Bùi Bắc
Vài ngày nữa là giỗ cha tôi, ông Bùi Châu (1903-1981).
Tết năm 1974, tôi qua nhà hàng xóm chúc tết. Ông Đoan, một vụ trưởng của Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chỉ tôi giới thiệu với khách: “Bố anh này kết nạp ông Lê Duẩn vào Đảng”. Ngạc nhiên, về nhà tôi hỏi: “Có phải cha kết nạp ông Duẩn vào Đảng không?”. Cha tôi mỉm cười: “Chuyện là thế này. Năm đó ông Duẩn tròn 20 tuổi, làm bên đường sắt. Là một thanh niên yêu nước, muốn tìm đến Đảng, nhờ người giới thiệu, ông Duẩn tìm đến cha, lúc đó cha đang làm bí thư tỉnh ủy bí mật Quảng Nam, làm việc ăn lương ở Sở Bưu điện Tourane [nay là TP Đà Nẵng]. Thấy ông Duẩn chân thành, nhiệt huyết, cha rất quý và sốt sắng muốn kết nạp ông vào Đảng. Nhưng những người khác không chịu. Họ nói anh này thuê nhà trọ ở cùng với một người có cha là tri huyện. Nếu ông Duẩn tham gia thì tổ chức sẽ bị lộ. Sau đó, ông Duẩn gia nhập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, một tổ chức khác của Cộng sản.”
Thực ra thì cha tôi cũng chẳng giúp được gì nhiều cho ông ngoài giới thiệu, giải thích lý tưởng của Chủ nghĩa Cộng sản. Việc ông giữ một tình cảm tốt đẹp, giúp đỡ nhiệt tình sau này có lẽ vì cha tôi là người cộng sản đầu tiên ông ấy gặp, có cái gì đó để ông ấy quý mến.
Ở nhà trường, học lịch sử, thấy nói ông Trần Phú là Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi tưởng ông Trần Phú là ghê gớm lắm. Những năm 1970, ông Đào Duy Anh hay đến chơi thăm cha tôi. Có lần, tôi hỏi: “Có phải ông Trần Phú kết nạp bác với cha cháu vào Đảng không?”. Ông Đào trả lời: ”Không phải. Ông Trần Phú, cha cháu và bác thì cũng chỉ là một lứa thanh niên đầu tiên tham gia Hội yêu nước Phục Việt. Hội này lớn mạnh nhanh chóng, sau nhiều lần đổi tên, tháng 7 năm 1928 thì tổ chức Đại hội, đổi thành Tân Việt Cách mạng Đảng, bác được bầu làm Tổng bí thư. Ông Trần Phú, năm 1927 được cử đi học Đại học Đông phương ở Liên xô, năm 1930 ông về làm Tổng bí thư đầu tiên Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1927 cha cháu cũng được cử đi học như vậy nhưng vì đã lấy vợ, có con một tuổi nên sau khi suy nghĩ kỹ cha cháu từ chối vì không muốn xa vợ con”.
Tân Việt Cách mạng Đảng tập hợp các trí thức, phần là lớn giáo viên, công chức, có cả những trí thức nổi tiếng như Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Đặng Thai Mai… Tân Việt Cách mạng Đảng chủ trương “Đánh đổ đế quốc, xây dựng một xã hội bình đẳng, bác ái…”.
Cha tôi, chẳng tài giỏi gì hơn ai nhưng vì làm việc ở bưu điện nên rơi ngay vào tầm ngắm của các thủ lĩnh phong trào yêu nước mà trở thành một trong những người Cộng sản đầu tiên. Cha tôi làm nhiệm vụ nhận và phân phối sách báo, tài liệu gửi từ hải ngoại về chủ nghĩa Mác, bao gồm cả báo “Nhân Đạo”, “Người cùng khổ”, v.v. Có lần tôi thấy trong quyển lý lịch một tờ giấy chữ đẹp viết nắn nót, ký tên Đào Duy Anh, chứng nhận rằng năm 1928, khi ông Đào Duy Anh là Tổng bí thư thì cha tôi được Bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Tân Việt Cách mạng Đảng.
Tân Việt Cách mạng Đảng nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác, tôn Nguyễn Ái Quốc làm lãnh tụ… nhưng vì thành phần chính là trí thức cho nên không phải ai cũng có thể tiêu hóa nổi cái học thuyết đấu tranh giai cấp quái gở. Trong Đảng có nhiều tranh luận. Năm 1929, Tân Việt Cách mạng Đảng chia làm hai phái, một phái thành lập Liên đoàn Việt Nam, chỉ đấu tranh giải phóng đất nước. Phải thứ hai thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn tiếp tục con đường chủ nghĩa Mác-Lê.
Lịch sử Đảng nói ông Trần Phú là Tổng bí thư đầu tiên đầu tiên (1930) là không công bằng. Ông Đào Duy Anh mới là Tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam (1928). Nhưng ông Đào Duy Anh chưa phải là người thiệt thòi nhất. Người thiệt thòi nhất là ông Trần Mộng Bạch, tên thật Trần Đình Thanh, sinh 1903, quê thị xã Hà Tĩnh. Năm 1925 tại Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc, tuyển chọn 9 thanh niên yêu nước từ Tâm Tâm Xã của Phan Bội Châu, thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xem là tổ chức Cộng sản yêu nước đầu tiên. Gần như đồng thời, tại Vinh, một tổ chức yêu nước hoàn toàn tương tự như vậy, lấy tên Hội Phục hưng Việt Nam, gọi tắt Phục Việt, được thành lập, hội trưởng là Trần Mộng Bạch. Là một trong những nhân vật chủ chốt của Tân Việt sau này, năm 1930, ông Trần Mộng Bạch bị Pháp bắt, bỏ tù, ba năm sau được thả, về đến nhà thì ông mất, có lẽ vì tra tấn quá dã man? Công lao của nhà cách mạng này đương nhiên, chưa thể so sánh với Nguyễn Ái Quốc nhưng tôi nghĩ, ít ra cũng phải đặt ngang tầm với Trần Phú, Lê Hồng Phong… Vậy mà Đảng ta dường như lãng quên nhà cách mạng đáng kính này. Một bài báo Tiền Phong cho tôi biết, ông được chôn dưới một nấm mồ đất đắp sơ sịa, không có bia. Con cháu ông sống nghèo nàn, nheo nhóc. Đến tận năm 2010 nhà nước mới chịu công nhận ông là… liệt sỹ. Cũng như nhiều triệu người khác, cái bằng Tổ quốc ghi công cũng chẳng cứu được gia đình họ khỏi hoàn cảnh nghèo khổ.
Do một số giáo viên ở Vinh bị Pháp bắt khai ra, cũng như ông Trần Mộng Bạch cha tôi bị bắt năm 1930. Mặc dù kiên quyết không khai báo, nhưng do người khác đã khai ra, cha tôi vẫn bị kết án ba năm tù, là một trong những người tù lâu nhất của Tân Việt hồi đó (theo quyển lý lịch cán bộ).
Năm 1933 ra tù, vẫn trong thời kỳ khủng bố gắt gao, cách mạng gọi là thoái trào, cha tôi lặng lẽ về Kỳ Anh, huyện xa nhất của Hà Tĩnh, bắt đầu sinh sống làm ăn ở đó cho đến năm 1954.
Ông Đào Duy Anh vào tù sớm hơn cha tôi một chút. Ra tù, ông lao vào nghiên cứu khoa học xã hội. Trong những năm ba mươi, ông biên soạn một bộ từ điển Pháp-Việt lớn, hai tập, rất được ưa chuộng. Mãi đến tận năm 1975, sách này vẫn được tái bản nhiều lần và sử dụng rộng rãi ở miền Nam Việt Nam. Năm 1956, đang là giáo sư đại học ở miền Bắc, ông Đào Duy Anh có bài phỏng vấn về mở rộng dân chủ, đăng trên tạp chí Nhân văn. Có lẽ vì thế, người ta cho ông có vấn đề về tư tưởng, có liên quan đến Nhân văn – Giai phẩm, bộ từ điển Pháp Việt của ông không được lưu hành ở miền Bắc Việt Nam. Thay vào đó họ tuyển chọn 20 người, được Đảng tin cậy về mặt tư tưởng cùng chung tay biên soạn từ điển Pháp-Việt mới. Than ôi, hơn 20 năm mà 20 trí thức lớn vẫn chưa biên soạn xong một quyển từ điển! Trong khi một mình ông Đào Duy Anh chỉ mất bốn năm là có bộ từ điển tuyệt vời! Trong thập niên 80, tôi không nhớ năm nào, cuốn sách được xuất bản. Nó bé tẹo! Nhưng vấn đề không phải ở đó. Vừa phát hành, cuốn từ điển đã bị thu hồi vì có một lỗi sai nghiêm trọng, làm nên sự kiện xuất bản nỏi bật. Moldova thời đó đường đường là một nước Cộng hòa trong Liên bang Xô viết mà các tác giả được cho là trí thức cách mạng lớn lại viết là một phần đất của Romania! Để khắc phục lỗi lầm này, đội ngũ biên tập viên chúng tôi từ các Nhà xuất bản trên địa bàn Hà Nội, thay nhau từng tốp được triệu tập chỉ để ngồi bệt trên sàn nhà dán mảnh giấy con: “Moldova là một Cộng hòa trong Liên bang Xô viết” vào trang có chỗ sai. Không kể di sản nghiên cứu đồ sộ, chỉ riêng quyển từ điển cũng đủ làm cha con chúng tôi kính nể ông Đào. Lạ là ông chỉ có cái bằng thành chung (diplôme), tương đương với cấp 2 bây giờ. Cộng sản không ưa người tài, gây khó dễ cho họ, nhưng lại đề bạt và cấp bằng giáo sư, tiến sỹ ào ào cho rất nhiều người không đủ tài, đức, khiến khoa học không thể ngóc đầu lên được.
Tuy mỗi người một nơi nhưng ông Đào và cha tôi thỉnh thoảng vẫn thư từ thăm hỏi nhau. Năm 1956, biết ở Nghệ-Tĩnh Cải cách ruộng đất tiến hành tàn khốc, thương bạn, ông gửi thư cho cha tôi, nói Hà Nội nhà đang rẻ do có nhiều người di cư vào Nam, bàn cha tôi đưa cả gia đình ra Hà Nội sống. Ông nói thêm là sắp xuất bản một bộ sách lớn, ông sẽ dùng một phần nhuận bút mua cho cha tôi một căn nhà để ở. Lúc đó cha tôi còn bốn người con đang đi học, với lại cũng đã già, ngại rời quê hương, nên từ chối. Còn bộ sách của ông Đào (hình như về Lịch sử) cũng không được xuất bản do người ta không ưa ông.
Buổi sáng cuối cùng của cha tôi trong bệnh viện Việt Xô, ông Đào ngồi miết cùng với mẹ và bảy chị em chúng tôi, quây quần quanh giường bệnh của cha tôi. Lúc ra về, ông đưa cho tôi một mảnh giấy nhỏ, chữ nắn nót, chép bài thơ bốn câu. Thơ rằng:
Mừng anh nhẹ bước ngoài tro bụi,
Tôi vẫn loay hoay với kiếp người.
Anh hết nổi chìm trong bể khổ.
Tôi còn nặng gánh sầu muôn đời.
Đào Vệ Thạch bái khốc
Ngày đó đã cao tuổi, đi phải chống gậy, ông vẫn theo xe tang tiễn đưa ông bạn già đến tận nơi yên nghỉ cuối cùng. Ông mất năm 1988, sau cha tôi 7 năm, cũng an táng tại khu A nghĩa trang Văn Điển, cách mộ cha tôi vài bước, cũng gần với mộ của vợ chồng Lưu Quang Vũ. Mỗi lần đi thắp hương cho cha tôi, tôi đều thắp hương cho hai ngôi mộ này. Sau, các con đã dời mộ ông về Hà Đông để quy tụ với gia đình, họ hàng.
Ông Đào muốn cha tôi chuyển ra Hà Nội mà không thành nhưng một người khác lại làm được việc này. Người đó là Tổng bí thư Lê Duẩn. Năm 1965, Mỹ đẩy mạnh chiến tranh leo thang, Hà Tĩnh rung chuyển dưới tiếng gầm rú của máy bay phản lực và bom đạn. Cán bộ và toàn dân rời thị xã về nông thôn, sống cùng nông dân. Năm 1966, nhà tôi và nhiều nhà khác ở thị xã bị cháy trụi. Biết rõ tình hình này, Tổng bí thư Lê Duẩn bảo cha tôi ra Hà Nội. Lúc này đã 63 tuổi, cha tôi hoàn tất thủ tục nghỉ hưu ở Hà Tĩnh. Ông Duẩn thu xếp cho cha tôi làm một cán bộ nghiên cứu ở Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Cơ quan mới cấp cho cha tôi một căn hộ nhỏ trong khu tập thể Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tại 52 Quán Sứ, Hà Nội.
Trong thời gian ở Hà Nội, mỗi lần ốm nặng, ông Duẩn đều đến thăm cha tôi, cho nên hàng xóm mới nói như trên. Có lần, trong bệnh viện Việt Xô, đứng giữa đám người nhà và một số y bác sỹ vây quanh, ông Duẩn nói: “Tôi luôn luôn xem anh chị Bùi Châu như anh chị ruột của tôi”. Tết năm 1984, tôi chở mẹ tôi đến chúc Tết ông Duẩn tại nhà riêng. Lúc tiễn chúng tôi, ông cũng nhắc lại đúng câu này với những người khách khác.
Tại đám tang, người đầu tiên vào viếng cha tôi là Tổng bí thư Lê Duẩn với một vòng hoa cá nhân ghi tên ông và một vòng hoa to hơn có dòng chữ “Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam kính viếng”.
Sau này, dù ai nói gì đi nữa thì chúng tôi cũng hết sức kính trọng ông vì tình nghĩa đối với bạn bè thủa hàn vi và vì cách hành xử kiên quyết với Tàu Cộng của ông. Ngoải ra, ông còn một số điểm đáng nể khác. Sau đám tang, bà Nhâm, cùng cơ quan nói: “Bắc khiêm tốn thật, trước đây, ở cơ quan chưa ai biết là gia đình có mối quan hệ với ông Duẩn.”
Có lần, ông Trần Hậu Toàn đến chơi thăm cha tôi, ôn lại câu chuyện bà Trần Thị Loan, em gái ông Trần Phú, cùng hoạt động trong Tân Việt Cách mạng Đảng. Nghe tin bà định lấy một ông tri huyện, một số người đề nghị với tổ chức thủ tiêu bà này. Cha tôi ngăn lại, nói: “Bà Loan đã gặp tôi, trình bày: Đã muộn chồng, là nữ nên cũng lo nghĩ. Nay có người hỏi, nên muốn xin phép tổ chức cho thôi công tác. Bà hứa quyết không để lộ bí mật của Cách mạng.” Sau bà đã giữ đúng lời hứa. Tháng 5-1976, cha tôi theo máy bay chuyên cơ cùng ông Mười Cúc (Nguyễn Văn Linh), vào Sài Gòn để thăm lại bà con và bạn bè sau nhiều chục năm xa cách. Cha tôi có đi Nha Trang gặp vài người bạn từng cùng hoạt động, trong đó có bà Loan. Bà có hai người con trai, một là đại tá phi công ở Angiêri, người kia là tiến sỹ thần học làm việc ở tòa thánh Vatican. Tội nghiệp cho ông anh trai Trần Phú, chết năm 27 tuổi, chưa vợ con, chưa có dịp để nhìn thấy sự nghiệp mà mình trọn đời cống hiến đi về đâu!
Mùa hè năm 2020, tôi về thăm lại nơi chôn rau cắt rốn. Nghe nói, ông Hiền được xem là nhân chứng sống của lịch sử cách mạng huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Các nhà báo về huyện thường đến gặp ông. Tìm đến nhà, lúc này ông đã 95 tuổi, nằm liệt gường, nhưng còn minh mẫn lắm. Ông nói: “Ông Bùi Châu. Tôi nhớ rồi, ông Châu thời kháng chiến chống Pháp làm chủ tịch ủy ban huyện Kỳ Anh, sau hòa bình ra làm phó ty y tế trên tỉnh. Ông này có một điểm rất lạ là suốt mấy chục năm ở huyện rồi lên tỉnh chưa hề có ai biết là ông đã từng hoạt động cách mạng trước 1930. Mãi đến đầu những năm 60, Tổng bí thư Lê Duẩn về Hà Tĩnh tìm đến nhà ông, người ta mới bắt đầu tìm hiểu về ông. Hóa ra ông từng là một trong những người đầu tiên hoạt động cách mạng.” Cũng như cha, anh chị em chúng tôi đều không khoe chuyện hoạt động của cha. Có thể vì kém cỏi nhưng cũng có thể vì không khoe khoang mà chúng tôi không có ai làm to.
Về việc cha tôi giấu kín hoạt động cách mạng, trong khi những người khác thường khoe khoang, thậm chí thêm thắt vào, khai man, để hưởng bổng lộc, anh chị em tôi đều cho là do ông khiêm tốn. Riêng tôi lại có ý kiến khác. Trước năm 45, giữ kín chuyện đó là giữ an toàn cho bản thân, nhưng sau Cách mạng tháng Tám, nhất là từ khi hòa bình lập lại thì sao?
Mặc dù trong cuộc đời ông chưa bao giờ có một câu chê Đảng, cũng chưa bao giờ khen Đảng. Qua một số mẩu chuyện, tôi trộm nghĩ, có lẽ cũng như ông Đào Duy Anh, cha tôi đã sớm nhận ra cái gì đó không ổn trong học thuyết của Cộng sản. Cha tôi trung thành tuyệt đối với Đảng, quyết không khai báo với địch nhưng tôi nghĩ là từ những năm trong tù, ông đã bắt đầu nhìn thấy cái gì đó.
Có lần ngồi xem TV, thấy cảnh người Cộng sản kiên cường chịu đựng tra tấn, tôi nhác thấy ông cười mỉm. Tôi hỏi: “Thế nào cha, người Cộng sản có bất khuất như vậy không?”. Cha tôi trả lời: “Cũng tùy người thôi, cũng có những kẻ hèn nhát, khai đấy”. “Thế cha sao? Cha có khai không?” Cha tôi trả lời: “Không, Không bao giờ. Cha chịu được đòn”. Sau đó, có lần xem trộm lý lịch của ông, thấy kể ông bị bắt là do vài Đảng viên ở Vinh bị bắt trước đó khai ra. Phải chăng vì cái mà cha tôi gọi là chịu được đòn mà sau này có hai Tổng bí thư quý trọng cha tôi như vậy?
Những năm 70, thấy ông Đào gay gắt phê phán Cộng sản, cha tôi ngồi yên lắng nghe, không hề phản ứng. Có lần cha tôi định có ý kiến riêng, đang hăng ông Đào ngắt lời, nói như quát: “Việc này ông không biết thì ngồi im, người ta nói cho mà nghe!” Cha tôi không tự ái, tiếp tục lắng nghe. Một lần, ông Đào nói với tôi, cha tôi cũng ngồi cạnh: “Thời đó cha cháu và bác nghĩ về chủ nghĩa cộng sản như một người con gái đẹp lộng lẫy. Bây giờ nó là một con đĩ già”. Dạo đó, tôi cũng đã có những câu nói khá “phản động”. Vài lần nghe xong, cha tôi phẩy tay: “Mày là thằng phản động. Không chấp!”. Nói vậy, nhưng ông cũng cười hiền hậu và không ghét bỏ gì tôi.
Tôi có nhiều giấy khai sinh, một bản chép tay và nhiều bản đánh máy. Bản chép tay tên Bùi Văn Bác mà các bản đánh máy lại là Bùi Bắc. Văn Bác có nghĩa là uyên bác nhưng vì không hiểu, mấy bà chị tôi phản đối: “Bác với chả chú! Cha định bắt người lớn cũng phải gọi nó bằng bác à?”. Có lẽ cũng giống như tôi, cha tôi thỉnh thoảng có những ý tưởng hay nhưng lại nghe người khác nên bỏ phí mất. Tôi đi học lớp 1 với cái tên Bùi Bắc. Trong lớp có một số thằng nghịch ngợm, xuyên tạc Bùi Bắc thành Bò Bắc. Mà dân Hà Tĩnh hồi đó, thay vì nói đi ăn thịt chó thì họ lại nói là ăn thịt Bò Bắc. Quán thịt chó thì treo biển “Thịt Bò Bắc”. Bò Bắc là con chó. Tôi ấm ức, không muốn đi học nữa. Năm tôi học lớp một cũng là vừa sửa sai xong, cha tôi được đi điều dưỡng ở Thanh Hóa trước khi về nhận công tác mới, tôi ở với anh rể và chị gái thứ ba ở thị xã Hà Tĩnh. Anh rể tôi lúc đó mới 32 tuổi mà đã là Hiệu phó trường cấp 3 Phan Đình Phùng, được xem là trung tâm văn hóa của tỉnh. Thấy tôi trốn học, lại chứng kiến một ông bạn đứng trước cửa, réo: “Bò Bắc! Bò Bắc!…”, anh rể tôi viết một bức thư, bảo tôi đem chuyển cho thầy giáo. Chữ người lớn khó đọc nên tôi không hiểu nội dung bức thư ngoài đọc được chữ Bùi Việt Bắc trong thư. Từ đó thầy giáo bắt đầu gọi tôi là Bùi Việt Bắc và trong sổ điểm của thầy cũng ghi tên này. Tôi mang tên này cho đến tận bây giờ và tất cả các giấy tờ tùy thân ở Việt Nam cũng như ở Úc đều là Bùi Việt Bắc, dù tôi không thích. Tôi thích nhất là cái tên cha tôi đặt lúc đầu.
Người Đảng Cộng sản Việt Nam ai cũng biết Việt Bắc là quê hương cách mạng. Vậy mà khi biết tên tôi đổi thành Việt Bắc, cha tôi không hề vui vẻ. Trầm ngâm một lúc, ông nói: “Thôi, coi như con đặt tên theo tên quê. Có nghĩa là phía Bắc xã Phù Việt”. Còn vài mẩu chuyện nhỏ khác nữa khiến tôi tin là ông không còn coi lý tưởng Cộng sản thiêng liêng như đối với hầu hết người Đảng Cộng sản Việt Nam thời đó.
Khoảng 15-17 năm sau khi mất, cha tôi được nhà nước truy tặng Huân chương độc lập hạng Nhì. Thời kỳ này đã nghe người ta nói nhiều về “chạy huân chương”, có nghĩa là phải chi tiền nếu muốn có huân chương. Nhà tôi không mất xu nào. Có lẽ nếu chạy, có khi được huân chưng Độc lập hạng nhất cũng nên?
Tôi chào đời khi cha tôi đã 44 tuổi nên không biết hồi trẻ ông thế nào. Nếu ông từng học giỏi như có vài người nói thì chắc ông cũng chỉ là người bình thường, không có tài năng gì đặc biệt. Có điều tôi có thể khẳng định là cha tôi trung thực, thủy chung. Có lẽ nhờ hai đặc điểm này mà ông giữ được đến cuối đời tình cảm của hai người bạn lớn như vậy. Nhưng trên tất cả, ông từng là người chồng, người cha, người ông yêu thương chúng tôi. Xin kính cẩn thắp một nén hương.
Bố mẹ tôi
Năm 1969, ông già được Nhà nước cho đi nghỉ mát ở Yalta, Ucraine thì mới được mặc bộ com lê để chụp ảnh với con chứ ở nhà thì lấy đâu ra tiền!
Tổng bí thư Lê Duẩn đến viếng cha tôi.
Tết 1984, mẹ tôi bảo tôi đèo đến chúc Tết ông Duẩn. Hai mẹ con được xếp đầu tiên, 9 giờ sáng ngày mùng 1 Tết vào chúc Tết.