall . Mọi vật trước mắt Ngữ chập chờn mộng ảo: một ngả tư sáng sủa, rồi đến một ngả tư rộn rịp, rồi những nhịp cầu sắt, những xe cộ vụt qua ở phần cầu dành cho xe bốn bánh… Tường và Ngô sợ bạn không tìm ra, nên đứng ngay lề đường quán Lạc sơn đợi Ngữ. Chiếc xe Vespa mầu xám bạc của Tường dựng ngay trên lề. Không biết hai người đã bàn gì với nhau trước, mà lúc Ngữ nhấc chiếc xe đạp lên khỏi lòng đường định dựng ghé vào chiếc Vespa của Tường rồi khóa lại, Ngô đã can:

– Mày khỏi cần khóa. Hai đứa tao định thay đổi chương trình, nếu mày chịu, ta đi chỗ khác.

Ngữ hỏi:

– Đi đâu nữa?

Tường đưa ngón tay trỏ nâng gọng kính cận lên, vuốt lại đuôi tóc, rồi mới nói:

– Đêm nay đẹp quá. Định rủ mày đi ngủ đò, mày dám không?

Ngữ liếc nhìn Ngô dọ dẫm. Ngô cười thật tươi:

– Ngủ đò theo kiểu thanh lịch chứ không có gì bậy bạ đâu! Đêm nay bắt đầu một giai đoạn lịch sử mới, một đêm nhớ đời. Tai sao tụi mình không làm cái gì cho đặc biệt để mãi mãi sau này không bao giờ quên được.

Ngữ tò mò nhìn Ngô lâu hơn, không hiểu cuộc họp ở Quốc học hồi chiều diễn ra thế nào mà đột nhiên Ngô bị cuốn hút vào cuộc mãnh liệt đến thế. Tường chờ lâu chưa thấy Ngữ trả lời, nên bảo:

– Hay mày ngại thì thôi. Ăn bún bò rồi về!

Ngữ nhớ đến cách cười của Diễm, nhớ chiếc áo cánh tím và đôi cánh tay nhỏ nhắn của Diễm. Cái nhìn của cả Tường lẫn Ngô có vẻ chế giễu, thách thức. Ngữ nói:

– Ngại cái gì. Mày đi dạy học còn không ngại, huống hồ tao!

Hai người bạn cười lớn. Tường đề nghị:

– Mình lên bến Phú Văn lâu thuê đò đi. Bến Gia hội đông đúc hỗn tạp quá, e bất tiện.

Ngữ được dịp trả đũa: .

– Như vậy là chính mày còn biết sợ gặp học trò. Được rồi. Mình lên Phú Văn lâu!

***

Tường rút ví đưa trước tiền thuê đò rồi mới lại chỗ dựng Vespa lấy hết những thứ cần thiết cho vào cặp xách xuống bến sông. Người chủ đò đến chỗ có ánh đèn sáng đếm đủ tiền, rồi mời ba người bước xuống tấm ván hẹp bắc lên thành đò. Ông lão chừng khoảng sáu mươi, mặc cái quần đùi đen và chiếc áo nhà binh cũ, hột nút cổ không gài, để hở một khoảng ngực ốm nhưng rắn rỏi.

Ngữ xuống sau cùng, đi qua khoang đò dành cho nhà chủ gồm một khoảng hẹp trải chiếc chiếu rách để ngủ, và cái bếp nấu củi lộ thiên. Ngọn đèn dầu lù mù đủ chiếu cảnh bề bộn chiếu gối trong khoang. Một chú nhỏ, có lẽ là cháu ông cụ, đang ngồi bên cây đèn. Ông cụ chủ đò hướng dẫn ba người men theo be đò đi quá sang phía khoang bên kia, phía dành cho khách, ngăn cách biệt hẳn với bên này bằng một tấm vách tre đan. Trong khoang khách tối om, nên ba người ngồi xuống khoảng lộ thiên ở đầu đò.

Chủ đò hỏi:

– Các cậu muốn ngủ gần bờ để dễ ăn uống, hay là ra tận giữa sông?

Ngữ đáp:

– Ra giữa sông, thú hơn cụ ạ!

Nhưng Tường đã kịp thời ngăn lại:

– Ðể quá khuya hãy ra giữa sông. Cụ cho cắm neo gần bờ để tìm cái gì ăn đã!

Thàng bé cháu Ông cụ lặng lẽ ôm qua chiếc chiếu, ba cái gối và cái đèn bão, lặng lẽ chui vào khoang khách trải chiếu ngay ngắn, và móc cây đèn vào một cây đinh đóng ở chỗ vách ngăn. Ánh sáng lù mù của cái đèn bão giúp Ngữ nhận thấy khoang khách sạch sẽ, rộng rãi hơn hẳn khoang phía bên kia. Ngô nói:

– Cụ cho “nhổ neo” được rồi. Nghe như là nhổ neo tàu ra khơi! Sao đò không dùng neo như neo tàu hở cụ?

Ông cụ cười:

– Có sóng gió gì đâu mà dùng neo.

Rồi Ông cụ lớn tiếng bảo cháu:

– Bấc ơi! Mở dây ra đi.

Có tiếng lạch cạch ở be đò. Con đò chòng chành nhẹ, rồi dần dần tách bến. Ngữ hỏi Ngô:

– Sao không đi ăn trước, có phải tiện hơn không?

Ngô ra vẻ thành thạo:

– Ôi chao “lo bò trắng răng”. Ra ngoài kia, người ta chèo thúng ra bán đủ thứ, sợ mày không đủ tiền đó thôi!

Lúc đó Tường đã chui vào khoang nằm dài xuống chiếu. Tiếng Tường vọng ra sau mấy tiếng hắt hơi:

– Sao có mùi khăm khăm thế này?

Lại Ngô thành thạo đáp:

– Ra ngoài kia có gió thổi, hết ngay đấy. Đò nào lại chẳng thế.

Tường hỏi:

– Nhưng mùi gì thế này?

Ngô cười, nói nhỏ không muốn ông cụ nghe thấy:

– Mùi trần tục đấy. Mày vào Sài gòn ở các khách sạn rẻ tiền, cũng gặp cái mùi tương tự. Chi li ra thì là mùi mền gối lâu không giặt, mùi son phấn loại rẻ tiền, mùi mồ hôi trên giấy bạc cũ, mùi mùi…

Ngô cười không nói tiếp. Ngữ thấy Ngô linh hoạt hơn hẳn thường ngày, nhìn Ngô cười lại nhớ cái cười của Diễm. Đột nhiên Ngữ lo âu không biết Ngô có bao giờ vô ý kể lại những vụ ngủ đò như thế này cho em gái nghe không. Ngữ nghĩ có lẽ Ngô không dại dột như vậy, cũng như không bao giờ Ngữ sẽ kể chuyện đêm nay cho Nam nghe, dù là một đêm ngủ đò suông!

Đò ra cách xa bờ khoảng một trăm thước thì dừng lại. Ông cụ và đứa cháu dùng sào cắm đò đứng yên một chỗ. Nước sông Hương chậm chạp đưa đuôi đò quay hướng về phía cuối dòng, và khi đã xuôi chiều, con đò đứng yên, chỉ còn nghe thấy tiếng vỗ nhè nhẹ của những đợt sóng nhỏ vào mạn đò và tiếng lao xao ơi ới từ phía bờ sông. Phía xa kia, xe cộ qua lại trên cầu Trường tiền tạo thành một khoảng sáng cầu vồng. Ngô hỏi:

– Tụi mày muốn tắm không?

Tường từ trong khoang thò đầu ra đáp:

– Ăn cái đã. Từ trưa tới giờ bận quá, chưa có gì trong bao tử hết.

Tường ra hẳn bên ngoài. Vì bạn đã cởi áo sơ-mi và chỉ mặc may- dô quần đùi, nên Ngữ thấy Tường ốm yếu hơn lúc ăn mặc đàng hoàng. Cái kính cận cũng được gỡ ra, trông cái nhìn của Tường ngơ ngác hơn, khuôn mạt xương xẩu hom hem.

Hai ba cái thuyền thúng cặp lại gần. Tiếng chào mời tới tấp:

– Bún bò không các cậu?

– Có bánh ướt thịt nướng đây.

– Các cậu ăn bánh khoái hỉ?

– Chè đậu xanh đậu ván nước dừa bột lọc nì!

Những người bán hàng trên các thuyền thúng đều là những phụ nữ tuổi còn trẻ, khá đẹp bên lò than đặt trên thuyền thúng và dưới ánh cây đèn bão.

Tường nói:

– Tụi mày ăn bánh khoái hay ăn bún? Các chị có bán thuốc lá không?

Ba bốn giọng cùng đáp một lúc:

– Có đấy. Có cả diêm và bia 33 nữa!

Ngô vui mừng nói:

– Cả bia à?

Tường bảo:

– Mày muốn uống bia thì lấy vài chai. Cho tôi bao thuốc Capstan. Không phải loại Quân tiếp vụ. Loại thường đó. Mình ăn bún và chè nhé?

Ngữ và Ngô đồng ý. Hai chiếc thuyền thúng thất vọng tách xa. Chỉ còn lại hàng bún bò và chè. Chị hàng bún hỏi ông cụ chủ đò sau khi chuyển ba tô bún nóng cho khách:

– Chị Huệ đâu rồi bác?

Ông cụ đáp từ phía khoang chủ:

– Huệ nó còn ở trong bờ. Dưới phố bữa ni vui quá hỉ?

– Dạ, vui quá! Nghe nói ngày mai không họp chợ Ðông ba!

– Sao vậy?

– Ngày mai có biểu tình mà bác!

Tường đang ăn, liếc nhìn Ngữ mỉm cười. Ngô hỏi chị hàng bún:

– Mai chị đi không?

– Răng không!

Ngô lại quay hỏi chị bán chè đang đợi khách ăn bún xong mới tráng miệng bằng đồ ngọt.

– Còn chị?

Chị hàng chè cười hiền:

– Các cậu ăn hết chè của tôi, mai tôi mới đi.

– Sao vậy?

– Vì nếu bán không hết, mai lại phải gánh chè đi bán, đi biểu tình ai nuôi con cho.

Tường ngừng ăn nhìn chị hàng chè, một lúc lâu không nói gì. Tự nhiên cả ba người đều im lặng cắm cúi ăn cho hết tô bún, rồi cắm cúi ăn cho hết chén chè đậu xanh. Tường chui vào khoang lấy tiền trả. Ngô đòi lấy nguyên cả sáu chai bia 33 loại lớn, để say một đêm nhớ đời. Tường không cản, lại rút ví trả tiền.

***

Hai chiếc thuyền thúng đi rồi, ông cụ chủ đò đem qua cho ba người bình nước trà đặt trên cái khay nhựa cùng bốn cái tách nhỏ. Đặt khay lên chiếc chiếu xong, ông cụ nấn ná ở lại như muốn nói điều gì. Tường tưởng chủ đò đòi tiền trà, gay gắt hỏi:

– Bao nhiêu?

Giọng ông cụ có vẻ sợ sệt. Giọng nói ngập ngừng, trầm hẳn xuống:

– Không, có tiền nong gì đâu, cảm ơn các cậu. Nhưng… nhưng ăn uống xong, các cậu có cần thêm gì nữa không?

Trong khi Ngữ và Tường còn ngơ ngác, Ngô đã hiểu. Chàng cười lớn, thân mật vỗ vai ông cụ:

– Cụ chịu chơi quá! Chúng tôi ra đây chỉ vì vậy!

Ngữ liếc nhìn Ngô, Tường thì e ngại nhìn Ngữ. Nhưng Ngô không chú ý gì cả, vồ vập hỏi:

– Còn khá không cụ?

Giọng chiều hàng của chủ đò thật nhà nghề:

– Còn phải hỏi. Cậu ngủ đò nhiều, chắc biết khắp bến Phú Văn lâu này không ai qua mặt được cô Huệ: vừa đẹp, vừa chịu khó chiều khách. Tôi đi gọi cô Huệ cho các cậu nhé?

Giọng Ngô có vẻ hách dịch:

– Bao nhiêu một đêm?

Ông cụ cười:

– Tùy lòng tốt của các cậu. Tính riêng từng lần thì rẻ thôi, nhưng cả đêm thì phải năm trăm. Đó là không kể công tôi chèo thúng đi đón giùm các cậu. Nhưng miễn các cậu vui lần sau nhớ thuê đò tôi là đủ, chứ công lao gì.

Ngữ can:

– Thôi, Ngô ơi!

Ngô có uống tí bia, gạt phăng:

– Sao lại thôi! Mày không có tiền, tao bao. Đêm nay là đêm lịch sử, phải có cái gì làm kỷ niệm. Không ai ngủ đò chay cả!

Chủ đò sợ khách đổi ý, đứng dậy nói:

– Các cậu chịu rồi nhé! Để tôi đi kêu cô Huệ, không cô ấy đi với đò khác. Bấc ơi! Tháo đây thúng ra đi con.

Hai ông cháu chèo thuyền thúng vào bờ. Ba người bạn ngồi im một lúc không nói năng. Ngô lầm lì uống bia, Tường hút thuốc lá, lâu lâu ho húng hắng. Ngô uống đến chai bia thứ hai, đột nhiên gắt gỏng với hai bạn:

– Tao chẳng hiểu tại sao tụi mày đạo đức giả thế? Thằng nào cũng muốn thử, nhưng làm như chẳng thích chí lắm. Làm như bị tao ép buộc. Chẳng lẽ tụi bay chưa hề chơi điếm lần nào?

Tường đáp:

– Sao mày nói vậy! Chơi thì chơi, có gì đâu phải quan trọng hóa!

– Nhưng sao mày không nói gì hết?

– Đây là chuyện giải quyết sinh lý, như là ăn, uống, thở, bài tiết. Có gì đâu phải nói!

Ngô quay sang Ngữ:

–  Còn mày?

Ngữ không dám nói thật rằng chàng cảm thấy có tội với Diễm, cảm thấy chuyện chơi bời đêm nay, tiếp theo sau những gì chàng đã nói với Diễm, có vẻ bất ổn. Cho nên Ngữ chỉ nói:

– Tâm hồn người ta đâu phải là những ngăn kéo biệt lập, đóng ngăn kéo này thì cứ tự nhiên kéo ngăn khác.

Ngô bực:

– Mày nói cái gì không ai hiểu cả! Tao hỏi đơn giản thôi: Chút nữa mày dám chơi không?

Ngữ tức, trả lời:

– Sao lại không!

…Có tiếng va chạm nhẹ nơi đầu đò, chiếc đò khẽ rung động. Cả ba người im lặng chờ cụ chủ đò lên tiếng, nhưng chờ mãi chỉ nghe tiếng chân bước lên đò, tiếng động nhỏ bên khoang chủ. Vài phút im lặng, rồi một dáng đàn bà theo be đò đi lần sang phía khoang khách. Ngô lúc nãy hăng hái như vậy nhưng lúc này lại không nói gì, chỉ ngửng lên nhìn chăm chăm cô gái điếm chưa rõ mặt. Tường vất điếu thuốc đang hút dở xuống sông, lên tiếng trước:

– Cô ngồi xuống đây đã. Ông cháu chủ đò đâu rồi?

Cô gái khép nép ngồi xuống thành đò, giọng hơi run:

– Họ ở lại bờ. Chút nữa xong em vào cho họ ra!

Ngô lấy đủ bình tĩnh hỏi:

– Cô tên Huệ phải không?

Cô gái ngỡ ngàng một lúc, và sực nhớ điều gì, hấp tấp xác nhận:

– Dạ, em tên Huệ.

Rồi hỏi:

– Cả ba anh cùng “đi” phải không?

Ngô sợ hai bạn giành lời, nói liền:

– Phải. Cả ba.

Cô gái cười, quay mặt vào khoang xem thử mền chiếu đã xếp đặt chưa. Nhờ thế, Ngữ thấy cô điếm không còn trẻ lắm. Khuôn mặt khá đẹp nhờ đôi môi nhỏ và đôi mắt lớn, tuy cái mũi không được thanh tú. Cô gái đưa mắt dò dẫm ba ông khách trẻ tuổi, hơi thắc mắc vì chưa thấy ai chịu chui vào khoang trong. Thấy Tường với tay rút một điếu thuốc khác, cô gái nói:

– Anh cho em xin một điếu!

Tường chìa cả bao Capstan cho cô gái. Cô ta đập nhẹ bao thuốc vào ngón trỏ bàn tay trái để một điếu thuốc ngoi ra khỏi bao, dáng hết sức thành thạo. Ngô bật lửa cho cô gái mồi thuốc. Ánh lửa Zippo đủ soi thêm đôi gò má cao có dồi phấn hồng, và những vết bầm cạo gió quanh chiếc cổ ốm.

Hút xong hai hơi thuốc, cô gái không kiên nhẫn được nữa, hỏi thẳng:

– Anh nào đi trước?

Ngô nhanh nhẹn đứng dậy:

– Vào với anh trước đi.

Cô điếm chưa chịu vứt điều thuốc đang hút, ngửng lên hỏi:

– Xin anh cho tiền trước. Ông cháu nhỏ đã cho biết giá chưa?

Ngô đáp:

– Năm trăm một đêm phải không? Còn từng lần thì bao nhiêu?

– Anh cho một trăm.

Ngô lục túi lấy tiền. Lục túi quần bên phải không có. Bên trái cũng không. Tường sắp lấy ví thì Ngô nhớ ra tiền để ở túi áo, kẹp lẫn trong mấy tờ giấy mỏng Ngô vẫn mang theo để lúc hứng phác thảo những mẫu họa thoạt đến. Cô gái chui vào khoang trước hạ nhỏ tim cái đèn bão, rồi đưa tay lên nóc đò mở dây thả tấm màn che xuống.

Comments are closed.