Tác giả: Richard Seymur
Việt dịch: Nguyễn Quang A
Nhà xuất bản Dân Khí-2025
6. Sự Diệt chủng: Bị Che khuất trong Bóng tối
Hãy tưởng tượng tôi cảm thấy mạnh mẽ đến thế nào mọi lúc … Tôi có thể đá vào đầu bất cứ ai và không ai nói cả. Tôi có thể làm mọi thứ tôi muốn. Bạn không còn bị luật kiểm soát nữa; bạn cảm thấy bạn là luật. Cứ như vào thời khắc bạn chuyển từ Israel sang Gaza bạn là luật, bạn là Chúa.
– Lính Israeli, mô tả vai trò của anh trong việc đàn áp phong trào Intifada thứ Nhất1
Chúng tôi đưa ra ý kiến rằng các tội bị buộc tội chống lại loài người đã bị vi phạm như phần của một cuộc tấn công rộng rãi và có tính hệ thống chống lại dân thường Palestin theo chính sách Nhà nước. Các tội này, theo đánh giá của chúng tôi, tiếp tục đến ngày này.
– Tòa án Hình sự Quốc tế, lệnh bắt thủ tướng Benjamin Netanyahu và bộ trưởng quốc phòng Israeli Yoav Gallant2
I.
‘Khu phố của tôi bị phá hủy,’ Mahmoud bảo đồng nghiệp của ông tại tổ chức Trợ giúp Y tế cho người Palestin (Medical Aid for Palestinans), Rohan Talbot, vào cuối tháng Mười 2023. ‘Một tên lửa duy nhất đánh trúng một nhà trong khu mà không có cảnh báo nào và phá hủy nó hoàn toàn. Ít nhất mười người bị giết kể cả trẻ em. Khu phố của tôi đầy màu xám. Tôi ghét màu xám bây giờ.’3
Vào những buổi sáng sau các đêm sấm sét và gào thét, như đoạn phim được quay từ drone cho thấy, Gaza quả thật là một mảnh đất trời đánh thánh vật và bị chai-đầy sẹo của màu xám tro, màu xám nhựa đường, màu xám kim loại súng, màu xám phốt pho trắng, màu xám khói và màu xám thể xác xóa đi tất cả cuộc sống và màu sắc. Những dãy khối căn hộ đã biến thành những đường đá vụn, xỉ và muội bốc khói được tạo thành từ những cơn gió cuốn của ngọn lửa bay cứ như chào mừng bốn kỵ sĩ, và ngay cả không khí cũng xám mùa đông trong ánh nắng rực sáng khi khói giống những bóng ma thoát ra khỏi cảnh tàn sát khủng khiếp mới được hình thành.
Vào cuối tháng Mười 2023, 45 phần trăm nhà ở tại Gaza đã bị sự ném bom của Lực lượng Phòng Vệ Israeli (IDF) phá hủy hoàn toàn hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng. Hầu hết nhà ở đó là ở miền bắc Gaza, mà dân cư của nó bị Israel ra lệnh chạy trốn với tài sản ít ỏi xuống phía nam của Wadi Gaza, có nghĩa rằng giả như những người bị đuổi có bao giờ được phép quay lại thì nhà của họ sẽ không còn tồn tại nữa. ‘Mỗi vài dặm,’ trưởng văn phòng đại diện của tờ báo tại Jerusalem Steve Hendrix tường thuật trên tờ Washington Post về một chuyến đi giữa đêm đến miền bắc Gaza, ‘mùi hôi thối của những xác chết đang phân rã bốc lên với bụi. Hàng ngàn người vẫn được tin bị chôn trong đống đổ nát.’ Vào cuối tháng Mười Hai, gần 70 phần trăm nhà ở đã bị phá hủy.4
Những người được tìm lại được vô hồn từ đống đổ nát, được nâng trong tay của những người lớn không biết tên của họ, bị rám da trong bụi bạc từ trán đến chân. Toàn bộ thế giới bị xóa sổ. Hai phần ba của hơn 14.000 người bị giết vào cuối tháng Mười Một, một con số không bao gồm 4.100 người được ước lượng bị chôn vùi dưới đống đổ nát, đã là phụ nữ và trẻ em. Vào tháng Giêng 2024, số của những người chết được biết đã lên đến 23.000, khoảng 1 phần trăm của toàn bộ dân cư Gaza: số này hầu như bằng số người Rohingya bị giết trong ba tháng một cách diệt chủng ở Myanmar trong hai năm.
Trẻ em ở Gaza bị giết nhanh hơn nhiều bậc so với ở Syria dưới bom của Assad, ở Ukraine dưới bom của Putin, hay ở Afghanistan dưới bom Mỹ. Trong ba mươi ngày ném bom đầu tiên, các lực lượng Israeli đã giết 4.100 trẻ em, so với 510 bị giết trong hai mươi mốt tháng của chiến tranh của Nga ở Ukraine. Những người sống sót đã thường độc nhất theo dòng máu của họ, khi toàn bộ các gia đình mở rộng bị xóa sổ, tạo ra một từ viết tắt mới, làm nhục-loài người, WCNSF: ‘wounded child, no surviving family (trẻ em bị thương, không gia đình sống sót).’5 Tổ chức UNRWA (Cơ quan Cứu trợ Công việc LHQ), được thành lập như một cơ quan tạm thời trong năm 1949 để xử lý những người tị nạn Palestin, đã phản đối: ‘Số người bị giết rất đáng kinh ngạc, nó không thể là thứ yếu. Một sự ngừng bắn là quá chậm cho nhân loại.’6
Nó đã không là thứ yếu. Vì trong khi media tiếng Anh phần lớn đã duy trì một omerta (luật im lặng) nghiêm ngặt về việc ghi nhận những gì đang xảy ra, thì chiến tranh chống lại thường dân Gaza đã được các bộ trưởng và các lãnh đạo quân sự Israeli quảng cáo. Những người Palestin, bộ trưởng quốc phòng Israeli Yoav Gallant nói khi ông công bố một cuộc bao vây Gaza đầy đủ, bị cắt thực phẩm, nước, điện và nhiên liệu, là ‘các con vật người’. Bộ trưởng năng lượng Israel Katz dùng cùng từ trong việc biện minh sự trừng phạt tập thể những người Gaza. Tổng thống Israeli Isaac Herzog khăng khăng rằng ‘một toàn bộ quốc gia’ có lỗi vì các hành động của Hamas, và rằng ý tưởng về ‘các dân thường không biết, không dính líu đến’ là ‘hoàn toàn không đúng’. Ariel Kallner, một thành viên của Knesset (Quốc hội) Israel thuộc đảng Likud của Thủ tướng Netanyahu, đã kêu gọi một ‘Nakba’ (thảm họa) khác nữa chống lại những người Palestin, lặp lại tội ác của năm 1948 trong đó khoảng 750.000 người Palestin đã bị thanh trừng sắc tộc. ‘Ngay bây giờ, một mục tiêu: Nakba! Một Nakba làm lu mờ Nakba 48.’ Một chính trị gia Likud khác, Tally Gotliv, kêu gọi dùng vũ khí hạt nhân chống lại dân cư không được bảo vệ của Gaza: ‘Hãy bắn Tên lửa vào Jericho! … Vũ khí ngày tận thế!’ Bà kêu gọi ‘nghiền nát và san phẳng Gaza … Không thương xót! Không thương xót!’ Một quan chức quốc phòng Israeli nặc danh đã báo cáo rằng Gaza sẽ trở thành ‘một thành phố toàn lều’ nơi ‘sẽ không có tòa nhà nào cả’.
Cố vấn của Sara Netanyahu (vợ Thủ tướng Benjamin Netanyahu), Tzipi Navon, nói sẽ không đủ để ‘san phẳng Gaza’. Bất kể ai bị nghi dính líu đến cuộc tấn công của Hamas nên phải bị rút móng tay và móng chân của họ ra, bị cắt bỏ bộ phận sinh dục của họ và lưỡi và mắt của họ để dành lại cuối cùng ‘như thế chúng ta có thể khoái tiếng la hét của hắn’, ‘như thế hắn có thể nhìn thấy chúng ta mỉm cười’, ‘Gaza cần trở thành Dresden, đúng!’, như chính trị gia Israeli cực-hữu Moshe Feiglin rống lên trong một phỏng vấn truyền hình. ‘Đốt thành tro hoàn toàn, không hy vọng nào nữa … Hãy hủy diệt Gaza ngay! Ngay bây giờ!’ ‘Việc tạo ra một khủng hoảng nhân đạo nghiêm trọng ở Gaza là một phương tiện cần thiết để đạt mục tiêu,’ thiếu tướng dự bị Giora Eiland hô hào trong tờ báo Israeli Yedioth Ahronoth. ‘Gaza sẽ trở thành một chỗ nơi không con người nào có thể tồn tại.’ Trong một bài báo muộn hơn, ông thúc Israel đừng bị ‘sợ hãi’ bởi cảnh cáo của cộng đồng quốc tế về đại dịch ở Gaza: ‘Đại dịch nghiêm trọng ở miền nam Dải Gaza sẽ đưa chiến thắng đến gần hơn.’ Thiếu tướng Ghassan Alian tuyên bố rằng ở Gaza, ‘sẽ không có điện và không có nước. Sẽ chỉ có sự phá hủy. Chúng mày muốn địa ngục; chúng mày sẽ có địa ngục.’7
Những khát vọng hủy diệt này sau đó được thể hiện trên chiến trường. Trong tuần đầu tiên của cuộc tấn công của nó lên Gaza, Israel tự nhận đã ném 6.000 quả bom có tổng trọng lượng 4.000 tấn. Sự nhắm mục tiêu của nó được hướng dẫn bởi một hệ thống AI (trí tuệ nhân tạo) được gọi là ‘Habsora’ (‘Phúc âm’). Ít nhất một nửa các mục tiêu được phân loại như ‘các mục tiêu chính quyền’, ám chỉ các tòa nhà dân cư cao tầng nơi các quan chức chính quyền cấp thấp được cho là sống ở đó, cũng như các đại học, các ngân hàng và các văn phòng chính quyền. Chỉ riêng trong hai tháng ném bom đầu tiên, hai mươi trong số hai mươi tư bệnh viện của miền bắc Gaza bị ném bom. Vào tháng Giêng 2024, mọi đại học ở Dải Dải Gaza đã bị phá hủy một cách có phương pháp. Các lò bánh (mỳ), một trong ít nguồn thực phẩm trong dải bị bao vây, bị ném bom một cách có hệ thống. Trong một vùng nơi một cuộc phong tỏa mười tám năm đã làm xuống cấp hạ tầng cơ sở nước và nước thải đến mức 95 phần trăm nước ở Gaza, phần lớn đến từ biển, đã không thể uống được, bom Israeli đã làm trầm trọng thêm các tác động bao vây bằng việc ném bom lặp đi lặp lại các cơ sở nước khắp dải Gaza. Sự dã man được tự động hóa như vậy đã không phải là một sự đổi mới Israeli: Hoa Kỳ đã dẫn đường trong những cố gắng để tự động hóa việc ném bom kể từ 2004. Và bất chấp sự chính xác thường được ca ngợi của nó, lợi thế của nó không phải là độ chính xác mà là tốc độ: tạo ra ‘nhiều tình thế khó xử trong nhiều lĩnh vực với một tốc độ choáng ngợp’.8
Các quan chức Israeli và các đồng minh của họ, bảo vệ chiến dịch ném bom, so sánh nó với sự phá hủy những thành phố Đức như Dresden trong Chiến tranh Thế giới II trong đó hàng trăm ngàn người bị giết. Tuy nhiên Gaza, còn xa mới là Đệ tam Đế chế (Reich) mới, vì nó không có nhà nước, lục quân, hải quân hay không quân nào, sự so sánh đã vô tình tiết lộ. Chiến thuật đánh bom rải thảm xuất phát từ các học thuyết của nhà Phát xít Italia Giulio Douhet. Theo Douhet, chiến tranh trong thời đại các nhà nước-quốc gia không phải là giữa các quân đội mà là giữa các nhân dân. Để thắng, người ta phải phá hủy nền kinh tế dân sự và khủng bố nhân dân, những người sau đó sẽ đoạn tuyệt với và sẽ trừng trị các nhà lãnh đạo. Chiến lược này, là diệt chủng phôi thai trong phạm vi nó tìm cách phá hủy một dân tộc, bày tỏ logic của chủ nghĩa dân tộc vũ trang trong hình thức cô đặc. Như nhà xã hội học Martin Shaw giải thích, chiến tranh chống lại những kẻ thù cụ thể luôn có khuynh hướng sa đọa thành chiến tranh chống lại các dân cư ủng hộ chúng. Đối với Douhet và những người theo ông, tuy vậy, việc ném bom rải thảm (area bombing) đã không phải là sự suy đồi mà là sự hoàn thiện chiến tranh. Bằng việc phá vỡ kẻ thù sớm hơn, họ tin, dù khá khó tin, nó thậm chí có thể cứu cuộc sống.
Học thuyết có được sự đáng tin qua việc những người Anh và Pháp thử nghiệm chống lại các dân cư thuộc địa ở Iraq, Somaliland và Syria: ‘những người man rợ’, họ nói, cần bị khủng bố. Nhưng nó đã chẳng bao giờ có kết quả. Và ở Dresden, Hiroshima, Việt Nam và Iraq, việc ném bom rải thảm đã không phá vỡ tinh thần dân sự, cũng chẳng làm xói mòn sự ủng hộ của họ cho ban lãnh đạo của họ, cũng chẳng làm nhụt chí các lãnh đạo quân sự. Tuy vậy, nó là rẻ hơn các chiến dịch trên mặt đất, và nó tiết kiệm mạng sống binh lính bằng việc làm cho dân thường trải qua rủi ro bị chết. Chiến tranh không lực được tự động hóa, chủ nghĩa Douhet số, mang lại một lợi thế khác nữa. Về mặt lịch sử, như Richard Holmes chứng minh bằng tư liệu trong lịch sử chiến tranh của ông, binh lính thường từ chối bắn kẻ thù. Họ có thể nổi loạn hay bị sang chấn. Nhưng sự tự động hóa trừu tượng hóa thêm những kẻ giết người khỏi cảnh giết chóc, gây ra một ‘tâm tính Playstation (Máy chơi trò chơi điện tử)’: như một ‘phi công’ drone Mỹ diễn đạt, ‘việc giết người là giống nghiền nát một con kiến.’9
Chủ nghĩa Douhet số của Israel dựa vào ‘học thuyết Dahiya’ của nó, được đặt tên theo một vùng ngoại ô Beirut bị không lực Israeli phá hủy hoàn toàn trong cuộc xâm lấn của nó vào Lebanon năm 2006, và được kiểm thử đầu tiên trong trong Chiến dịch Đúc Chì tại Gaza trong năm 2008–9. Học thuyết cho phép Israel cố ý nhắm mục tiêu và phá hủy hạ tầng cơ sở dân sự trên cơ sở rằng nó sẽ, một nguồn tin giải thích cho tờ Guardian, ‘tạo ra một cú sốc’ trong xã hội dân sự Palestin, dẫn họ đến ‘gây áp lực lên Hamas’. Không lâu trước Đúc Chì, bộ trưởng nội vụ Israeli Meir Sheetrit nói rằng trong sự kiện tấn công tên lửa, IDF (Lực lượng Phòng Vệ Israel) nên ‘quyết định về một khu phố ở Gaza và san bằng nó’. Trong Chiến dịch Đúc Chì, được khởi động với vẻ bề ngoài để trả đũa các cuộc tấn công của Hamas mà các cuộc tấn công Israeli thực ra đã khiêu khích, LHQ (Liên Hiệp Quốc) đã lưu ý rằng được ‘hướng, ít nhất một phần, tới ‘nhân dân Gaza như một toàn thể’. Những kết luận tương tự được rút ra từ các báo cáo LHQ về các cuộc tấn công Israeli tiếp sau ở Gaza, Chiến dịch Trụ cột Mây (Operation Pillar of Cloud) hay Chiến dịch Trụ cột Quốc phòng (Operation Pillar of Defence) (2012) và Chiến dịch Cạnh Bảo vệ (Operation Protective Edge 2014). Hệ thống Habsora đã giúp cực đoan hóa và tăng tốc đặc tính diệt chủng chớm nở của học thuyết Dahiya.10
Văn hóa của chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc diệt chủng đã có ở khắp nơi. Khi sự phá hủy diễn ra, một kênh Telegram được biết đến như ‘72 Virgins (72 Trinh Nữ)’ và do IDF vận hành phát các hình ảnh tàn bạo về những người Gaza chết cho người Israeli, mà được yêu cầu chia sẻ chúng rộng rãi. Thông điệp đi kèm các video đã hoan hỉ: ‘Đốt mẹ chúng … Bạn sẽ không tin video chúng tôi nhận được! Bạn có thể nghe tiếng răng rắc của xương của chúng. Chúng tôi sẽ tải nó lên ngay, hãy sẵn sàng.’ ‘Tiêu diệt những con gián … tiêu diệt những con chuột Hamas … Hãy chia sẻ cảnh đẹp này.’ ‘Nước ép rác!!!! Một kẻ khủng bố nữa chết!! Bạn phải xem nó với âm thanh, bạn sẽ chết cười.’ Các binh lính Israeli cũng đăng các đoạn video tinh nghịch của bản thân họ bông đùa giữa đống đổ nát của Gaza: dàn dựng các lớp học giả trong những phòng học bị đánh bom với không trẻ em nào, lóng ngóng qua những tài sản bị bỏ lại trong các nhà hoang vắng tại Gaza, ăn cắp những tài sản đó, cười khúc khích khi phát hiện ra đồ lót thêu ren , gõ mạnh vào một cánh cửa chỉ để tiết lộ rằng nó không còn được gắn vào một nhà ở nữa, vui vẻ nhấn nút để thổi bay toàn bộ những khu dân cư. Trò đùa trong mỗi trường hợp là Gaza đã bị xóa sổ.11
Sự phá hủy này, kết hợp với sự bao vây, cũng thả sổng các làn sóng khủng khiếp về đói và bệnh tật. Trong khi sự bùng nổ của viêm gan A (Hepatitis A), cúm, bệnh tiêu chảy và viêm màng não nhanh chóng hủy hoại dân cư, vào tháng Giêng 2024 nửa triệu người Gaza được ước lượng đang đói theo nghĩa đen và phần còn lại trong các trạng thái khẩn cấp thực phẩm khác nhau. Theo tổ chức Save Children (cứu Trẻ em), những cái chết đói mau chóng có thể vượt cái chết vì bom đạn. Alex de Waal giải thích: ‘Sự nghiêm trọng, quy mô và tốc độ của sự phá hủy các cấu trúc cần thiết cho sự sống sót [ở Gaza], và sự thực thi bao vây, vượt bất kể nạn đói nhân tạo nào trong 75 năm qua.’ Vào tháng Ba 2024, được ước lượng rằng 1,1 triệu người Gaza bị đói, trong khi phần lớn của phần còn lại trong tình trạng ‘khẩn cấp’. Một nghiên cứu của London School of Hygiene & Tropical Medicine (LSHTM) và Johns Hopkins Center for Humanitarian Health tìm thấy rằng bởi vì các mối đe dọa của sự bùng phát bệnh dịch và sự leo thang quân sự, những cái chết thêm ngoài số chết do bạo lực quân sự ra (được ước lượng khi đó là hơn 30.000 người) có thể đạt bất cứ số nào giữa 58.260 và 85.750 người. Tổng cộng sẽ đạt 5 phần trăm của dân số Gaza. Điều này gắn với tuyên bố về một sự bao vây hoàn toàn chống lại ‘các súc vật người’ chẳng khác gì ‘dấu hiệu bằng chứng ban đầu đủ về “tội ác bỏ đói” cấp độ-thứ nhất’.12 Gaza đã phải chịu tình trạng khẩn cấp sinh học thường xuyên.
Ban đầu trong cuộc chiến tranh, bởi vì những tuyên bố và hành động của Israel, các chuyên gia và các nhà hoạt động hòa bình bắt đầu nêu câu hỏi về diệt chủng. Sau một tuần tấn công, sử gia Israeli về Holocaust, Raz Segal, đã mô tả cuộc chiến tranh bừa bãi của Israel chống lại dân thường Gaza và cuộc tấn công của nó lên các điều kiện cho cuộc sống đối với toàn bộ cộng đồng như ‘một vụ diệt chủng sách giáo khoa’. Stefanie Fox của Jewish Voice for Peace (Tiếng Nói Do thái vì Hòa bình) đã không kém nhức nhối hơn: ‘Đây là sự diệt chủng.’ Sử gia diệt chủng Omer Bartov, lưu ý rằng ‘các nhà lãnh đạo và các tướng Israeli đã đưa ra những tuyên bố khủng khiếp cho thấy một ý định diệt chủng’, đã kêu gọi thế giới ‘ngăn chặn Israel khỏi việc để cho các hành động của nó trở thành một vụ diệt chủng’.13
II.
Tuy vậy, có phải tôi đã tùy tiện bỏ qua sự cố kích động dẫn đến chiến tranh? Vào 6:30 sáng ngày 7 tháng Mười 2023, Hamas và nhiều dân quân khác đã tấn công miền nam Israel, rốt cuộc giết 1.200 người, gồm cả 859 dân thường.
Cuộc tấn công, bắt đầu với một sự tập kích vào các đồn cảnh sát và binh lính, nhanh chóng đã biến thành một cuộc thảm sát vô lương tâm dân cư kibbutz (hợp tác xã) và những người dự lễ hội nhạc Supernova, và bắt 240 con tin, kể cả trẻ em và những người già. Israel cũng cáo buộc rằng đã có bạo lực tình dục có hệ thống, mặc dù bằng chứng dứt khoát về việc đó vẫn chưa xuất hiện. Các quan chức Israeli đã đi xa đến mức để gọi cuộc tấn công này là ‘cuộc diệt chủng’ thật sự, và Hamas tương đương với cả Nhà nước Islamic và bọn nazi. Cựu thủ tướng Israeli cực-hữu Naftali Bennett, thách thức về số dân thường chết trên đài Sky News, đã nổi khùng: ‘Bạn có nghiêm túc để tiếp tục hỏi tôi về dân thường Palestin? Bạn làm sao vậy? Bạn đã không thấy những gì xảy ra ư? Chúng tôi đang đánh bọn Nazi!’ Thủ tướng Netanyahu gọi Hamas là một ‘tổ chức khủng bố diệt chủng’.14
Theo Israel, cuộc tấn công đã không bị khiêu khích và vì thế nó có toàn quyền tự vệ. Và căn cứ vào bản chất của kẻ thù và khuynh hướng của nó để ẩn náu giữa dân thường, một mức độ thiệt hại phụ là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, cho bất cứ điều này thêm ý nghĩa nói chi đến tính hợp lý, cuộc tấn công do Hamas-lãnh đạo có thực sự đã không bị khiêu khích ư, và đã không phải. Nếu người ta muốn giải thích những gì đã xảy ra, người ta không thể tùy tiện bắt đầu lịch sử vào ngày 7 tháng Mười 2023 và bỏ qua các thập niên của bạo lực trước. Nguồn gốc của cuộc tấn công này, ít nhất, có thể truy nguyên về ít nhất 5 năm trước.
Trong tháng Ba 2018, hàng chục ngàn người Gaza, những người tị nạn trên đất của chính họ, bắt đầu diễu hành ôn hòa hướng tới hàng rào được gia cố bao quanh Gaza. Gaza đã dưới sự phong tỏa kể từ khi sự ‘ngừng tham gia’ của Israeli trong năm 2005, với cuộc bao vây tăng lên sau khi nhóm Islamist Hamas thắng các cuộc bầu cử lập pháp Palestin trong năm 2006. Nó đã dưới sự chiếm đóng trực tiếp Israeli kể từ ‘Chiến tranh Sáu Ngày’ năm 1967 trong đó Israel làm tan rã các quân đội Arab và xâm chiếm Bờ Tây, Đông Jerusalem, Gaza, Cao nguyên Golan của Syria và bán đảo Sinai của Ai Cập. Và nó đã là chỗ ở của một dân cư Palestin tị nạn kể từ Nakba 1948, trong đó các lực lượng bán quân sự Zionist, mà sẽ trở thành IDF, đã thanh lọc sắc tộc khoảng 750.000 người Palestin qua khủng bố và các cuộc tàn sát giết 15.000 người.
Khi những người Gaza đó bắt đầu diễu hành trong một hành động phản kháng dân sự kiểu ‘Gandhi’ chính xác là loại mà những người tự do Tây phương thường tuyên bố ủng hộ, Israel đã tuyên bố vùng diễu hành là một ‘vùng khủng bố’ (vùng chiến đấu), đã phái các toán bắn tỉa và áp dụng ‘các quy định khai hỏa (bắn) bất hợp pháp’. Dưới một cơn mưa đạn và hơi cay, hàng trăm người Palestin bị giết và hàng chục ngàn người, bao gồm gần 9.000 trẻ em, bị thương.15 Chính khi điều này xảy ra mà khoảng một tá phái vũ trang ở Gaza đã hình thành ‘Joint Operations Room of Resistance Factions (Phòng chiến dịch Chung của các Phái Kháng chiến)’. Các nhóm Islamist như Islamic Jihad, các nhà dân tộc chủ nghĩa thế tục như các Lữ đoàn Tử sĩ al-Aqsa (al-Aqsa Martyrs’ Brigades liên kết với Fatah, đảng cai trị ở Bờ Tây), và các tổ chức Marxist như các Lữ đoàn Abu Ali Mustafa (Abu Ali Mustafa Brigades liên kết với Mặt trận Nhân dân vì sự Giải phóng Palestine- Popular Front for the Liberation of Palestine) đã tham gia.16 Mục tiêu được tuyên bố là, căn cứ vào tình trạng hấp hối của Tổ chức Giải phóng Palestin (Palestinian Liberation Organisation) cũ và sự giảm bớt của nó thành người giám sát sự chiếm đóng Israeli, để đạt kỷ luật và sự phối hợp ngang tất cả các nhóm kháng chiến ở Gaza và xa hơn.
Cuộc tấn công ngày 7 tháng Mười, dù do Hamas-lãnh đạo, đã gồm hai ngàn chiến binh từ một tá phái vũ trang ngang phổ ý thức hệ. Bắt đầu vào 6:30 sáng, những người nổi dậy đã phóng 5.000 rocket vào Israel. Mặc dù 90 phần trăm đã bị chặn đứng, phi đội đã đủ để áp đảo hệ thống chống-rocket ‘Vòm Sắt’ hùng mạnh của Israel. Các drone phóng các dụng cụ nổ vào antenna theo dõi và các súng máy tự động đóng quanh hàng rào Gaza. Các chiến binh đã bay vào miền nam Israel dùng diều bay và dù lượn, chiếm được khu vực, sau đó đã giúp những người vẫn ở Dải Gaza phá vỡ hàng rào bằng các xe ủi và thuốc nổ. Những người khác đã thử một cuộc tấn công lội nước với ít thành công hơn.
Các đội chiến binh sau đó đã dựng những chướng ngại trên Đường 232 chạy từ miền bắc xuống miền nam dọc Dải Gaza và bắn phá bất cứ phương tiện nào đến gần bằng đạn, trước khi xuống bốn căn cứ quân sự ở Zikim, Re’im, Nahal Oz và Erez. Những đội gồm hàng tá đàn ông với bản đồ và địa chỉ của những người chịu trách nhiệm an ninh đã kiểm soát một loạt kibbutz, giết ngay lập tức bất cứ ai kháng cự. Những đoạn video cho thấy các chiến binh đá và đâm những xác của binh lính Israeli mà họ đã giết, hét lên, ‘Bọn giết trẻ con, của chúng mày đây!’ Họ cũng đã giết dân thường, một số có lẽ đã bắn nhau với cảnh sát địa phương và quân đội, nhưng nhiều theo kiểu hành quyết. Sự giết dân thường tồi tệ nhất bắt đầu khi, căn cứ quân sự tại Re’im bị chiếm, các chiến binh đến nhạc hội Supernova xảy ra gần đó. Mặc dù có vẻ họ không chờ đợi để phát hiện nhạc hội, họ đã coi nó như một cơ hội để giết người và bắt con tin.
Trong khi việc lập kế hoạch chiến dich này đã tập trung, sự thực hiện đã phân tán. Khi sự kháng cự quân sự bị áp đảo nhanh hơn kỳ vọng rất nhiều – hầu hết binh lính IDF được phái đên Bờ Tây để tiến hành sứ mệnh thực dân ở đó – họ đột nhiên có thời gian và cơ hội mà họ đã không trù tính. Trở thành nhiệm vụ của cá nhân các chỉ huy và chiến binh để chủ động hành động. Michael Clarke thuộc think tank RUSI (Viện các Quân chủng Thống Nhất Hoàng gia Anh) gợi ý rằng ban lãnh đạo quân sự ‘đã mất kiểm soát chiến dịch ngay khi nó bắt đầu’.17
Vẫn còn chưa rõ bao nhiêu trong số 859 dân thường chết dưới tay của những chiến binh Palestin, và bao nhiêu bị chết trong những cuộc phản công Israeli hỗn loạn. Quân đội Israeli đã cho thấy sự tàn bạo bừa bãi như vậy trong những cuộc tấn công mà nó thường giết những binh lính của chính nó: tại Gaza, nó xác nhận gần một phần sáu của những tử vong chiến trận của nó là do ‘hỏa lực thân thiện’, hầu hết qua việc ném bom. Các binh lính IDF cũng đã giết ba con tin Israeli đã đầu hàng họ. Và media Israeli báo cáo vài trường hợp về IDF giết các dân thường Israeli vào ngày của Chiến dịch Lũ al-Aqsa (Operation al-Aqsa Flood). Tờ báo Ha’aretz tường thuật rằng các gia đình người Israeli bị đạn pháo xe tank IDF giết trong Kibbutz Be’eri đang tìm kiếm một cuộc điều tra. Cùng tờ báo tường thuật rằng hỏa lực từ một máy bay lên thẳng quân sự Israeli đã giết ít nhất một số người tại nhạc hội Supernova.18
Nhưng hầu hết có lẽ đã bị các chiến binh Palestin giết. Giữa số bị giết này chắc nhiều đã là những hành động trả thù thiếu suy nghĩ, tự phát bởi những người đã biết chỉ sự chiếm đóng và sự bao vây và có mọi kỳ vọng chết hôm đó. Hầu hết những người bị giết hoặc bị bắt làm con tin đó đã không phải là các tội phạm chiến tranh Israeli, và một số thậm chí là giữa thiểu số can đảm của những nhà hoạt động hòa bình, những kẻ thù của chế độ chiếm đóng và phong tỏa mà, trong môi trường chính trị Israeli hiện thời, sẽ gặp rủi ro bị tống giam biệt lập vì việc bày tỏ quan điểm của họ.19
Tính tàn bạo của cuộc tấn công ngày 7 tháng Mười, như nhà báo Israeli Haggai Matar viết, là ‘một mảnh vụn của những gì những người Palestin đã cảm thấy trên cơ sở hàng ngày dưới chế độ quân sự dài hàng thập kỷ ở Bờ Tây, và dưới sự bao vây và các cuộc tấn công lặp đi lặp lại lên Gaza’.20 Nhưng với cuộc tấn công, Hamas cũng tuyên bố rằng sẽ không còn an toàn nữa cho Israel, đã giáng một đòn chí tử vào một Nhà chức trách Palestin đang khô héo, và chấm dứt các cuộc đàm phán ‘bình thường hóa’ giữa Israel và các nhà nước Arab có ý định gạt bỏ những người Palestin ra, có lẽ mãi mãi. Nó cũng xui khiến nhà nước Israeli, rõ ràng tự mãn và bị tước mất suy nghĩ sáng tạo về Palestine ngoài cách tưởng tượng để lên kế hoạch phá hủy nó, vào một tiến trình hành động sẽ dẫn đến việc nó bị truy tố tại Tòa án Công lý Quốc tế về các cáo buộc diệt chủng. Và nó kéo các đồng minh của Israel vào một hình mẫu quân sự hóa leo thang và đàn áp ở trong nước, được đặc trưng bởi sự ủng hộ hiếu chiến cho các hành động Israel, trong đó chế độ quan liêu hành chính tự do cũng có tội như cực hữu.
Tại Hoa Kỳ chính quyền Biden, sau khi rõ ràng đã chấp nhận chính sách thời-Trump về Israel-Palestine chỉ để nó bị phá hủy hoàn toàn, đã bảo vệ mạnh mẽ các hành động của Israel giữa sự chỉ trích tăng lên từ nhân viên của nó và sự bất đồng ý kiến trong Bộ Ngoại giao. Bỏ qua đặc tính chính trị của chế độ, và từ chối thừa nhận chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc và những sự bày tỏ về ý định diệt chủng công khai của nó, Biden tự nguyện làm mình xấu hổ bằng việc tuyên bố vô ích rằng đã thấy bằng chứng về những đứa trẻ bị Hamas chặt đầu. Khi Israel hèn hạ cho rằng Bệnh viện al-Shifa là một trung tâm ‘chỉ huy và điều khiển’ của Hamas nhằm để biện minh một cuộc tấn công quân sự, Biden cho là cũng đã thấy bằng chứng về việc đó nữa. Lặp đi lặp lại ông đã bỏ qua Quốc hội để vội vã chuyển vũ khí cho Israel và người phát ngôn của ông lên án những lời kêu gọi ngừng bắn là ‘ghê tởm’. Trong khi Thượng Viện bôi nhọ các cuộc biểu tình như chống-semitic, và Hạ Viện thông qua một dự luật đánh đồng chống-chủ nghĩa Zion với chống-semitism, các đại học đã cấm các nhóm tổ chức các cuộc biểu tình như Jewish Voice for Peace (Tiếng nói Do thái vì Hòa bình). Thay cho cố gắng kiểm chế các hành động của Israel, chính quyền Biden ban đầu đã ủng hộ đòi hỏi của Israel rằng Ai Cập nên tiếp nhận dân cư Gaza bị trục xuất trong các thành phố lều ở Sinai, với Bộ trưởng Ngoại giao Anthony Blinken nhận được một câu trả lời ‘không’ cộc lốc từ Tướng Sisi nhà độc tài Ai Cập.21
Tại Vương quốc Anh, bộ trưởng nội vụ cực-hữu Suella Braverman đã phỉ báng những người biểu tình như một ‘đám đông đáng sợ’, và trong một giai đoạn đã dường như mời gọi những người biểu tình cực-hữu để tấn công các cuộc biểu tình Gaza, trong khi cánh hữu đã cố gắng để chúng bị cấm. Các phương tiện truyền thông phỉ báng các cuộc biểu tình như ‘các gương mặt đầy hận thù diễu hành trong các cuộc biểu tình chống-Semitic’, và ‘hàng ngàn’ người nói về ‘jihad’. Bộ trưởng ngoại giao từ chối lên án sự bao vây Gaza như một tội ác chiến tranh vi phạm Công ước Geneva, còn đối lập Lao động lặp đi lặp lại khăng khăng rằng Israel có ‘quyền’ đối với các biện pháp như vậy, chỉ để tuyên bố muộn hơn sau nhiều sự từ chức rằng điều này đã chẳng bao giờ có dụng ý. Tại cả Berlin và Pháp, các cuộc diễu hành hòa bình bị cấm. Chỉ quy mô khổng lồ, sự bền bỉ không mệt mỏi và sự đa dạng chiến thuật của các cuộc biểu tình, và quan trọng là sự tăng theo hàm số mũ của các nhóm Do thái thách thức lời xác nhận của Israel về bản sắc Do thái, đã ngăn cản một sự đàn áp thẳng tay nghiêm trọng hơn.
Trong lúc đó, khắp châu Âu và Bắc Mỹ chính thực tế về tình cảm ủng hộ-Palestin đã kích thích một làn sóng bê bối về vai trò có thể của TikTok trong việc cực đoan hóa các thế hệ trẻ hơn. Vận động trong các cuộc bầu cử sơ bộ cộng hòa, Nikki Haley đã đi xa đến mức để tuyên bố sai: ‘Chúng ta thực sự cần cấm TikTok một lần và mãi mãi, và hãy để tôi nói cho bạn vì sao. Vì mỗi ba mươi phút mà ai đó xem TikTok, mỗi ngày, họ trở nên 17 phần trăm chống-semitic nhiều hơn, ủng hộ-Hamas nhiều hơn.’ Trong thực tế, các nền tảng media xã hội được chứng minh là đang đàn áp ngôn luận ủng hộ-Palestin dưới áp lực từ Israel, với tổ chức Nhân quyền công bố một báo cáo gay gắt về ‘sự kiểm duyệt có hệ thống’ của Facebook.22
Trong vòng mấy tháng, chính sách đối ngoại của Biden bị đổ nát. Một trong những cam kết chính của ông là để xoay trục khỏi Trung Đông và Afghanistan để tập trung cạnh tranh với một Trung Quốc đang trỗi dậy. Giữa những hành động đầu tiên của ông trong chính phủ là để đảo ngược sự phân loại phong trào Houthi ở Yemen của chính quyền Trump như một ‘tổ chức khủng bố nước ngoài’, và bỏ sự ủng hộ từ lâu của Washington cho việc ném bom nước này do Saudi-lãnh đạo. Tuy nhiên, khi các phiến quân Houthi đáp lại cuộc tấn công lên Gaza của Israel bằng việc phong tỏa Biển Đỏ, khiến vận chuyển toàn cầu qua Eo biển bab el-Mandeb giảm xuống 40 phần trăm, Hoa Kỳ và Anh quốc đã bắt đầu ném bom Yemen. Việc này đã không thậm chí được kỳ vọng có kết quả. Những phiến quân Houthi đã sống sót tám năm ném bom do Saudi-dẫn đầu và đã vẫn là chính phủ de facto của Yemen. Lý lẽ cho việc ném bom là yếu đến mức Biden, khi được hỏi nếu các cuộc tấn công có kết quả, đã trả lời: ‘Khi bạn nói có kết quả, chúng có chặn các phiến quân Houthi? Không. Họ sẽ có tiếp tục? Có.’ Trong khi đó cả hai bên tham chiến, mặc dù rõ ràng mạo hiểm chiến tranh khu vực chỉ để miễn cho Israel sự rắc rối, đã ngoan cố khăng khăng rằng việc ném bom Yemen chẳng liên quan gì đến Gaza cả.23
Chủ nghĩa phát xít chớm nở của một nước tí hon ở vùng Địa Trung hải lẽ ra đã không nên có những hậu quả quốc tế rùng rợn như vậy. Tuy vậy, bởi vì tầm quan trọng của Israel như một chốt cốt yếu của chính sách đối ngoại Tây phương, các đồng minh của nó sẵn sàng theo đuổi nó vào sự rối loạn địa chính trị và vực thẳm đạo đức. Palestine được chứng tỏ là, theo một cách lạ lùng, triệu chứng của hệ thống-thế giới. Hoa Kỳ và các đồng minh của nó miêu tả lập trường của họ như ‘đoàn kết’ với Israel, và theo một nghĩa hiển nhiên nó là. Trong thực tiễn, tuy vậy, sự đoàn kết của họ là với một chính phủ cực-hữu và cơ sở ủng hộ điên dại của nó. Nếu họ chẳng quan tâm gì cho những người Palestin, họ quan tâm ít hơn đến tình trạng khó khăn của những người cánh tả còn lại và các nhà hoạt động hòa bình của Israel, mà bây giờ đối mặt với cả cảnh sát và bạo lực đám đông.
Dưới sự kiểm soát của bộ trưởng an ninh quốc gia cực-hữu Itamar Ben-Gvir, những bản năng đàn áp nhất của cảnh sát Israeli được thả rông. Cảnh sát trưởng cảnh cáo rằng sẽ ‘không có sự khoan dung nào’ cho những kẻ bất đồng ý kiến và những người biểu tình đó sẽ bị tống đến Gaza ‘trong các xe bus’. Người phát ngôn cảnh sát nói bất cứ ai dám phản kháng ‘để ủng hộ Gaza hoặc tổ chức khủng bố Nazi mà đã phạm một Holocaust ở đây’ sẽ mau chóng ở ‘đằng sau song sắt’. Nó đã chứng tỏ thế, khi cảnh sát ngăn chặn trước hầu hết các cuộc biểu tình như vậy, tấn công và bắt những người tham gia. Khi một giáo viên đăng tình cảm chống-chiến tranh trên Facebook, các học sinh đã náo loạn, ông bị sa thải khỏi việc làm, và cảnh sát tống ông vào phòng giam biệt lập. Thậm chí sau khi một tòa án đã ra lệnh sự phục chức cho ông, trường học nói nó không thể đảm bảo an toàn cho ông giữa sự phản kháng liên miên của học sinh. Khi nhà báo Israel Frey bày tỏ sự đồng cảm với những người Palestin, ông đã bị một băng nhóm cực-hữu tấn công tại nhà của ông, bị cảnh sát nhổ và lăng mạ khi ông được đưa đi sơ tán, đã đối mặt với một đám đông khác khi ông được đưa vào bệnh viện, và ông buộc phải ẩn trốn.24
Ở đây là sự thông đồng đáng ngại giữa cảnh sát và các côn đồ có vũ trang, vòng xoáy cổ điển của sự cực đoan hóa lẫn nhau giữa ban lãnh đạo và đám đông, bị chiến tranh hối thúc. Như ở nơi khác, nó đã phát triển mạnh nhờ một cảm giác bị nhồi nhét về tư cách nạn nhân. Rốt cuộc, có thể lập luận rằng những người Israeli đã là các nạn nhân vào ngày 7 tháng Mười. Nhưng trong thực tế, nhiều trong số những người bị cuộc tấn công của Hamas làm hại trực tiếp lại là gữa những nhà phê phán chiến tranh lớn tiếng nhất trong một xã hội nơi sự ủng hộ cho các cuộc chiến tranh định kỳ của Israel chống lại Gaza thường được sự ủng hộ của ít nhất 90 phần trăm của công chúng. Những gia đình có tang, những gia đình có con tin và một số bản thân con tin một khi được thả, đã hợp nhất trong sự phản đối quyết liệt chiến tranh của Netanyahu. Theo lời của một người cha đau buồn: ‘Tôi mất con gái của tôi, không phải tâm trí của tôi.’25
Tư cách nạn nhân bị đe dọa ở đây có gốc rễ trong những cách nhìn đặc trưng của Israel về những người Palestin. Thủ tướng Israeli Golda Meir một lần đã nói với sự tỏ ra cao đạo khét tiếng: ‘Chúng ta có thể tha thứ cho những người Arab vì việc giết con cái chúng ta. Nhưng chúng ta chẳng bao giờ có thể tha thứ cho họ vì việc buộc chúng ta giết con cái của họ.’ Trong truyền thống bi thảm của chủ nghĩa Zion ‘bắn-và-la hét,’ Israel bị nạn nhân hóa ngay cả khi nó giết người. Trong thời hiện nay, một loại tâm thần bệnh hoạn hơn của tình cảm bị nạn nhân hóa đã xuất hiện, như khi Benjamin Netanyahu đáp lại một lời kêu gọi để dỡ bỏ các khu định cư Bờ Tây bằng việc gọi nó là ‘thanh trừng sắc tộc’.26 Israel bị nạn nhân hóa khi nó bị chỉ trích, khi nó giết người, bị những người Palestin nạn nhân hóa, bị LHQ nạn nhân hóa, bị một thế giới thù địch nạn nhân hóa và bị những kẻ phản bội bên trong nạn nhân hóa. Như với các loại khác của chủ nghĩa dân tộc tai họa, cánh hữu Israeli phát đạt trong một chu kỳ của mối đe dọa và sự giải thoát qua những sự khẳng định hung hăng về quyền vô hạn.
Nếu Israel mất tâm trí của nó, là bởi vì nó luôn luôn mất tâm trí của nó. Israel được thành lập trên giả thiết rằng những người Palestin không quan trọng, hoặc thậm chí không thực sự tồn tại như một dân tộc. Họ được kỳ vọng để hoặc biến mất hay bị nghiền nát. Sự lạc quan chết yểu của xã hội Israeli sau-chiến tranh dựa một phần vào kỳ vọng này. Sự kiên gan của những người Palestin như một dân tộc, hơn là như một dân cư bị loại bỏ, chịu số mệnh tồi tàn mà có thể bị bỏ qua một cách an toàn, là giữa các lý do cho sự lạc quan gia tăng và những sự tôn sùng bồi thường cứu chuộc trong xã hội Israeli. Sự kiên gan Palestin có nghĩa rằng các gốc rễ thuộc địa-định cư của xã hội Israeli sẽ chẳng bao giờ lùi vào quá khứ như chúng đã lùi trong các xã hội khác, trong khi bản chất loại trừ của chủ nghĩa dân tộc Do thái chẳng bao giờ có thể được bình thường hóa. Trong khung cảnh này, khi Israel trở thành một xã hội bạo lực hơn và vô cùng bất bình đẳng, nó đã nghiêng tàn bạo tới chủ nghĩa dân tộc tai họa, và không phải không có một số tiếng kêu báo động từ những người tự do còn lại của nó.
III.
Phong trào Zionist, từ khởi đầu của nó, đã thể hiện một đống mâu thuẫn. Một phong trào thế tục, như Jacqueline Rose lập luận, nâng cao ‘ngôn ngữ định mệnh cứu thế’ trực tiếp từ đức tin Do thái. Một phong trào dân tộc Do thái mà Hannah Arendt đã gọi là ‘câu trả lời chính trị duy nhất mà những người Do thái đã từng tìm thấy cho chủ nghĩa chống-semite,’ tuy nhiên nó không thích những người Do thái đang tồn tại thực sự. Một phong trào thuộc địa-định cư mà không có quân đội hay thủ đô riêng của nó. Một phong trào tìm kiếm một ‘vùng đất không có dân cho một dân tộc không có quê hương’, mặc dù mọi xứ sở nó xem xét thì đã đông dân rồi.
Như một phong trào thiên niên kỷ, sự quỵ lụy của nó với những người Do thái hiện có được gắn với mong muốn của nó cho một người Do thái mới, hùng mạnh, vạm vỡ. Trong việc giải thích bản thân mình, các nhà lý luận của nó thường nghe có vẻ giống những người chống- semite. Theodor Herzl viết: ‘Khi chúng ta chìm xuống, chúng ta trở thành một giai cấp vô sản cách mạng … khi chúng ta trỗi dậy, ở đó sức mạnh kinh khủng của chiếc ví của chúng ta cũng trỗi dậy.’ Ze’ev Jabotinsky, nhà sáng lập của chủ nghĩa Zion Xét lại (Revisionist Zionism) cánh hữu, thậm chí còn trực tiếp hơn: ‘Yid (người Do thái) là xấu xí, ốm yếu, và không lịch thiệp, chúng ta sẽ trao hình ảnh lý tưởng về Hebrew (người Do thái) với vẻ đẹp nam tính.’ Nachman Syrkin tương phản người Do thái ‘yếu đuối, xấu xí, bị nô dịch, bị suy thoái và ích kỷ’ với người Do thái ‘vĩ đại, đẹp đẽ, có đạo đức và có tính xã hội’ của tương lai Zionist. Amnon Rubinstein nhận xét rằng ‘văn học Zionist’ ban đầu ‘đầy dẫy’ các hình ảnh như vậy: ‘Người Do thái cổ xưa tương phản với người Hebrew (Do thái) mới sinh; người Do thái Hải ngoại với người Sabra (Do thái) bản địa; Yid ngày xưa với Maccabee (người Do thái đi theo Judas Maccabaeus) được phục sinh; người Do thái thấp kém với người Do thái-siêu việt’.27
Như một phong trào định cư Âu châu, mà đã vạm vỡ như nó trở thành, nó đã không chắc chắn về số phận của nó. Nó đã nhắm để thuộc địa hóa một vùng đất – Argentina, Uganda, Palestine – ‘không có một dân tộc’ nhưng, vì thiếu vũ khí, nó cần sự giám hộ của một cường quốc Âu châu để làm vậy. Vì thế, Herzl gợi ý rằng nếu phong trào định cư tại Palestine, như nó đã làm, thì nhà nước Do thái có thể tạo thành ‘một tiền đồn của châu Âu chống lại châu Á, một tiền đồn của nền văn minh ngược lại với sự man rợ’. Liên minh của nó với đế chế Anh đã gây ra những sự chia rẽ sớm nhất trong phong trào, giữa những người ưa thích dựa vào súng đạn Anh và cánh hữu quân phiệt hơn ưa thích xây dựng vũ khí Do thái tại Palestine. Để thành công, cuối cùng phong trào đã dùng cả hai chiến lược: được lợi từ sự bảo vệ và huấn luyện quân sự của Anh, trong khi cũng xây dựng sức mạnh quân sự mà cuối cùng đã chống lại quân đội Anh để hối thúc sự ra đi của nó, và sau đó để chống lại dân cư bản địa.
Mâu thuẫn cố lõi là ‘vùng đất không có người’ của Zionism đã không tồn tại. Sau khi đã định cư ở Palestine, phong trào đã bận tâm với câu hỏi làm sao để khiến những người Palestin biến mất. Họ đã có thể ‘đầy khí thế vượt biên giới’, Herzl gợi ý, hoặc có thể bị xúi giục để ‘gấp lều của họ’ và ‘lặng lẽ trốn đi’. Phong trào đã chấp nhận ‘sự dời chỗ bắt buộc’, theo lời của David Ben-Gurion, thủ tướng đầu tiên của Israel và lãnh tụ của Zionism Lao động. Jabotinsky diễn đạt súc tích: ‘Không có lựa chọn nào: những người Arab phải nhường chỗ cho những người Do thái ở Eretz (Đất) Israel.’28
Không có khả năng trong phần lớn thời kỳ giữa hai cuộc chiến tranh để xây dựng sức mạnh quân sự đáng kể, nó đã dựa vào liên minh với Anh trong khi xây dựng một nền kinh tế tách biệt với các doanh nghiệp và một liên đoàn công đoàn (Histadrut) loại trừ những người Arab. Qua sự cộng tác với sự Ủy trị Anh (British Mandate do Hội Quốc Liên ủy thác) trong sự đàn áp của nó đối với cuộc nổi dậy Arab chống-thực dân 1936–9, phong trào đã bắt đầu phát triển năng lực quân sự để đạt các mục tiêu của nó. Vào các năm 1940, ước mơ về sự vắng mặt Palestin đã trở thành một khát vọng thực tế được ủng hộ bởi sự thu thập tình báo và việc lập kế hoạch quân sự. Như sử gia Israeli Ilan Pappe chứng minh bằng tư liệu, các nhà lãnh đạo của nhà nước phôi thai đã thu thập thông tin chi tiết về tất cả các làng Palestin, nguồn lực của chúng và dân số của chúng. Họ đã cấy các gián điệp vào các làng Arab và lập các danh sách những người đã tham gia cuộc nổi dậy hoặc được nghĩ là tích cực về chính trị. Họ đã thu thập ảnh giám sát, phần lớn được những người Anh cung cấp.29
Trong tháng Mười Hai 1947, những ngày sau một nghị quyết của LHQ trao một cách thờ ơ hơn một nửa Palestine cho nhà nước mới của Israel với không ý kiến nào từ những người Palestin, các chiến dịch thanh lọc bắt đầu. Sự phá hủy và sự phân tán của phong trào dân tộc Palestin tiếp sau cuộc nổi dậy Arab cũng cung cấp cơ hội. Trong những giai đoạn đầu, sự vô tổ chức Palestin đã là một vấn đề: các cuộc tấn công đầu tiên tìm cách khiêu khích hành động của những người Palestin mà có thể biện minh cho ‘sự trả đũa’, một kỹ thuật được truyền cho phong trào bởi sĩ quan Anh Orde Wingate, nhưng hầu hết các làng đã tiếp tục cuộc sống như bình thường. Vì thế, họ chuyển sang ‘phòng thủ hung hăng’, bằng việc lẻn vào các làng lúc đêm khuya thanh vắng, chọn ngẫu nhiên một số nhà và làm nổ tung chúng hoặc bắn phá chúng bằng đạn trong khi chủ sở hữu đang ngủ.30
Từ tháng Ba 1948, các đơn vị bán quân sự Haganah, lõi của quân đội Israeli tương lai, được trao các danh sách làng để quét sạch. Hoạt động dưới đề mục ‘Kế hoạch Dalet’, chúng sẽ tấn công các mục tiêu của chúng, đôi khi trong sự phối hợp với các lực lượng bán quân sự cực-hữu như Irgun hay Băng đảng Stern (Cứng rắn), với súng phun lửa, bom thùng, đạn pháo xe tank, ném bom từ trên không hay các trận mưa đạn. Một cách điển hình, chúng sẽ tấn công trên ba phía, để một hướng ngỏ cho dân cư chạy trốn, sau đó phá hủy các ngôi làng được sơ tán sao cho không thể quay lại được. Chúng đầu độc sự cung cấp nước của làng, tiến hành nhiều vụ hãm hiếp và ít nhất hai tá vụ tàn sát, trong các làng như Deir Yassin, Tantura, Balad al-Shaykh và Ayn al-Zaytun. Tổng cộng 530 làng bị phá hủy, và 15.000 người Palestin bị giết. Theo ước lượng bảo thủ của Janet Abu-Lughod khoảng 780.000 người bị dời chỗ tính đến khi ký Đình chiến trong 1949, tuyệt đại đa số bị trục xuất trong cái Rosemary Sayigh gọi là ‘một chuến đi không có người hướng dẫn của hàng ngàn dân làng ngơ ngác và hoảng sợ, các gói đồ ngủ của họ rơi xuống bên đường, các gia đình bị ly biệt, những người già chết vì kiệt sức, các trẻ em mang những đứa trẻ hơn, các trẻ sơ sinh chết vì mất nước trong cơ thể’.
Phần lớn điều này xảy ra trước khi một liên minh lộn xộn và hầu như không có động lực của các quân đội Arab can thiệp từ ngày 15 tháng Năm (1948) và nhanh chóng bị nghiền nát. Nhà nước mới đòi gần 80 phần trăm của vùng đất, với Bờ Tây rơi vào sự kiểm soát của Jordan dưới các điều kiện của một thỏa thuận bí mật với chế độ quân chủ Hashemite và Gaza rơi vào sự kiểm soát của Ai Cập. Điều này vẫn không thỏa mãn tham vọng của các nhà Zionist: Ben-Gurion đã hy vọng rằng Israel sẽ trải xa về phương bắc đến tận Sông Litani ở Lebanon hiện đại, theo hướng tây bắc vào lãnh thổ Syri hai mươi dặm nam Damascus, và theo phương đông đến ‘cạnh xa nhất của Transjordan’. Những người Palestin còn lại bị đặt dưới sự cai trị quân sự nghiêm ngặt trong mười tám năm, hàng ngàn người bị giữ trong những trại cải tạo và những trại tù, để đảm bảo rằng không thể có suy nghĩ nào về việc đảo ngược kết cục của cái Israel gọi là ‘chiến tranh độc lập’ của nó và những người Palestin gọi là nakba (thảm họa).31
Sự thanh trừng cũng chẳng ngừng ở đó. Giữa 1949 và 1952, thêm bốn mươi làng Palestin bị làm giảm dân số, thường để dọn đường cho một phong trào kibbutz (hợp tác hóa) mà về nguyên tắc là cánh tả và cam kết cho sự cùng tồn tại của hai dân tộc.32 Tuy nhiên, 1948 là sự hoàn thành một phần của một giấc mơ về sự biến mất của người Palestin mà tỏ ra là không thể được thực hiện hoàn toàn. Nó đã là điều kiện hình thành cho sự tồn tại của Israel. Các lãnh đạo của phong trào Zionist, Pappe viết, ‘đã tính đến việc tạo ra một nhà nước Do thái thuần khiết’.33 Thay vào đó, đã có 160.000 người Palestin sống trong nhà nước Israel, trong khi dân cư tị nạn đã từ chối sự giảm dần buồn được dự trù cho họ. Bộ trưởng ngoại giao Moshe Sharett đã nghĩ những người tị nạn Palestin sẽ bị ‘nghiền nát’, ‘chết’, ‘biến thành bụi con người và rác của xã hội’. Các cường quốc thế giới hậu thuẫn Israel đã tìm kiếm ‘sự tái định cư’ vĩnh viễn những người tị nạn: mục tiêu như vậy đã ở đằng sau sự tạo ra Cơ quan Cứu trợ và Việc làm của LHQ (United Nations Relief and Works Agency-UNRWA) cho những người Tị nạn Palestin tại Cận Đông trong năm 1949. Palestine đã vẫn là bí mật nhỏ bẩn thỉu của Israel, bằng chứng bị che giấu. Những làng bị giảm dân cư được biến thành những công viên công cộng hay đất kibbutz. Sự thanh trừng sắc tộc bị phủ nhận trong thuật viết sử chính thức. Thậm chí sự tồn tại của chính những người Palestin đã bị phủ nhận: ‘Đã không có cái như những người Palestin,’ Thủ tướng Israeli Golda Meir đã khẳng định trong năm 1969.34
Sự từ chối của Palestine để mờ dần vào biên niên sử tự thể hiện đầu tiên trong các hành động phản kháng nhỏ, như các cuộc đột kích của các cá nhân fida’iyyun (chiến binh)ngang biến giới vào các khu định cư từ dân cư tị nạn của Gaza, một công việc nguy hiểm vì chính sách bắn-để-giết của IDF. Những người Palestin ở lại Israel đã tổ chức qua Đảng Cộng sản Israeli, một sự tiếp tục của Đảng Cộng sản Palestin được thành lập trong năm 1923, trong khi ở Bờ Tây do Jordan-kiểm soát, ở Lebanon, Syria và Dải Gaza, những người tị nạn đã phát triển một xã hội dân sự của các tổ chức từ thiện, phụ nữ, sinh viên và công nhân. Cuộc xâm lấn của Israel vào Gaza trong cuộc khủng hoảng Suez năm 1956, trong đó nó tìm cách cùng với Anh và Pháp để lật đổ tổng thống Ai Cập Nasser vì những tội đa dạng kể cả việc quốc hữu hóa Kênh đào Suez, đã tạo ra một lõi của các chiến sĩ Palestin với kinh nghiệm chiến đấu với người Israeli. Họ, kể cả một số người đã tham gia cuộc nổi dậy Arab năm 1936–9, tạo thành Fatah. Tư duy của đảng đã phù hợp với các phong trào chống thực dân đương thời. Họ đã đọc Fanon và nghiên cứu sự kháng chiến thành công đối với chủ nghĩa thực dân Pháp của FLN (Mặt trận Giải phóng Dân tộc) Algeria (mà Fanon thuộc về). Trong khi ban lãnh đạo Arab cũ thích đưa Palestine vào một chiến dịch dân tộc chủ nghĩa Arab chung, Fatah lại tán thành cuộc đấu tranh vũ trang với Israel. Đầu tiên là Palestine, sau đó là Trung Đông. Việc này họ đã hậu thuẫn với một loạt cuộc tấn công ngang biên gới phần lớn không thành công. Qua các năm sáu mươi, các tổ chức bị chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa Che Guevara ảnh hưởng hơn, như Mặt trận Nhân dân Giải phóng Palestine (Popular Front for the Liberation of Palestine-PFLP), đã xuất hiện. Dưới ảnh hưởng của Nasser, các lãnh đạo Arab đã thống nhất để thành lập một Tổ chức Giải phóng Palestin (Palestinan Liberation Organisation-PLO) như một đối thủ với các tổ chức cấp cơ sở. PLO, mà điều ước thành lập của nó tuyên bố rằng Israel là ‘phong trào thực dân khi nó bắt đầu’, sẽ có quân đội riêng, nhưng ban lãnh đạo của nó sẽ chịu trách nhiệm với tổng thống Nasser.35
Sự kiên gan của những người Palestin, dù hầu như không là một mối đe dọa quân sự nghiêm trọng, lại là một mối đe dọa chính trị và một nguyên nhân chính của các cuộc chiến tranh Israeli trong vùng này. Các cuộc đột kích biên giới từ Dải Gaza đã xúc tác quyết định của Israel để tham gia vào cuộc mạo hiểm Suez bị cản trở. Chiến tranh Sáu Ngày trong năm 1967, trong đó các lực lượng Israeli đã quét sạch các máy bay quân sự Ai Cập, Syri và Jordan trong một cuộc tấn công đầu tiên trước khi chinh phục phần lớn vùng đất mà những người chủ trương ‘Đại Israel’ đã hy vọng sáp nhập, một phần được thúc đẩy bởi việc các nhà nước Arab đã ủng hộ phong trào Palestin. Việc Ai Cập di chuyển binh lính đến bán đảo Sinai, mà đã thúc đẩy tuyên bố chiến tranh của Israel, bản thân nó được thúc đẩy bởi sự đáp lại của Israel với các cuộc đột kích du kích Palestin.36
Các nhà lãnh đạo quân sự Israeli đã cứng đầu một cách đáng chú ý về tình hình. Khi kibbutznik (xã viên hợp tác xã) Israeli Roi Rothberg bị các chiến binh Palestin giết ở biên giới Gaza trong năm 1956, ‘người đánh Arab’ nổi tiếng Moshe Dayan, một người ủng hộ ‘Đại Israel’ như Ben-Gurion, đã phát biểu một lời khen: ‘Chúng ta hãy đừng đổ tội cho những kẻ tàn sát hôm nay,’ ông nói. ‘Trong tám năm họ ngồi trong các trại tị nạn ở Gaza, và trước con mắt của họ chúng ta đã biến đổi vùng đất và các làng, nơi họ và cha ông họ đã ở, thành bất động sản của chúng ta.’ Vì điều này, ông cảnh cáo chống lại những người ‘khao khát hòa bình’, và thúc giục những người Israeli để tôi luyện mình cho cuộc chiến tranh vô tận. ‘Chúng ta là một thế hệ’, ông nói, ‘định cư vùng đất này và nếu không có mũ sắt và họng súng cannon, chúng ta sẽ không có khả năng để trồng một cây và xây một nhà ở.’37
IV.
Trong nhiều năm, những người tự do Israeli đã được cảnh báo về một tiềm năng phát xít trong chính trị của đất nước. Sử gia Zeev Sternhell đã khăng khăng rằng cuộc xung đột không ngừng với những người Palestin sẽ làm màu mỡ đất cho chủ nghĩa phát xít.
Dưới một loạt chính phủ cánh hữu do Benjamin Netanyahu lãnh đạo, các bộ trưởng cực-hữu đã tấn công các quyền dân chủ được những người Israeli hưởng thụ cho đến nay. Điều này bắt đầu với các biện pháp tương đối gia tăng, như việc can thiệp vào các quy chế cấp phép cho các đài thương mại để làm lợi cho những người hậu thuẫn Netanyahu, việc thay đổi các thủ tục bầu cử để tạo bất lợi cho thiểu số Palestin và đề xuất một ‘tiêu chuẩn đạo đức’ mới cho các đại học cấm các giáo sư khỏi việc nêu ý kiến của họ trong lớp học hay ủng hộ phong trào Tẩy chay, Giảm đầu tư và Trừng phạt (Boycott, Divestment and Sanctions-BDS). Trong những năm kế tiếp, nó đã leo thang thành một trận bão tuyết của các cuộc tấn công lập pháp, hình thức hóa cấu trúc apartheid của Israel như một ‘nhà nước Do thái’, đánh thuế các khoản hiến tặng từ các chính phủ nước ngoài (được biện minh một phần bởi động cơ chống-Soros) và tấn công khả năng của Tòa án Tối cao để bãi bỏ các luật bị coi là vi hiến. Các biện pháp này đã giống nhiều với sự phá vỡ hiến pháp bị Orbán của Hungary ép buộc dưới đề mục ‘chủ nghĩa dân tộc’ trong 2012. Đối mặt với việc này đối lập đã công khai chỉ trích cái nhà lãnh đạo Lao động Isaac Herzog gọi là ‘sự phát xít hóa’.38
Đối với nhiều nhà tự do Israeli và phương Tây, hạt giống của sự sụp đổ (khỏi dân chủ) của Israel có thể được truy nguyên về sự chiếm đóng Bờ Tây và Gaza. Quan niệm truyền thống về chính trị cựu hữu ở Israel, như Ami Pedahzur chỉ ra, tập trung vào sự ủng hộ cho sự bành trướng lãnh thổ và định cư ở ‘Đại Israel’. Như thế phong trào định cư thiên niên kỷ được Gush Emunim đại diện mà đã bén rễ trong các lãnh thổ đó, theo lời của Colin Shindler, được thúc đẩy bởi một sự khát khao để ‘chiếm lại và thiết lập lại các vị trí của ký ức kinh thánh’, được xem như nguồn gốc của cực hữu Israeli hùng mạnh ngày nay.39
Tuy vậy, điều đó không hoàn toàn đúng. Xu hướng phát xít trong chính trị Zionist, các tư liệu Dan Tamir, có thể được truy nguyên về Palestine bị Anh Ủy trị (British Mandate Palestine theo quyết định của Hội Quốc Liên). Peter Bergamin nhận diện một xu hướng phát xít giữa cánh ‘Tối đa chủ nghĩa’ của Zionism Xét lại trong vùng này. Rộng hơn, như Sara Yael Hirschhorn diễn đạt tinh tế trong nghiên cứu của bà về những người định cư Do thái-Mỹ, đã luôn luôn có ‘những sự căng thẳng giữa chủ nghĩa tự do và Zionism’. Điều này một phần là bởi vì tầm nhìn ‘Đại Israel’ được chia sẻ rồi bởi các nhân vật Lao động như Ben-Gurion và Dayan. Nhưng nó, ít hoặc nhiều, cũng bởi vì Israel đã luôn luôn được hình dung như một nhà nước-sắc tộc.
Định nghĩa được xét lại của Pedahzur về cánh hữu cực đoan để bao gồm chủ nghĩa bản địa (nativism), ông lưu ý, rõ ràng mở rộng sang một trong những giá trị thành lập của Nhà nước Israel, cụ thể là niềm tin rằng những người sống ở Israel nên ‘thuộc về sắc tộc Do thái’, cho dù họ không sinh ra ở Israel’. Như Pedahzur giải thích, chủ nghĩa bản địa là ‘phổ biến giữa hàng ngũ chỉ huy của Lực lượng Phòng Vệ Israeli’, trong phong trào kibbutz, và giữa các lãnh đạo Israeli, từ những ngày sớm nhất của sự tồn tại của Israel. Nó được thể chế hóa trong Luật Trở về (Law of Return) được ban hành trong năm 1950 mở rộng ưu tiên sắc tộc cho những người Do thái nhập cư trong khi những người tị nạn Palestin bị Luật tư cách Công dân (Law of Citizenship) cản trở khỏi việc trở về quê hương của chính họ. Điều này được quân luật cố thủ thêm, luật hạn chế quyền tự do của những người Palestin ở Israel, và chính sách của Israel chiếm đoạt đất Palestin cho sự định cư Do thái, được chính thức hóa trong các Luật Đất đai Israeli (Lands Law) năm 1960. Sức đẩy của chính sách Israeli sau-chiến tranh đã là ‘nền dân chủ sắc tộc’, một ‘môi trường lý tưởng cho sự tăng lên của … chủ nghĩa cực đoan cánh-hữu’.40
Phong trào Zionist đã luôn luôn chia rẽ với các mâu thuẫn, và hàng thập niên đấu tranh đẫm máu với những người Palestin đã tạo ra những sự bất đồng chiến lược đáng kể giữa các cánh của nó. Ngay từ đầu đã có sự bất đồng ý kiến bên trong phong trào. Các nhà Zionist văn hóa như Martin Buber, Judah Magnes, Albert Einstein và Hannah Arendt đã bác bỏ ý tưởng rằng một ‘quê hương Do thái’ nên có nghĩa là một ‘nhà nước Do thái’. Tuy vậy, phái này cũng được đặc trưng bởi chủ nghĩa không tưởng vô căn cứ, chủ nghĩa sô vanh cẩu thả hướng tới những người Palestin ‘thô sơ vô vọng’, sự xác nhận đắc thắng rằng những người giàu của Palestine ‘chỉ là sản phẩm của lao động Do thái’ và tính hay quên về các hậu quả thực tế của các phương pháp của Zionism, mà họ cho là ‘xa với các phương pháp chinh phục’.41
Giữa những người ủng hộ nhà nước-sắc tộc Do thái, đã có những sự khác biệt về cách họ diễn giải những cam kết chung của họ. Cánh hữu Zionist, từ Menachem Begin đến Benjamin Netanyahu, từ cánh hữu tôn giáo đến cánh cực hữu thế tục, thông thường ít sẵn sàng để nhường lãnh thổ một cách thực dụng hơn các nhà Zionist Lao động hay tự do. Sự phản đối quá trình Oslo, được cho là dẫn đến một sự dàn xếp hai-nhà nước, đã tập trung nhất vào cánh hữu cực đoan Israeli. Việc giữ lãnh thổ, không phải từ bỏ lãnh thổ, là cái họ nghĩ sẽ bảo đảm hòa bình: cho dù điều này là ‘hòa bình’ theo nghĩa của Calgacus (người cầm giáo). Tuy vậy, vì phong trào Zionist từ tả đến hữu đã luôn chia sẻ cơ sở chung trong cam kết của nó với chủ nghĩa dân tộc sắc tộc, một khát vọng bành trướng lãnh thổ và sự mong muốn để phá vỡ sự kháng cự Palestin với một ‘bức tường thép’ của lực lượng Do thái, câu hỏi là vì sao nó phải bắt đầu dưới sự thống trị của một ảo tưởng ‘chủ nghĩa xã hội’ và trở thành một tiền đồn toàn cầu của cực hữu.42
Lõi sự thật trong các lời xác nhận của những người tự do Israeli là chiến thắng 1967 triệt hạ đó, mà lần đầu tiên củng cố sự phụ thuộc của Israel vào Hoa Kỳ, cũng đã làm nổ tung nghệ thuật pháo hoa cứu tinh của ý thức hệ Zionist. Zionism Lao động đã đáp lại các cuộc chinh phục lãnh thổ theo một cách mập mờ, phản ánh xung đột giữa sự bành trướng và sự cố kết sắc tộc. Ben-Gurion và Moshe Dayan đã ưa thích sự định cư, một phần để ngăn cản sự xuất hiện của một nhà nước Palestin ở Bờ Tây và Gaza. Những người khác như Abba Eban đã lo rằng sự thúc đẩy định cư sẽ không tránh khỏi dẫn đến apartheid và sự phá hỏng nền tảng dân chủ của nhà nước. Về cánh hữu, các lãnh thổ mới đã sinh ra Gush Emunim, cho rằng chiến thắng trong 1967 và động lực định cư sau đó đã được thần thánh quy định. Nhiều trong số các thành viên hung hăng nhất của nó, Jacqueline Rose nhận xét, đã là ‘các sĩ quan được huấn luyện hết sức và các binh lính dự bị trong quân đội Israeli’. Đồng thời, nhà sáng lập dân tộc chủ nghĩa cực đoan của Liên Đoàn Quốc phòng Do thái (Jewish Defence League), Meir Kahane, đã chuyển từ New York về Israel năm 1971 và khởi động một đảng cực-hữu hung hăng mới, đảng Kach. Bất chấp sự yếu kém bầu cử và sự cấm cuối cùng của nó, đảng Kach đã gây cảm hứng cho kẻ giết người ‘sói đơn độc’ đầu tiên của Israel, Baruch Goldstein, mà đã tàn sát hai mươi chín người Palestin tôn thờ Muslim tại thánh Đường Ibrahimi ở Hebron trong năm 1994, và nó đã giáo dục các thế hệ tương lai của những chính trị gia cực-hữu như Itamar Ben-Gvir bộ trưởng an ninh quốc gia của Netanyahu. Cuộc hẹn hò đầu tiên của Ben-Gvir với người vợ tương lai của ông kể cả một cuộc viếng thăm lãng mạn đến mộ của Goldstein.
Một phần của sự thay đổi này đã là sự cực đoan hóa của một tầng lớp người Do thái Mỹ sang cánh hữu. Như lịch sử của Hirschhorn về những người Mỹ định cư kể lại, đa số đã bắt đầu hành trình của họ như các cử tri tự do, Dân chủ, hay như phần của cánh tả Mỹ, với sự chuyển đổi xúc tác 1967. Điều này đã phản ánh cái Peter Beinart mô tả như một ‘sự chuyển từ sự bất lực Do thái’ sâu sắc sang ‘sức mạnh Do thái’ tương đối mà, đến rất đột ngột và tiếp sau một sự hủy diệt biến động lớn rất thành công như vậy, đã hầu như không được tiêu hóa và vẫn cùng tồn tại với nhận thức về mối đe dọa sống còn.43
Theo những cách khác, hành trình của Israel sang cánh hữu giống hành trình của các nước khác. Không tưởng dân tộc chủ nghĩa của nó đã được duy trì bởi một nhà nước dân chủ-xã hội mà, trong khi nuôi dưỡng một giai cấp tư bản nội địa, cũng đã ủng hộ phúc lợi Israeli trong khi đàn áp những người Palestin và chuẩn bị cho sự bành trướng quân sự. Khi Israel trải qua ‘sự đình lạm (stagflation)’ trong giữa những năm 1970 như các đối tác của nó ở phương Tây, cánh hữu Israeli đổ lỗi cho ‘chủ nghĩa xã hội’ của các nhà sáng lập vì nỗi khó chịu này. Đấy là một chuyện hoang đường. Như Zeev Sternhell chứng minh bằng tư liệu, các nhà sáng lập đã luôn luôn ưu tiên sự nghiệp dân tộc trên bất cứ sự giả định ‘chủ nghĩa xã hội’ nào. Nhưng chuyện hoang đường đã thúc đẩy một sự biến đổi của nền kinh tế Israeli khi nó ủng hộ chủ nghĩa tân tự do và sự hội nhập khu vực dưới câu thần chú ‘toàn cầu hóa’. Việc dẫn đến sự moi ruột của nhà nước phúc lợi, sự sụp đổ của tư cách công đoàn viên, sự yếu kém bầu cử của Zionism Lao động và sự xuất hiện của giai cấp tư bản đa quốc gia hùng mạnh – nhiều trong số các công ty lớn nhất của nó do người nước ngoài-sở hữu – đã phá hủy các nền tảng của chủ nghĩa dân tộc ‘xã hội chủ nghĩa’ truyền thống. Thế chỗ của nó, cánh cực hữu mới ủng hộ một chủ nghĩa dân tộc sắc tộc loại trừ hơn về mặt quân sự đã bận tâm, như Robert O. Paxton viết về chủ nghĩa phát xít, ‘với sự sa sút cộng đồng, sự lăng nhục, hay tư cách nạn nhân và với những sự sùng bái bù đắp nghị lực, và sự tinh khiết’.44
V.
Đòn chí mạng đầu tiên đã giáng xuống Zionism Lao động là việc bầu chính phủ Likud đầu tiên, do cựu chiến binh Irgun, Menachem Begin, lãnh đạo trong 1977. Tiếng hoan hô cuối cùng cho Zionism Lao động, mà đã thích nghi hoàn toàn với sự sắp đặt tân tự do, là quá trình hòa bình Oslo.
Quá trình này đã không được đề xướng bởi Israel, mà đã chẳng bao giờ công nhận sự tồn tại của những người Palestin hay các quyền dân tộc của họ. Đúng hơn, nó được làm cho có thể bởi sự từ bỏ tăng dần của Fatah khỏi chủ nghĩa dân tộc một nhà nước, từ giữa các năm 1970. Do hậu quả của sự thất bại của các nhà nước Arab trong 1967, Fatah đã tiếp quản PLO trong sự liên minh với các đảng Palestin khác. Nhưng chiến lược của nó về đấu tranh vũ trang đã có ít tác động, vì Israel đã không dễ bị tổn thương như các chế độ thuộc địa khác. Ngay cả trước 1967, nó đã trở thành ‘một cơ quan thực sự của phương Tây, được cấy vào đất nước lạ’. Khi ban lãnh đạo lưu vong ngày càng bi quan về các triển vọng cho cuộc đấu tranh triệt để ở các lãnh thổ bị chiếm, nó cũng đã chịu một sự thất bại toàn diện khi cuộc xâm lấn của Israel vào Lebanon đã đẩy PLO khỏi Beirut như một khúc đạo đầu cho cuộc tàn sát những người tị nạn 1982 ở Sabra và Shatila. Vào lúc nổ ra của (phong trào) Intifada thứ Nhất trong 1987, PLO đã cam kết rồi với việc theo đuổi hòa bình hai-nhà nước dựa vào Nghị quyết 242 của LHQ trao cho người Palestin 22 phần trăm của Palestine lịch sử. Cánh tả Palestin, dù không đồng ý, đã vẫn trung thành. Yitzhak Rabin, một trong các Thủ tướng Israeli Lao động cuối cùng, như thế đã được trao một cơ hội duy nhất để trung lập hóa vấn đề Palestin với các điều kiện rất thuận lợi cho Israel và bôi trơn sự hội nhập của nó vào nền kinh tế khu vực.45
Những kết quả ban đầu của thỏa thuận Oslo đã không hứa hẹn cho những người Palestin. Theo Nghị quyết LHQ số 242, Israel chiếm đóng bất hợp pháp Bờ Tây và Gaza. Tuy vậy, Israel vẫn cam kết để đối xử chúng như ‘các lãnh thổ tranh chấp’, trên đó ‘các quyền’ của nó sẽ không bị các cuộc thương lượng gây tổn hại. Trong dự thảo thỏa thuận, Israel tiếp tục đòi ‘các quyền nước’ và sự tiếp cận đến các đường bộ ở Gaza và vùng Jericho cho cả thường dân và binh lính. Thật cốt yếu, nó đã không nhường lại ‘các quyền lực và trách nhiệm’ của nó trong các lãnh thổ, đặc biệt trách nhiệm của nó cho an ninh cả nội địa và bên ngoài và sự duy trì ‘trật tự công cộng’ của nó cho các các khu vực định cư. Như Edward Said viết,
Bằng việc chấp nhận rằng đất đai và chủ quyền bị hoãn lại cho đến ‘các cuộc thương lượng tình trạng cuối cùng’ trên thực tế những người Palestin đã giảm yêu sách công nhận đơn phương và quốc tế đối với Bờ Tây và Gaza: các lãnh thổ này bây giờ nhiều nhất đã trở thành ‘những lãnh thổ tranh chấp’. Như thế, với sự giúp đỡ Palestin, Israel đã được công nhận ít nhất một yêu sách ngang với họ.
Cuối cùng PLO đã ngồi thu lu trong một định chế nửa-nhà nước cai trị 30 phần trăm đất ở Bờ Tây và Gaza. Những khu định cư đã mở rộng dưới thời Rabin và những người kế nhiệm ông, và các lực lượng Israeli đã giữ lại quyền để bước vào Bờ Tây bất cứ lúc nào để truy đuổi những kẻ tấn công, với không quyền tương ứng nào cho các lực lượng Palestin.46
Vào thời gian của các cuộc thương lượng cuối cùng ở Taba trong năm 2001, dưới thủ tướng Lao động cuối cùng, Ehud Barak, Israel đã tìm cách sáp nhập 8 phần trăm của Bờ Tây đằng sau ‘biên giới cuối cùng’ của nó, trong khi lãnh thổ Palestin sẽ bị chia cắt thành một loạt Bantustan (theo kiểu quê hương của người da đen ở Nam Phi). Edward Said, người ban đầu đã ủng hộ Oslo, viết rằng một ‘nhà nước’ như vậy sẽ ‘yếu, phụ thuộc vào Israel về kinh tế, mà không có chủ quyền hay quyền lực thực tế’. Sử gia Israeli Shlomo Ben-Ami viết, trước khi tham gia chính phủ Ehud Barak, ‘các thỏa thuận Oslo được lập trên một cơ sở thực dân-mới, trên một cuộc sống phụ thuộc vào người khác vĩnh viễn’. Đấy đã là một cuộc đảo chính ngoại giao lớn cho Israel, và mức dấu ấn nước cao về mối quan hệ bảo trợ của nó với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sắp thành công, Barak đã ngừng các cuộc thương lượng. Điều này rất có thể là sự công nhận rằng trong cuộc bầu cử tới, Ariel Sharon của đảng Likud, đồ tể của các cuộc tàn sát Sabra và Shatila người vừa châm ngòi một Intifada thứ Hai với sự viếng thăm gây tranh cãi của ông đến địa điểm linh thiêng Núi Đền thờ (Temple Mount), chắc sẽ thắng.47
Hamas đã là một người thắng chính từ Oslo. Bắt đầu như một phong trào xã hội với gốc rễ của nó trong Huynh Đệ Muslim (Brotherhood) Ai Cập, nó đã nổi lên như một tổ chức chiến đấu trong Intifada năm 1987. Hamas, giống cánh tả Palestin, đã vẫn cam kết với chủ nghĩa dân tộc một-nhà nước mà PLO đã bỏ rơi, và nó đã phản đối Oslo từ đầu. Tuy vậy, trong khi các đảng cánh tả đã vẫn trung thành với ban lãnh đạo PLO, Hamas, được lợi từ sự huấn luyện của Hezbollah ở Lebanon, đã khởi động một loạt cuộc tấn công chống lại Israel suốt những năm 1990, nhận được sự tín nhiệm giữa những người Palestin khi những khu vực định cư mở rộng và những cuộc thương lượng đã kết thúc bi hài. Trong khi nó còn lâu mới một mình trong việc khởi động chiến dịch tàn khốc của các cuộc tấn công tự sát chống lại Israel trong Intifada thứ Hai – tất cả các tổ chức Palestin đã tham gia – nó ngày càng đặt mình vào vị trí lãnh đạo.
Khi Ariel Sharon, dưới trướng ‘chiến tranh chống khủng bố’, đã san bằng Bờ Tây trong Chiến dịch Khiên Phòng thủ (Operation Defensive Shield), Fatah đã chẳng thể làm gì để chặn nó. Tự đặt mình như đối lập với sự lãnh đạo không được lòng dân của Fatah, Hamas đã tranh cử và thắng các cuộc bầu cử thành phố một phần trong 2005, và sau đó các cuộc bầu cử lập pháp Palestin trong 2006. Mặc dù Fatah đã chấp nhận kết quả, các đảng đã chia rẽ về sự kiểm soát các lực lượng an ninh, mà về nó bộ trưởng nội vụ Hamas mới sẽ chịu trách nhiệm. Khi Tổng thống Mahmoud Abbas bổ nhiệm một người trung thành của Fatah và Hamas đáp lại bằng việc thành lập lực lượng an ninh riêng của nó, một cuộc nội chiến nổ ra trong đó Hamas bị đuổi ra khỏi Bờ Tây, với sự giúp đỡ từ Israel và Hoa Kỳ. Hamas nắm sự kiểm soát Dải Gaza, mà Israel đã ‘không can dự’ vào đó.48
Việc này đã xác nhận sự sụp đổ của Oslo, và như thế của cơ hội cuối cùng của Zionism Lao động. Đổ lỗi cho những người Palestin vì sự thất bại của nó, nó không còn mấy đặc biệt để chào mời nữa. Phong trào Palestin bị chia rẽ, và Chính quyền Palestin chẳng có thẩm quyền nào. Israel, dưới không áp lực nào để thương lượng, đơn giản đặt Gaza dưới một vòng vây dữ dội và tạo ra sự đã rồi (faits accomplis) với sự tăng lên của các khu định cư và tiền đồn ở Bờ Tây. Làn sóng của các cuộc tấn công Palestin vào Israel đã đuối dần vào 2005, trong khi phong trào đoàn kết quốc tế bùng lên khi Sharon phá hủy Bờ Tây trong 2002 đã đi vào suy thoái. Tuy nhiên, bất chấp sức mạnh áp đảo của nó, và giữa bầu không khí tăng lên của kỳ vọng tận thế được ‘chiến tranh chống khủng bố’ tăng cường với chế độ tôn giáo xung đột với nền văn minh của nó, chiến thắng của Israel đã chẳng bao giờ có vẻ hoàn toàn. Nó đã tiến hành chiến tranh chống Lebanon trong 2006 với ít hiệu quả cuối cùng, IDF bị Hezbollah đánh đến bế tắc. Những cuộc tấn công lặp đi lặp lại của nó vào Gaza đã đạt được ít trừ sự phá hủy. Khi những người Palestin bị giam hãm trong Dải Gaza bị bao vây và một Chính quyền Palestin áp bức ở Bờ Tây, những thế hệ trẻ hơn của những người Israeli đã lớn lên tương đối an toàn hơn và cô lập hơn khỏi những người Palestin. Họ trở nên cánh-hữu hơn so với cha mẹ và ông bà của họ rất nhiều và khao khát một thắng lợi quyết định.
Các nhà tự do Israeli, lo lắng bởi sư trỗi dậy của cánh hữu khi Netanyahu lên nắm quyền trong 2009, đã thử quay lại gốc rễ của Zionism và làm sống lại định nghĩa truyền thống của nó như nơi trú ngụ, ‘an ninh’ và nhà nước cung cấp cho phúc lợi Israeli. Nhưng phong trào này đã qua rồi. Israel đã là nước bất bình đẳng nhất trong OECD. Tâm trạng công chúng của nó đã bi quan sâu sắc. Sự ủng hộ cho một sự dàn xếp hai nhà nước đã cạn khô, khoảng 80 phần trăm của những người Do thái Israeli đã ủng hộ sự đối xử ưu đãi cho những người Do thái, hầu hết đã ủng hộ những khu định cư, gần như hai phần ba trong số họ cho rằng Israel được Chúa trao cho những người Do Thái và khoảng một nửa ủng hộ sự trục xuất tất cả những người Palestin khỏi vùng đất do Israel cai trị. Những người Do thái Israeli thuộc mọi niềm tin chính trị đã chọn chiến tranh liên miên, với chiều kích cứu thế của chủ nghĩa dân tộc ngày càng công khai. Như Naftali Bennett của đảng Quê hương Do thái (Jewish Home) nhận xét, chủ nghĩa thế tục đã qua: Israel là một ‘quê hương’ tôn giáo, không còn là một ‘nơi trú ngụ’ nữa. Phần của ‘dati leumi (Zeonism tôn giáo)’, các nhà Zionist tôn giáo cực-hữu giữa những người Do thái Israeli đã tăng từ 10 phần trăm lên hơn một phần tư, với những người trẻ được đại diện quá giữa họ.49
Sự thèm khát tái sinh đạo đức qua chiến tranh là vô tận. Tiếp sau ‘sự không can dự’ của nó khỏi và sự phong tỏa tiếp sau của Dải Gaza, Israel phát động một loạt cuộc tấn công tàn phá. Tiếp sau cuộc xâm lấn thất bại vào miền nam Lebanon trong 2006, mà kết quả đáng chú ý duy nhất của nó là ‘học thuyết Dahiya’, Israel đã tấn công Gaza trong Chiến dịch Đúc Chì (2008–9), Trụ cột Mây (2012), Cạnh Bảo vệ (2014) và các cuộc tấn công kép lên Bờ Tây và Gaza trong 2021. Mỗi trong các cuộc chiến tranh này được ủng hộ bởi không ít hơn 90 phần trăm của những người Do thái Israeli, và mỗi được một cực hữu chiến đấu ăn mừng trên đường phố: ‘Không còn trẻ em nào ở Gaza! … Gaza là một nghĩa địa!’ Công chúng thường hiếu chiến hơn chính phủ: trong 2021, ba phần tư của tất cả những người Israeli đã phản đối một sự ngừng bắn. Các bộ trưởng cực-hữu được bao gồm trong mọi chính phủ Israeli sau 2009 và đã dùng tiểu sử sơ lược của họ để kích động chống lại những người Palestin và ‘những người nước ngoài’, góp phần cho các vụ náo loạn chủng tộc trong đó những người nhập cư Ethiopi bị tấn công trong năm 2012.
Ngay cả khi phiếu cho cực-hữu thế tục và tôn giáo bị vỡ ra từng mảnh, liền lại và lại vỡ ra từng mảnh lần nữa giữa các đảng như đảng Yisrael Beiteinu của Avigdor Lieberman, đảng Quê hương Do thái của Naftali Bennet, đảng Quyền lực Do thái Kahanist và Đảng Tôn giáo Dân tộc, cực hữu như một toàn thể đã tăng về ảnh hưởng. Các đảng cánh hữu-cứng rắn như Likud, Shas và United Torah Judaism đã phản ứng với sự tăng trưởng của cực hữu bằng việc chấp nhận các chủ đề của chúng. Mọi chính phủ do Netanyahu-lãnh đạo kể từ 2009 đã có các bộ trưởng cực-hữu, và chính quyền được bàu trong tháng Mười Một năm 2022 đã là chính phủ đầu tiên có các bộ trưởng Kahanist, Itamar Ben-Gvir và Belazel Smotrich, cả hai được bổ nhiệm vào những bộ hùng mạnh chịu trách nhiệm về an ninh quốc gia và tài chính một cách tương ứng.50
Vào năm 2022, các tổ chức Amnesty International, Human Rights Watch và B’Tselem tất cả đều đồng ý rằng Israel là một chế độ ‘apartheid’. Nó là, B’Tselem nói, một ‘chế độ Do thái thượng đẳng từ sông Jordan đến Biển Địa Trung Hải’. Mọi người sống ở đó bị Israel cai trị, nhưng chỉ một nửa có các quyền. Thời khắc quyết định cho các tổ chức này, từ lâu đã quen lập tư liệu những hành động tàn bạo và sự lạm dụng Israeli, đã là sự thông qua luật ‘nhà nước quốc gia’ xác định Israel, theo những điều khoản loại trừ, như ‘nhà nước quốc gia của những người Do thái’, và sự định cư như một ‘giá trị dân tộc’ phải được nhà nước cổ vũ. Điều này đã thiết lập trong luật cái đã là thực tế de facto kể từ sự thành lập Israel. Trong những năm kể từ sự thông qua của nó, tòa án tối cao Israeli đã giữ vững luật, trong khi những người định cư và binh lính đã tàn sát trong các thị trấn và các làng Bờ Tây Huwara, Urif, Turmusaya, al-Baq’ah, Assira al-Qibliya, Beit Furik, Za’tara, Nam Núi Hebron và Beita.51
Netanyahu đã biết những gì ông đang làm. Trong khi kết lại với cực hữu ở trong nước, ông cũng xây dựng những cây cầu với các chính phủ cực-hữu về mặt quốc tế, ở Ấn Độ, Hungary, Rumania, Brazil và, sau 2016, ở Hoa Kỳ. Ông đã lập các liên minh với các chính trị gia chống-semitic như Orbán và các nhân vật như Elon Musk, biến ông ta, theo tờ báo Ha’aretz, thành ‘đội trưởng cổ vũ của các nhà antisemite’. Tuy vậy, trong việc làm thế, ông đang khai thác sự cân bằng thay đổi của các lực lượng toàn cầu để xúc tiến sự sáp nhập Bờ Tây và cuối cùng làm cho một nhà nước Palestin là không thể.
Liên minh với Donald Trump đã cho phép Israel tuyên bố Jerusalem là thủ đô của Israel, mặc dù Đông Jerusalem được xem là bị chiếm đóng dưới luật quốc tế. ‘Thỏa thuận Thế kỷ’ của Trump cho Israel đã thấy trước không nhà nước Palestin nào, cũng chẳng quyền nào cho những người tị nạn hay những người sống ở Bờ Tây và Gaza, chỉ chào mời sự tài trợ nếu những người Palestin sẽ ưng thuận biến Bờ Tây thành một công viên kinh doanh Israeli.* Thỏa thuận đã bị chế nhạo rộng rãi như một ‘kế hoạch đầu hàng’. Chính quyền Palestin không thể chấp nhận nó, nhưng trong thực tiễn nó đã đầu hàng rồi. Hamas, chiếm vai trò mâu thuẫn của ‘chính phủ phiến loạn’ ở Gaza, được coi là bị ngăn chặn. Netanyahu thậm chí vui sướng cho Qatar để tài trợ chính quyền Hamas, trong khi IDF định kỳ phá hủy hoàn toàn Gaza, như ông lập luận rằng nó sẽ bảo tồn sự chia rẽ giữa Bờ Tây và Gaza.
Đại sứ Israeli Danny Danon, cho sự diễn đạt ngoại giao cho ý chí kích động mạnh này đến quyền lực, hỏi một cách cố tình khiêu khích trong tờ New York Times: ‘Có gì sai với sự đầu hàng Palestin?’52 Vào ngày 7 tháng Mười 2023, ông nhận được câu trả lời.
VI.
Vào ngày 29 tháng Mười Hai 2023, sau hầu như ba tháng phá hủy tàn nhẫn, Israel bị giáng với một quả bom pháp lý khi Nam Phi đệ đơn để bắt đầu vụ kiện chống lại Israel tại Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice-ICJ). Dùng một thủ tục mà đã được Gambia dùng thành công trước đó để can thiệp vào sự diệt chủng của Myanmar chống lại những người Rohingya, nó viện dẫn nghĩa vụ của nó như một bên của Công ước Diệt chủng để ngăn chặn sự diệt chủng. Nó cũng đã yêu cầu tòa án ra lệnh ‘các biện pháp tạm thời’ để chặn sự diệt chủng, kể cả lời kêu gọi chấm dứt hoạt động quân sự của Israel.
Cơ sở của lý lẽ của Nam Phi là các nhà lãnh đạo Israeli đã có ý định diệt chủng rõ ràng, và điều này được phản ánh trong thực tiễn ở hiện trường. Nhịp độ giết dân thường chưa từng có; phần của phụ nữ và trẻ em giữa những người chết là cao; sự tấn công chống lại các hệ thống hỗ trợ cuộc sống như y tế, nước, nhiên liệu và thực phẩm; và sự phá hủy các định chế của đời sống quốc gia và văn hóa như các đại học, các trường học và các thánh đường tất cả đều truyền đạt một ‘ý định để phá hủy’. Hành vi của các binh lính mà nhắc đến bài phát biểu ‘Amalek’ của Netanyahu trong khi chào mừng các ý định diệt chủng của riêng họ cho thấy rằng những sự xúi giục chính thức đã được hiểu và được thực hiện đầy đủ trên hiện trường.53
Trong một lập luận kết thúc mạnh mẽ, được ca ngợi rộng rãi cho sự khởi tố, luật sư Blinne Ní Ghrálaigh nói:
Trên cơ sở của các số liệu hiện thời, trung bình 247 người Palestin bị giết và có nguy cơ bị giết mỗi ngày, nhiều trong số họ theo nghĩa đen bị nổ tung thành từng mảnh. Họ bao gồm 48 bà mẹ mỗi ngày, hai người mỗi giờ và hơn 117 trẻ em mỗi ngày, khiến UNICEF gọi các hành động của Israel là một cuộc chiến tranh chống lại trẻ em.
Theo tốc độ hiện thời, mà không cho thấy dấu hiệu giảm bớt nào, mỗi ngày hơn 3 bác sĩ, 2 giáo viên, hơn một nhân viên LHQ và hơn một nhà báo sẽ bị giết, nhiều người trong khi làm việc hay trong cái dường như bị các cuộc tấn công nhắm mục tiêu chống lại nhà ở gia đình của họ hoặc nơi họ trú ẩn.
Rủi ro về nạn đói sẽ tăng lên mỗi ngày. Mỗi ngày, trung bình 629 người sẽ bị thương, một số người bị nhiều lần khi họ chuyển từ nơi này sang nơi khác tuyệt vọng tìm kiếm nơi trú ẩn.
Mỗi ngày hơn 10 trẻ em Palestin sẽ phải cắt một hay cả hai chân, nhiều đứa không có thuốc gây mê. Theo tốc độ hiện hành, mỗi ngày trung bình 3.900 nhà ở Palestin sẽ bị hư hại hoặc bị phá hủy, nhiều mộ tập thể hơn sẽ được đào, nhiều nghĩa địa hơn sẽ bị ủi và đánh bom, từ chối thậm chí cho những người chết bất cứ nhân phẩm hay sự yên tĩnh nào.54
Theo Omer Bartov, Nam Phi đã đưa ra một ‘vụ kiện mạnh’, ‘mạnh mẽ’ chống lại Israel.55 Người ta sẽ rất khó hiểu vụ án này gây khó khăn cho Israel như thế nào nếu người ta dựa vào tin tức tiếng Anh. Ở Vương quốc Anh, trong khi lời biện hộ bảo vệ của Israel được phát trực tiếp, sự truy tố của Nam Phi được mô tả bằng những thuật ngữ phác họa-rộng và không được phát. Sự biện hộ của Israel, được dự định cho phòng tin nhiều hơn cho phòng xử án, bắt đầu từ khẳng định gây tranh cãi rằng Nam Phi đã trở thành đại diện pháp lý của Hamas. Rồi nó lập luận rằng Hamas hơn là Israel đã chọn cuộc chiến tranh này, rằng các lệnh trục xuất có ý định để tha các mạng sống Palestin (mặc dù Israel đã ném bom lặp đi lặp lại các không gian ‘an toàn’), rằng họ không thể bị đổ lỗi nếu Hamas giấu các chiến binh của họ gữa các dân thường, và rằng các tuyên bố truyền đạt ý định diệt chủng đã không có ý định như vậy. Chẳng cái nào trong số này là một sự biện hộ pháp lý thỏa đáng chống lại sự cáo buộc diệt chủng cả, nhưng nó đã nhất quán với thông điệp media Israeli. Lời biện hộ quan trọng nhất của Israel rằng Nam Phi đã không có một tranh chấp thực sự nào với Israel về sự vi phạm của nó đối với Công ước diệt chủng, và như thế nó yêu cầu tòa án vứt vụ kiện của Nam Phi đi.56
Tuy vậy, khi ICJ chuẩn bị ghe vụ kiện, các bộ trưởng Israeli tiếp tục khoe khoang mục tiêu của họ về phá hủy Gaza và khử dân cư Palestin. Đại sứ Hotovely, được hỏi trên radio LBC nếu bà đưa ra một lập luận ‘cho việc phá hủy toàn bộ Gaza, mọi tòa nhà trong nó’, bà lạnh lùng đáp lại: ‘Bạn có giải pháp khác ư?’ Khi tòa án thảo luận cân nhắc, bộ trưởng ngoại giao Israel Katz nói với EU rằng những người Palestin nên được ở trên một hòn đảo nhân tạo trong Địa Trung Hải. Trong khi đó Netanyahu cho biết rằng Israel sẽ không ngừng cuộc tấn công của nó cho dù ICJ phán quyết chống lại nó.57
Vào ngày 26 tháng Giêng 2024, Israel bị một thất bại pháp lý sơ bộ nhục nhã. Tòa án, trong một phán quyết được Joan Donoghue, một cựu cố vấn pháp lý của Bộ Ngoại giao dưới Hillary Clinton, đọc một mạch đã bác bỏ sự biện hộ của Israel và chấp nhận rằng Nam Phi có quyền khởi kiện. Nó chấp nhận các hành động ‘do Israel phạm’ dường như ‘có khả năng rơi vào’ bên trong các quy định của Công ước diệt chủng. Nó liệt kê các tuyên bố Israeli bày tỏ ý định diệt chủng, các hành động xúi giục và các cuộc tấn công chống lại những người Palestin như một nhóm. Nó nhận diện một ‘sự khẩn cấp’, một ‘rủi ro thực và sắp xảy ra’ của sự thiệt hại ‘không thể sửa chữa’ được thực hiện đối với những người Palestin trước khi vụ xử kết thúc. Nó ra lệnh cho Israel để ngăn cản quân đội của nó khỏi việc phạm các hành động diệt chủng, để cho phép cứu trợ nhân đạo vào Dải Gaza và để trừng trị sự xúi giục diệt chủng. Israel được trao một tháng để báo cáo lại về các biện pháp được thực hiện.58 Mặc dù tòa án đã không kêu gọi cụ thể cho một cuộc ngừng bắn, là khó để thấy các lệnh này có thể được tuân theo thế nào trong khi tiếp tục cuộc chiến tranh.
Đấy là một thời khắc lịch sử: Israel sẽ bị truy tố vì tội diệt chủng. ‘Lần đầu tiên trong bảy mươi lăm năm,’ Mustafa Barghouti của Sáng kiến Quốc gia Palestin giải thích, ‘Israel bị tước bỏ sự miễn bị trừng phạt của nó.’ Phán quyết đã giáng vào mặt của những khẳng định Israeli rằng vụ kiện là một ‘tội phỉ báng đẫm máu’. Nó đã đả kích các tuyên bố Tây phương gọi sự truy tố là ‘không có cơ sở’ (người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ John Kirby) hay ‘hoàn toàn không được biện minh’ (thủ tướng Vương quốc Anh Rishi Sunak) và vạch trần chúng cho sự cáo buộc đồng lõa diệt chủng. Và nó đã giảm xuống thành sự tự châm biếm thói tỏ ra cao đạo của các cơ quan truyền thông vô minh gạt bỏ vụ kiện của Nam Phi như, theo cụm từ của tờ Economist, ‘hời hợt’.
Một số đồng minh của Israel đã thử xoáy điều này như một thắng lợi cho Israel, hoặc ít nhất giảm nhẹ tính nghiêm trọng của quyết định. Bộ ngoại giao Hoa Kỳ cho rằng quyết định của tòa là ‘nhất quán’ với lập trường của nước Mỹ rằng Israel có quyền hành động phù hợp với luật quốc tế, lưu ý rằng ‘tòa đã không đưa ra một sự phát hiện về sự diệt chủng hay kêu gọi một sự ngừng bắn’. Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao John Kirby cũng nhấn mạnh rằng tòa đã không tìm thấy ‘Israel phạm tội diệt chủng’, mặc dù các bị cáo thường không bị kết tội khi thưa kiện. Các báo Mỹ nêu bật sự thiếu của một đòi hỏi ngừng bắn cụ thể, trong khi nhà phân tích an ninh của Sky News cho rằng tòa đã chỉ nói ‘những gì các đồng minh của Israel đang nói’. Tuy vậy, tất cả điều đó lẽ ra đã là nước đi PR (quảng cáo) thông minh cho Israel. Tuy vậy, các quan chức Israeli không nghe về nó. Netanyahu đã lên án tòa án là chống-semitism. Gallant đã nổi đóa rằng Israel ‘không cần bị lên lớp về đạo đức’, và rằng ICJ đã ‘vượt quá yêu cầu’ trong việc trao cho ‘đòi hỏi chống-semitic’ của Nam Phi để truy tố Israel. Ben-Gvir đơn giản tuyên bố: ‘Hague Schmague (Hague Điên rồ).’59
Lại lần nữa, Israel đã làm cao về cảm giác phì đại của nó về tư cách nạn nhân ngay cả khi nó giết người. Mọi sự chỉ trích Israel có thể bị đổ lỗi cho ảnh hưởng quỷ quệt của Hamas, mà là bọn Nazi. Tuy vậy, nó đã chọn sự ô nhục này, với sự ủng hộ quân sự, chính trị và ngoại giao áp đảo. Không lúc nào nó định rõ một mục tiêu cuối cùng hợp lý cho cuộc chiến tranh của nó, hoặc một kịch bản thực tế cho ngày sau chiến tranh, còn ít hơn cho bất kể giải pháp có ý nghĩa nào để chấm dứt cuộc chiến tranh của nó với người Palestin, nó chịu thua những cơn bốc đồng cứu thế ảo giác nhất của nó. Các chính phủ Tây phương, bỏ qua bản chất của chế độ họ đang liên minh với, lặp đi lặp lại đã cho phép, biện minh và cung cấp vỏ bọc cho bạo lực dân tộc chủ nghĩa cực đoan dễ phát sinh tái diễn của Israel.
Ngay cả khi ICJ cảnh cáo về một mối nguy hiểm diệt chủng sắp diễn ra chống lại những người Palestin, Hoa Kỳ và các đồng minh của nó đã tuyên bố rằng họ đang rút lại tài trợ cho UNRWA, một trong vài nguồn thực phẩm và thuốc men còn lại ở Gaza, dựa vào những cáo buộc vẫn chưa được chứng minh xuất phát từ sự thẩm vấn các nghi phạm của Shin Bet (cơ quan an ninh nội địa và phản gián) Israeli rằng vài nhân viên của tổ chức có lẽ đã tham gia vào các cuộc tấn công ngày 7 tháng Mười. Các đồng minh của Israel, còn xa mới nao núng trước lời cảnh cáo của tòa án, lại tăng gấp đôi sự diệt chủng. Với thói đạo đức giả không thể tin nổi, họ cũng phản đối sự đồng cảm của họ cho thường dân Palestin và thậm chí, theo lời của Bộ Ngoại giao, tuyên bố ‘đau buồn với’ những người họ đang giúp để hủy hoại.60
Thật cám dỗ để nói rằng sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực-hữu ngày tận thế ở Israel và sự ủng hộ bạo lực diệt chủng ngày càng công khai của nó trong khi che chắn bản thân mình bằng việc chiếm đoạt ký ức Holocaust là một sự đảo ngược lịch sử quen thuộc. Edward Said mô tả một cách nổi tiếng những người Palestin như ‘các nạn nhân của các nạn nhân’, trong khi công trình của Mahmoud Mamdani về cuộc diệt chủng Rwanda cho chúng ta thấy rằng chẳng có gì thật đáng ngạc nhiên về các nạn nhân trở thành những kẻ giết người.61 Tuy nhiên sự thấu hiểu của Mamdani liên quan đến cách mà một dân cư bị nạn nhân hóa chống lại những kẻ áp bức trước kia của nó. Và trong khi điều đó có thể giải thích một phần những cơn thịnh nộ báo thù đôi khi được thả sổng bởi các phong trào chống thực dân như FLN ở Algeria, hay bởi các dân quân Palestin chống lại dân thường Israeli vào ngày 7 tháng Mười 2023, nó không hiểu rõ những gì đã xảy ra ở Israel. Vì, trong chừng mực các nhà sáng lập Israel đã là các nạn nhân của chống-semitism Âu châu, họ đã trở thành những kẻ giết người rồi khi họ quyết định thuộc địa hóa Palestine. Và có rất nhiều công trình lịch sử bây giờ ủng hộ định chế của các phong trào chống-thuộc địa mà kích thích chủ nghĩa phát xít trong vẻ ngoài ban đầu của nó đã là thuộc địa hóa và sự tiên phong của nó về chế độ độc tài chủng tộc và diệt chủng. Sự diệt chủng đầu tiên của thế kỷ thứ hai mươi, định hình cái sẽ đến, rốt cuộc đã là việc người Đức phá hủy tàn nhẫn những người Herero ở Namibia ngày nay.62
Aimé Césaire, nhà thơ Martinic và người nổi loạn chống-thuộc địa, đã mô tả không thể nào quên động học trong Discourse on Colonialism (Đàm luận về Chủ nghĩa Thực dân) của ông:
Đầu tiên chúng ta phải nghiên cứu thuộc địa hóa hoạt động thế nào để phá hoại văn minh của kẻ thực dân, để dã man hóa hắn theo nghĩa đúng của từ, để tha hóa hắn, để đánh thức hắn tới các bản năng bị chôn vùi, tới sự thèm muốn, bạo lực, sự thù hằn chủng tộc, và chủ nghĩa tương đối đạo đức; và chúng ta phải cho thấy rằng mỗi lần một cái đầu bị cắt hoặc một con mắt bị moi ra ở Việt Nam và ở Pháp họ chấp nhận sự thực, mỗi lần một bé gái bị hiếp và ở Pháp họ chấp nhận sự thực, mỗi lần một người Madagasca bị tra tấn và ở Pháp họ chấp nhận sự thực, nền văn minh có được một trọng lượng toàn phần (dead weight) khác, một sự hồi quy phổ quát diễn ra, một sự hoại thư bắt đầu, một trung tâm lây nhiễm bắt đầu lan ra; và rằng vào cuối của tất cả các hiệp ước mà đã bị vi phạm, tất cả những lời dối trá này mà đã được truyền bá, tất cả những cuộc viễn chinh trừng phạt này mà đã được chịu đựng, tất cả các tù nhân này mà đã bị trói và ‘bị thẩm vấn’, tất cả những người yêu nước này mà đã bị tra tấn, vào cuối của tất cả niềm tự hào chủng tộc mà đã được cổ vũ, tất cả sự khoe khoang mà đã được phô bày, một chất độc đã được nhỏ giọt vào tĩnh mạch của châu Âu và, chậm chạp nhưng chắc chắn, lục địa tiếp tục hướng tới tính tàn bạo.63
Chúng ta đang tiếp tục hướng tới sự tàn bạo ngày nay trong những điều kiện khác. Các cuộc diệt chủng của thời đại thực dân đã là những sự diệt chủng của cái mà Karl Marx sẽ gọi là ‘sự lệ thuộc hình thức (formal subsumption)’. Chúng được thực hiện bởi những nhà nước tư bản chủ nghĩa công nghiệp mới, tìm kiếm một lối ra cho dân số dư thừa và vốn dư thừa, và dùng bạo lực để hoặc ép buộc những dân cư rắc rối vào việc chấp nhận vai trò của họ như lao động có thể khai thác, hay thủ tiêu họ.64
Các cuộc diệt chủng của hôm nay, chống lại những người Rohingya ở Myanmar, chống lại những người Gaza, và ban đầu chống lại những người Muslim ở Ấn Độ, thông thường xảy ra trong khung cảnh của những hình thức của chủ nghĩa dân tộc sắc tộc được thúc đẩy bởi những con đường tăng trưởng tư bản chủ nghĩa vạm vỡ trong các nền kinh tế hiện đại. Những sự loạn chức năng của nền kinh tế chính trị này, sự thất bại của nó để cung cấp một cơ sở thích đáng cho không tưởng dân tộc chủ nghĩa của một sự tương đẳng hoàn hảo giữa nhân dân và nhà nước, được chuyển hóa một cách xáo quyệt qua sự phối hợp bạo lực chống lại các dân cư dê tế thần. Dựng các biên giới đạo đức bằng thép và máu, chúng cho phép một tầm nhìn không tưởng lờ mờ để được xây dựng lại quanh một tầm nhìn được làm sạch về quốc gia-dân tộc. Một tầm nhìn xa xôi không thực tế đến mức mong muốn nó bày tỏ chẳng bao giờ có thể được thỏa mãn và chẳng bao giờ có thể ngừng mà không dẫn đến thảm họa.
Chú Thích:
- SỰ DIỆT CHỦNG: BỊ CHE KHUẤT TRONG BÓNG TỐI
- 1. Được trích trong Yoel Elizur and Nuphar Yishay-Krien, ‘Participation in Atrocities Among Israeli Soldiers During the First Intifada: A Qualitative Analysis’, Journal of Peace Research 4: 2 (March 2009), pp. 251–6.
- 2. ‘Statement of ICC Prosecutor Karim A.A. Khan KC: Applications for arrest warrants in the situation in the State of Palestine’, International Criminal Court, 20 May 2024.
- 3. Rohan Talbot, ‘My neighbourhood was destroyed …’, com, 29 October 2023.
- 4. ‘At Least 45% of Housing Units Destroyed or Damaged in Gaza’, Wall Street Journal, 27 October 2023; Steve Hendrix, ‘A midnight trip into northern Gaza reveals a shattered warscape’, Washington Post, 19 November 2023; ‘Israeli bombardment destroyed over 70% of Gaza homes: Report’, Al Jazeera, 31 December 2023.
- 5. ‘As dead bodies remain scattered in streets and under rubble, a new health disaster looms over Gaza’, ReliefWeb, 18 November 2023; Sarah Shamim, ‘Is Israel’s Gaza war the deadliest conflict for children in modern times?’, Al Jazeera, 7 November 2023; Lauren Leatherby, ‘Gaza Civilians, Under Israeli Barrage, Are Being Killed at Historic Pace’, New York Times, 25 November 2023; ‘Two Thirds of Gaza War Dead Are Women and Children, Briefers Say, as Security Council Debates Their Plight’, United Nations Press Release, SC/15503, 22 November 2023; Somayeh Malekian and Sami Zayara, ‘In grim milestone, 1% of Gaza Strip population killed since Israel-Hamas war began’, ABC News, 10 January 2024.
- 6. Raz Segal, ‘A Textbook Case of Genocide’, Jewish Currents, 13 October 2023; UNRWA, ‘Over 10,000 people have been killed …’, com, 7 November 2023.
- 7. Emanuel Fabian, ‘Defense minister announces “complete siege” of Gaza: No power, food or fuel’, Times of Israel, 9 October 2023; Israel Katz, ‘For years we supplied Gaza with electricity …’, com, 11 October 2023; Paul Blumenthal, ‘Israeli President Suggests That Civilians In Gaza Are Legitimate Targets’, Huffington Post, 17 October 2023; ‘Israel MK calls for a second Nakba in Gaza’, Middle East Monitor, 9 October 2023; ‘Israel MK says “use Doomsday weapons” against Gaza’, Middle East Monitor, 10 October 2023; ‘“City of tents”: Israeli defence official vows every building in Gaza will be destroyed in “ground manoeuvre”’, Sky News Australia, 12 October 2023; ‘Israel-Palestine war: Sara Netanyahu’s adviser calls for torture of Gaza residents involved in killing Israelis’, Middle East Eye, 14 October 2023; Aleksandra Wrona, ‘Did an Israeli Leader Say, “It’s Time To Turn Gaza into Dresden! Gas the Palestinans Now?” ’, Snopes, 1 November 2023; Giora Eiland, ‘םה וא ונחנא וא הז .המקנ אל וז’, Yedioth Ahronoth, 10 October 2023; Jonathan Ofir, ‘Influential Israeli national security leader makes the case for genocide in Gaza’, Mondoweiss, 20 November 2023; ‘Retired Israeli general says spread of disease in Gaza “will bring victory closer”’, New Arab, 21 November 2023; Gianluca Pacchiani, ‘COGAT chief addresses Gazans: “You wanted hell, you will get hell”’, Times of Israel, 10 October 2023.
- 8. Harry Davies, Bethan McKernan and Dan Sabbagh, ‘“The Gospel’: How Israel uses AI to select bombing targets in Gaza’, Guardian, 1 December 2023; Yuval Abraham, ‘“A mass assassination factory”: Inside Israel’s calculated bombing of Gaza’, +972 Magazine, 30 November 2023; ‘Israel kills dozens of academics, destroys every university in the Gaza Strip’, EuroMed Monitor, Reliefweb, 20 January 2024; Katie Polglase, Gianluca Mezzofiore, Eliza Mackintosh, et al., ‘How Gaza’s hospitals became battlegrounds’, CNN, 12 January 2024; Abdelhakim Abu Riash, ‘Gaza bakeries targeted and destroyed by Israeli air attacks’, Al Jazeera, 2 November 2023; ‘Gaza’s Water Crisis Puts Thousands at Risk of Preventable Death’, Anera, Reliefweb, 8 November 2023; Noel Sharkey, ‘Saying “No!” to Lethal Autonomous Targeting’, Journal of Military Ethics 9: 4 (2010), pp. 369–83; Patrick Tucker, ‘This Air Force Targeting AI Thought It Had a 90% Success Rate. It Was More Like 25%’, Defence One, 9 December 2021; David Vergun, ‘Artificial Intelligence, Autonomy Will Play Crucial Role in Warfare, General Says’, Department of Defence News, 8 February 2022; Matthew R. Voke, Major, USAF, ‘Artificial Intelligence for Command and Control of Air Power’, Wright Flyer Paper No. 72, Air University Press, Muir S. Fairchild Research Information Center Maxwell Air Force Base, Alabama.
- 9. Tzipi Hotovely on Sky News, 16 October 2023; Grant Shapps on BBC News, 12 November 2023; Thomas Hippler, Bombing the People: Giulio Douhet and the Foundations of Air-Power Strategy, 1884-1939, Cambridge University Press, Cambridge and New York, 2013; Thomas Hippler, Governing from the Skies: A Global History of Aerial Bombing, Verso, London and New York, 2017; Robert A. Pape, Bombing to Win: Air Power and Coercion in War, Cornell University Press, Ithaca and London, 1996; Yuki Tanaka and Marilyn B. Young, eds, Bombing Civilians: A Twentieth-Century History, New Press, New York, 2010; Martin Shaw, War and Genocide: Organized Killing in Modern Society, Polity, Cambridge, 2003; Martin Shaw, The New Western Way of War: Risk Transfer War and Its Crisis in Iraq, Polity, Cambridge, 2005; Richard Holmes, Acts of War: the Behaviour of Men in Battle, Weidenfeld and Nicolson, London, 2003; drone pilot được trích trong Sharkey, ‘Saying “No!” to Lethal Autonomous Targeting’, pp. 369–83.
- 10. Human Rights Council, Human Rights in Palestine and Other Occupied Arab Territories, Report of the United Nations Fact-Finding Mission on the Gaza Conflict, A/HRC/12/48 (25 September 2009); Human Rights Council, Report of the independent commission of inquiry established pursuant to Human Rights Council resolution S-21/1, A/HRC/29/52 (24 June 2015); Human Rights Council, Report of the detailed findings of the independent commission of inquiry established pursuant to Human Rights Council resolution S-21/1, A/HRC/29/CRP.4 (24 June 2015).
- 11. Yaniv Kubovich, ‘Graphic Videos and Incitement: How the IDF Is Misleading Israelis on Telegram’, Ha’aretz, 12 December 2023; ‘Israeli soldiers’ TikTok videos reveal disturbing behaviour in Gaza’, Middle East Monitor, 16 January 2024; Melanie Lidman, ‘Videos of Israeli soldiers acting maliciously emerge amid international outcry against tactics in Gaza’, Associated Press, 13 December 2023; ‘An Israeli soldier dedicated exploding a building to his two-year-old daughter …’, Middle East Eye, TikTok, 25 November 2023.
- 12. Nadeen Ibrahim, ‘Bloody diarrhea, jaundice, hepatitis: Thousands fall ill in war-ravaged Gaza amid spike in infectious diseases’, CNN, 12 December 2023; Bassam Masoud and Saleh Salem, ‘Gaza faces “perfect storm” of deadly diseases’, Reuters, 14 December 2023; International Food Security Phase Classification, ‘GAZA STRIP: IPC Acute Food Insecurity. November 2023 – February 2024’, 21 December 2023; ‘Deaths by Starvation and Disease May Top Deaths by Bombs As Families Squeezed into Deadly “Safe Zones”, Two Months into Gaza Crisis’, Save the Children, 9 December 2023; de Waal được trích trong Stephanie Nolen, ‘Looming Starvation in Gaza Shows Resurgence of Civilian Sieges in Warfare’, New York Times, 11 January 2024; xem cả Alex de Waal, Mass Starvation: The History and Future of Famine, Polity, Cambridge, 2018; Alex de Waal, ‘Starvations as a Method of Warfare’, LRB blog, 11 January 2023; Integrated Food Security Phase Classification, ‘IPC Acute Food Insecurity Analysis 15 February–15 July 2024, Published on 18 March 2024’, org; Zeina Jamaluddine, Zhixi Chen, Hanan Abukmail, et al., ‘Crisis in Gaza: Scenario-based health impact projections. Report One: 7 February to 6 August 2024’, London, Baltimore: London School of Hygiene and Tropical Medicine, Johns Hopkins University, 2024.
- 13. Segal, ‘A Textbook Case of Genocide’; Stefanie Fox, ‘A Jewish Plea: Stand Up to Israel’s Act of Genocide’, Boston Review, 13 October 2023; Omer Bartov, ‘What I Believe as a Historian of Genocide’, New York Times, 10 November 2023.
- 14. Abdelali Ragad, ‘How Hamas built a force to attack Israel on 7 October’, BBC News, 27 November 2023; Gloria Sicilia Lozano, ‘Guard down: deconstructing the 7 October policy, defence and intelligence failure’, Real Institute Elcano, 16 November 2023; Samuel Forey, ‘Hamas attack: October 7, a day of hell on earth in Israel’, Le Monde, 30 October 2023; ‘Israel/Palestine: Videos of Hamas-Led Attacks Verified’, Human Rights Watch, 18 October 2023; on sexual violence, xem ‘Sexual and Gender-Based Violence As a Weapon of War During the October 7, 2023 Hamas Attacks’, Physicians for Human Rights Israel, Position Paper, November 2023. Như tài liệu nêu lập trường (position paper) lưu ý, bằng chứng không thỏa mãn ngưỡng pháp lý, đến không từ các nạn nhân mà từ các nhân chứng không được huấn luyện. Israel, sau khi yêu cầu sự chú ý của LHQ tới những cáo buộc này, từ chối tham gia vào một cuộc điều tra của LHQ. Tính đến tháng Giêng 2024, tờ Ha’aretz tường thuật rằng cảnh sát vẫn gặp khó khăn để định vị các nạn nhân: ‘םרובע הנימז ינא .תודע ורסמ אלש תונברוק שיש םינימאמ ונחנא“ :רבוטקואב 7-ב ןימה יעשפ תרקוח”’, Ha’aretz, 4 January 2024. Bennet được trích trong Dominick Mastrangelo, ‘Former Israeli PM erupts at TV host for asking about Palestinan suffering’, Hill, 12 October 2023.
- 15. ‘The Hamas terror organization is responsible for violent riots …’, Israeli Defence Forces, com, 30 March 2018; John Cassidy, ‘Israel Kills Dozens of Mostly Unarmed Protesters in Gaza as Jared Kushner Speaks of Peace, in Jerusalem’, New Yorker, 14 March 2018; ‘Shooting unarmed demonstrators is illegal and the command that allows it is manifestly illegal’, B’Tselem, 30 March 2018; Orly Noy, ‘Gaza’s Great Return March: 234 killed, 17 investigations, one indictment’, +972 Magazine, 25 November 2020; ‘Two Years On: People Injured and Traumatized During the “Great March of Return” are Still Struggling’, United Nations, 6 April 2020.
- 16. ‘Joint Room and “Unity of the Squares”: What Will the Next Israeli War on Gaza Look Like’, Palestine Chronicle, 12 June 2023; ‘How Hamas built a force to attack Israel on 7 October’, BBC News, 27 November 2023; Robert Tollast and Khaled Yacoub Oweis, ‘Who are Hamas’s allies in Gaza? From Islamic Jihad to Marxist militants’, National, 15 November 2023.
- 17. Abdelali Ragad, ‘How Hamas built a force to attack Israel on 7 October’, BBC News, 27 November 2023; Gloria Sicilia Lozano, ‘Guard down: deconstructing the 7 October policy, defence and intelligence failure’, Real Institute Elcano, 16 November 2023; Samuel Forey, ‘Hamas attack: October 7, a day of hell on earth in Israel’, Le Monde, 30 October 2023; ‘Why the Palestinan group Hamas launched an attack on Israel? All to know’, Al Jazeera, 9 October 2023; ‘Israel/Palestine: Videos of Hamas-Led Attacks Verified’, Human Rights Watch, 18 October 2023; ‘Hamas militant’s bodycam shows how attacks on Israel began’, CNN, com, 16 November 2023; Jeremy Sharon, ‘Footage of Hamas assault on civilians shows likely war crimes, experts say’, Times of Israel, 8 October 2023; ‘Sexual and Gender-Based Violence As a Weapon of War During the October 7, 2023 Hamas Attacks’, Physicians for Human Rights Israel, Position Paper, November 2023; Michael Clarke, ‘How Hamas lost control over their attack on Israel’, Times Radio, Youtube.com, 26 November 2023.
- 18. Emmanuel Fabian, ‘IDF: Deaths of 29 of 170 soldiers in Gaza op were so-called friendly fire, accidents’, Times of Israel, 17 January 2024; Liza Rozovsky, ‘Families of Israelis Killed in Be’eri Home Hit by IDF Tank on October 7 Demand Probe’, Ha’aretz, 6 January 2024; Joshua Breiner, ‘ריוואהמ ותוא והיזו ,הבונ לביטספ לע שארמ ועדי אל סאמחב :ןוחטיבה תכרעמב הכרעה’, Ha’aretz, 18 November 2023.
- 19. Roni Carin Rabin, ‘Peace Activists Are Among the Israelis Missing and Killed’, New York Times, 10 October 2023.
- 20. Haggai Matar, ‘Gaza’s shock attack has terrified Israelis. It should also unveil the context’, +972 Magazine, 7 October 2023.
- 21. Matthew Lee, ‘The Biden administration once again bypasses Congress on an emergency weapons sale to Israel’, Associated Press, 30 December 2023; Umar A Farooq, ‘Israel-Palestine war: White House condemns progressives for caring about Palestinans’, Middle East Eye, 12 October 2023; Ellie Quinlan Houghtaling, ‘Here Are All the Democrats Who Voted for the “Anti-Zionism Is Antisemitism” Bill’, New Republic, 5 December 2023; Ben Sales, ‘Columbia University suspends Jewish Voice for Peace, Students for Justice in Palestine’, Times of Israel, 11 November 2023; Ahmed Mohammed Hassan, ‘Egypt discusses Gaza aid, rejects corridors for civilians, say sources’, Reuters, 11 October 2023; Trevor Hunnicutt, ‘White House says it has evidence Hamas using Al Shifa hospital to run military actions’, Reuters, 14 November 2023.
- 22. Patrick Daly, ‘UK backing Israel after it declares “siege” on Gaza following Hamas attack’, Independent, 9 October 2023; ‘Israel “has the right” to withhold power and water from Gaza, says Sir Keir Starmer’, LBC, 11 October 2023; Suella Braverman, ‘Last weekend an intimidating mob …’, com, 16 October 2023; Tobi Thomas and Rajeev Syal, ‘Suella Braverman accused of fuelling far-right violence near Cenotaph’, Guardian, 11 November 2023; David Rose, ‘Here Are All the Democrats Who Voted for the “Anti-Zionism Is Antisemitism” Bill’, Jewish Chronicle, 20 October 2023; Andrew Marr, ‘The Israel-Hamas war has left Britain divided’, New Statesman, 18 October 2023; ‘jihad’ remark from Sophy Ridge on Sky News, 23 October 2023; Kate Brady, Anthony Faiola, Emily Rauhala, Karla Adam and Beatriz Ríos, ‘European bans on pro-Palestinan protests prompt claims of bias’, Washington Post, 27 October 2023; Noah Horowitz, ‘Not in Their Name Jewish Voice for Peace doesn’t just oppose the war; it challenges the link between Jewish identity and support for Israel’, New Yorker, 27 November 2023; Heather Hollingsworth and David Crary, ‘Who are the Palestinan and Jewish-led groups leading the protests against Israel’s action in Gaza’, PBS, 16 November 2023; David Ingram and Kat Tenbarge, ‘Critics renew calls for a TikTok ban, claiming platform has an anti-Israel bias’, NBC, 1 November 2023; Rebecca Jennings, ‘TikTok isn’t creating false support for Palestine. It’s just reflecting what’s already there’, Vox, 13 December 2023; Sapna Maheshwari, ‘Jewish Celebrities and Influencers Confront TikTok Executives in Private Call’, New York Times, 16 November 2023; Em Steck, ‘Fact Check: Nikki Haley makes a misleading claim about TikTok leading to antisemitism’, CNN, 8 December 2023; ‘The truth about TikTok hashtags and content during the Israel-Hamas war’, TikTok, 13 November 2023; ‘Meta’s Broken Promises: Systemic Censorship of Palestine Content on Instagram and Facebook’, Human Rights Watch, 21 December 2023; Miranda Sissons, ‘An Independent Due Diligence Exercise into Meta’s Human Rights Impact in Israel and Palestine During the May 2021 Escalation’, Meta, 22 September 2022; Priya Shankar, Pranav Dixit and Usaid Siddiqui, ‘Are social media giants censoring pro-Palestine voices amid Israel’s war?’, Al Jazeera, 24 October 2023; A. W. Ohlheiser, ‘Why some Palestinans believe social media companies are suppressing their posts’, Vox, 29 October 2023; Karen Gullo and Jillian York, ‘Platforms Must Stop Unjustified Takedowns of Posts By and About Palestinans’, Electronic Frontier Foundation, 8 November 2023.
- 23. Vivian Salama and Daniel Nasaw, ‘U.S. to Put Houthis Back on Terrorist List’, Wall Street Journal, 16 January 2024; Robert Perkins, Max Lin and Kelly Norways, ‘Red Sea shipping stages fragile uptick as US continues to hit Houthi sites’, S&P Global, 23 January 2024; Patrick Wintour, ‘US carries out fifth strike against Houthis as Biden admits bombing isn’t stopping attacks’, Guardian, 18 January 2024; ‘Background Press Call by Senior Administration Officials and Senior Military Official on Developments in the Middle East’, White House press briefing, 12 January 2024; Isabel Hardman, ‘Houthi attacks are nothing to do with Gaza, says Sunak’, Spectator, 15 January 2024.
- 24. ‘Israel police boss threatens to send anti-war protesters to Gaza “on buses”’, Al Jazeera, 19 October 2023; Oren Ziv, ‘Israeli police repressing anti-war protests with “iron fist”, say activists’, +972 Magazine, 24 January 2024; Emma Graham-Harrison and Quique Kierszenbaum, ‘“It is a time of witch hunts in Israel”: teacher held in solitary confinement for posting concern about Gaza deaths’, Guardian, 13 January 2024; Oz Kashti, ‘Students’ Demonstrations Against Reinstated Teacher Who Criticized Israeli Army Prevent His Return to Teaching’, Ha’aretz, 24 January 2024; Ido David Cohen and Ran Shimoni, ‘Far-right Israelis Threaten, Attack Left-wing Journalist Who Dedicated a Prayer to Gaza Victims’, Ha’aretz, 15 October 2023.
- 25. ‘“Netanyahu wants to keep the war going,” former Hamas hostage says in exclusive interview’, PBS News Hour, com, 2 January 2024; Orly Noy, ‘Listen to Israeli survivors: They don’t want revenge’, +972 Magazine, 25 October 2023.
- 26. ‘WATCH: “We Can Never Forgive the Arabs for Making Us Kill Children” – CBS’ Schieffer Quotes Golda Meir’, Ha’aretz, 28 July 2014; ‘Netanyahu slammed over “ethnic cleansing” remark’, Al Jazeera, 10 September 2016; as Gil Hochberg put it, traditional Israeli lachrymosity was expressed in the non-apologetic apology: ‘Sorry for the things I had to do.’ Hochberg, ‘“Shooting and Crying” to “Shooting and Singing”: Notes on the 2019 Eurovision in Israel’, Contending Modernities, 17 May 2019.
- 27. Jacqueline Rose, The Question of Zion, Princeton University Press, Princeton and Oxford, 2005, p. 52; Arendt, Origins of Totalitarianism, p. 156; Hannah Arendt, Jerome Kahn and Ron H. Feldman, eds, Jewish Writings, Schocken Books, New York, 2007, pp. 122–34; Adam M. Garfinkle, ‘On the Origin, Meaning, Use and Abuse of a Phrase’, Middle Eastern Studies 27 (October 1991); Theodor Herzl, The Jewish State, Penguin Books, London and New York, 2010, pp. 33 and 101; Amnon Rubinstein, From Herzl to Rabin: The Changing Image of Zionism, Lynne Rienner Publishers, Boulder, CO, 2000, pp. 10–11.
- 28. Nur Masalha, Expulsion of the Palestinans The Concept of ‘Transfer’ in Zionist Political Thought, 1882-1948, Institute for Palestine Studies, Washington, D.C, 1992, pp. 6, 29 and 117; Theodor Herzl, The Jewish State, Penguin Books, London and New York, 2010, p. 39.
- 29. David Hearst, The Gun and the Olive Branch: the Roots of Violence in the Middle East, Faber and Faber, 1977, pp. 104–5; Ilan Pappe, The Ethnic Cleansing of Palestine, OneWorld, Oxford, 2007, p. 35.
- 30. Pappe, The Ethnic Cleansing of Palestine, pp. 35, 68, 72–3; Rashid Khalidi, The Hundred Years’ War on Palestine, Profile Books, London, 2020, p. 59.
- 31. Pappe, The Ethnic Cleansing of Palestine, pp. 90–129; Benny Morris, trước kia được coi là một người cánh tả và bây giờ là một ‘transferist (chủ trương tống người Palestin khỏi quê hương của họ sang các nước Arab lân cận)’ công khai, đã lập tư liệu hai tá vụ thảm sát này trong The Birth of the Palestinan Refugee Problem Revisited, Cambridge University Press, Cambridge, 2004. Sự lập tư liệu toàn diện nhất về các làng bị trống dân cư là Walid Khalidi, All That Remains: The Palestinan Villages Occupied and Depopulated by Israel in 1948, Institute for Palestine Studies, Washington, DC, 1992; Susan Slyomovics, ‘The rape of Qula, a Destroyed Palestinan Village’, trong Ahmad H. Sa’di and Lila Abu-Lughod, eds, Nakba: Palestine, 1948, and the Claims of Memory, Columbia University Press, New York, 2007; Janet L. Abu-Lughod, ‘The Demographic Transformation of Palestine’, trong Ibrahim Abu-Lughod, ed., The Transformation of Palestine: Essays on the Origin and Development of the Arab-lsraeli Conflict, Northwestern University Press, Evanston, 1971; Rosemary Sayigh, The Palestinans: From Peasants to Revolutionaries, Zed Books, London and New York, 2007, p. 106; về các tham vọng của Ben-Gurion, xem Masalha, Expulsion of the Palestinans, p. 87.
- 32. Ilan Pappe, A History of Modern Palestine: One Land, Two Peoples, Cambridge University Press, Cambridge and New York, 2006, p. 146.
- 33. Ibid., p. 154.
- 34. Sharrett được trích trong Avi Shlaim, Collusion Across the Jordan: King Abdullah, The Zionist Movement and the Partition of Palestine, Columbia University Press, New York, 1988, p. 491; Rosemary Sayigh, The Palestinans: From Peasants to Revolutionaries, Zed Books, London and New York, 2007, pp. 111–12; Frank Giles, ‘Golda Meir: “Who can blame Israel”’, Sunday Times, 15 June 1969; Pappe, The Ethnic Cleansing of Palestine, p. 112; Baruch Kimmerling and Joel S. Migdal, The Palestinan People: A History, Harvard University Press, Cambridge, MA and London, 2003.
- 35. Kimmerling and Migdal, The Palestinan People, p. 249.
- 36. Khalidi, Hundred Years’ War on Palestine, p. 98; Pappe, A History of Modern Palestine, pp. 160–1; Kimmerling and Migdal, The Palestinan People, p. 251.
- 37. ‘Moshe Dayan’s Eulogy for Roi Rutenberg – April 19, 1956’, org.
- 38. Cho một tổng quan tổng hợp về cuộc tấn công cực hữu này và một sự so sánh với các chính sách của Orbán, xem Neta Oren, ‘Democratic Backsliding in Netanyahu’s Israel’, E-International Relations, 19 May 2023; Akiva Eldar, ‘Is Israel inching closer to fascism?’, AI-Monitor, 10 May 2016; Joy Bernard, ‘“Israel is becoming a fascist state, US can’t save the day”’, Jerusalem Post, 24 June 2017.
- 39. Ami Pedahzur, The Triumph of Israel’s Radical Right, Oxford University Press, Oxford and New York, 2012, p. 3; Colin Shindler, The Rise of the Israeli Right: From Odessa to Hebron, Cambridge University Press, Cambridge and New York, 2015, p. 8.
- 40. Dan Tamir, Hebrew Fascism in Palestine, 1922-1942, Palgrave Macmillan, Cham, Switzerland, 2018; Sara Yael Hirschhorn, City on a Hilltop: American Jews and the Settler Movement, Harvard University Press, Cambridge, MA and London, 2017, p. 16; Peter Bergamin, The Making of the Israeli Far-Right: Abba Ahimeir and Zionist Ideology, I. B. Tauris, London and New York, 2020; Ami Pedahzur, The Triumph of Israel’s Radical Right, Oxford University Press, 2012, pp. 6, 27–8.
- 41. Martin Buber, Israel and the World: Essays in a Time of Crisis, Schocken Books, New York, 1948, pp. 227–33; Hannah Arendt, Jerome Kahn and Ron H. Feldman, eds, Jewish Writings, Schocken Books, New York, 2007, pp. 122–34, 417–19 và 434–5; Isidore Abramowitz, et al., ‘New Palestine Party: Visit of Menachem Begin and Aims of Political Movement Discussed’, Letter to the New York Times, 2 December 1948.
- 42. Về sự kháng cự của cánh hữu truyền thống đối với sự nhượng lại đất, xem Shindler, The Rise of the Israeli Right, p. 9; về chủ nghĩa bành trướng của cánh hữu tôn giáo, xem Moshe Hellinger, Isaac Hershkowitz, and Bernard Susser, Religious Zionism and the Settlement Project: Ideology, Politics, and Civil Disobedience, Suny Press, Albany, NY, 2018; về học thuyết ‘bức tường sắt’ và sự ủng hộ lưỡng đảng của nó, xem Avi Shlaim, The Iron Wall: Israel and the Arab World, W. W. Norton and Company, New York, 2014.
- 43. Shindler, The Rise of the Israeli Right, pp. 284–5; Rose, The Question of Zion, p. 53; Hirschhorn, City on a Hilltop, p. 15; Peter Beinart, The Crisis of Zionism, Picador, New York, 2012, p. 4.
- 44. Zeev Sternhell, The Founding Myths of Israel: Nationalism, Socialism, and the Making of the Jewish State, Princeton University Press, Princeton, NJ, 1999; Arie Krampf, The Israeli Path to Neoliberalism: The State, Continuity and Change, Routledge, London and New York, 2018; Jonathan Nitzan and Shimshon Bichler, The Global Political Economy of Israel, Pluto Press, London and Sterling, VA, 2002, p. 89; Amira Galin, ‘The Rise and Fall of the Israeli Federation of Labor (The Histradut)’, Bulletin 24 (April 2001); Faiza R. Rais, ‘The Downfall of the Labour Party in Israel’, Strategic Studies 25: 1 (2005), pp. 129–50; Ben Weinberg, ‘Welfare State of Exclusion’, Jewish Currents, 20 January 2020; Robert O. Paxton, The Anatomy of Fascism, Penguin, London and New York, 2004, p. 218.
- 45. Ghada Karmi, ‘After Oslo: A single state in Israel/Palestine?’, Cambridge Review of International Affairs 11: 2 (1998), pp. 212–26; Ghada Karmi, ‘The One-State Solution: An Alternative Vision for Israeli-Palestinan Peace’, Journal of Palestine Studies 40: 2 (Winter 2011), pp. 62–76; Joost R. Hilterman, Behind the Intifada: Labor and Women’s Movements in the Occupied Territories, Princeton University Press, Princeton, NJ, 1991, pp. 2–5; Francesco Saviero Leopardi, The Palestinan Left and Its Decline: Loyal Opposition, Palgrave Macmillan, London, 2020.
- 46. ‘Declaration of Principles on Interim Self-Government Arrangements’, United Nations General Assembly Security Council, Forty-eighth session, Agenda item 10, Report of the Secretary-General on the Work of the Organisation, 11 October 1993, un.org; Edward Said, Peace and Its Discontents: Essays on Palestine and the Middle East, Vintage Books, New York, p. 11.
- 47. Ben-Ami được trích trong Noam Chomsky, Middle East Illusions: Including Peace in the Middle East? Reflections on Justice and Nationhood, Rowman & Littlefield, Lanham, MA, and Oxford, 2003, p. 228; David Matz, ‘Trying to Understand the Taba Talks’, Palestine-Israel Journal of Politics, Economics and Culture 10: 3 (2003); David Matz, ‘Why Did Taba End? (Part 2)’, Palestine-Israel Journal of Politics, Economics and Culture 10: 4 (2003).
- 48. Tareq Baconi, Hamas Contained: The Rise and Pacification of Palestinan Resistance, Stanford University Press, Stanford, CA, 2018; Zaki Chehab, Inside Hamas: The Untold Story of Militants, Martyrs and Spies, I. B. Tauris, London and New York, 2007; Shaul Mishal and Avraham Sela, The Palestinan Hamas: Vision, Violence and Coexistence, Columbia University Press, New York, 2000; on the Fatah-Hamas civil war, xem Dan Murphy and Joshue Mittnick, ‘Israel, US, and Egypt back Fatah’s fight against Hamas’, Christian Science Monitor, 25 May 2007; and Amos Harel and Avi Issacharoff, ‘Israeli defense official: Fatah arms transfer bolsters forces of peace’, Ha’aretz, 28 December 2006.
- 49. Greg Carlstromm, How Long Will Israel Survive, Oxford University Press, Oxford and New York, 2017, pp. 13, 16–17; Antonio Pita, ‘Israel turns 75 amid deep divisions and pessimism’, El Pais, 26 April 2023; Marissa Newman, ‘Nearly half of Jewish Israelis want to expel Arabs, survey shows’, Times of Israel, 8 March 2016.
- 50. ‘Poll: 90% support Cast Lead; 69% pleased with Gov’t’s handling of op’, Jerusalem Post, 31 December 2008; Yossi Verter, ‘Haaretz Poll: More Than 90 Percent of Israeli Jews Support Gaza War’, Ha’aretz, 19 November 2012; Yifa Yaakov, ‘Over 90% of Jewish Israelis say Gaza op justified’, Times of Israel, 29 July 2014; Jason Lerman, ‘Nearly Three-Quarters of Israelis Opposed to Proposed Ceasefire With Palestinans’, Newsweek, 20 May 2021; ‘Far-right Israelis’ macabre chant: “Olé olé, Gaza is a cemetery!”’, France24, 29 July 2014; Noam Sheizaf, ‘How Mainstream Israeli Politicians Sparked the Tel Aviv Race Riot’, Dissent, 24 May 2012.
- 51. ‘Israel’s apartheid against Palestinans: Cruel system of domination and crime against humanity’, Amnesty International, 1 February 2022; ‘A Threshold Crossed: Israeli Authorities and the Crimes of Apartheid and Persecution’, Human Rights Watch, 27 April 2021; ‘A regime of Jewish supremacy from the Jordan River to the Mediterranean Sea: This is apartheid’, B’Tselem, 12 January 2021; Noy, ‘The pogrom is the point’; Ibrahim, ‘Joint militias: How settlers and soldiers teamed up to kill four Palestinans’; ‘The Turmusaya Pogrom’, B’TSelem; Andrew Stroehlein, ‘A “Pogrom” in Palestine’, Human Rights Watch Daily Brief, 1 March 2023; ‘Israel/OPT: settler violence in Huwara is “ugly reality” of Israeli apartheid’, Amnesty International UK press release, 3 May 2023; ‘Defending the rule of law, enforcing apartheid – the double life of Israel’s judiciary’, Amnesty International, September 2023.
- 52. Editorial, ‘A New Low: Israel’s Prime Minister Netanyahu Is the Antisemites’ Cheerleader’, Ha’aretz, 18 September 2023; Ronan Bergman and Patrick Kingsley, ‘How Israel’s Feared Security Services Failed to Stop Hamas’s Attack’, New York Times, 10 October 2023; Tal Schneider, ‘For years, Netanyahu propped up Hamas. Now it’s blown up in our faces’, Times of Israel, 8 October 2023; Danny Danon, ‘Surrender is the recognition that in a contest, staying the course will prove costlier than submission’, New York Times, 24 June 2019.
- 53. ‘Application instituting proceedings and request for the indication of provisional measures’, Case 192 – Application of the Convention on the Prevention and Punishment of the Crime of Genocide in the Gaza Strip (South Africa v. Israel), International Court of Justice, 29 December 2023.
- 54. Được trích trong Steph Brawn, ‘“Earth shattering”: Lawyer’s statement at ICJ case against Israel praised’, National, 11 January 2024.
- 55. ‘How strong is South Africa’s genocide case against Israel? An expert weighs in’, CNN, 11 January 2024.
- 56. Jeremy Scahill, ‘At the Hague, Israel Mounted a Defense Based in an Alternative Reality’, Intercept, 12 January 2024.
- 57. ‘“Do you have another solution?” Israeli Ambassador defends destruction of Gaza’, LBC, com, 4 January 2023; Mared Gwyn Jones and Shona Murray, ‘Artificial island off Gaza pitched by Israeli minister in EU meeting is “irrelevant”, Borrell says’, Euronews, 22 January 2024; Neri Zilber, ‘Netanyahu says “nobody” will stop Israel including Hague court’, Financial Times, 14 January 2024.
- 58. Application of the Convention on the Prevention and Punishment of the crime of Genocide in the Gaza Strip (South Africa v. Israel), 26 January 2024 Order, International Court of Justice.
- 59. Brian Osgood and Mersiha Gadzo, ‘Israel’s war on Gaza updates: Israel must prevent genocide in Gaza – ICJ’, Al Jazeera, 26 January 2024; David Rose, ‘UK says South Africa’s genocide case “endangers peace”’, Jewish Chronicle, 11 January 2024; ‘US says genocide charges “unfounded”, rejects Israeli claim South Africa serving Hamas’, Times of Israel, 12 January 2024; ‘Charging Israel with genocide makes a mockery of the ICJ’, Economist, 18 January 2024; Anthony Deutsch and Stephanie van den Berg, ‘Israel, South Africa trade barbs on eve of genocide case’, Reuters, 10 January 2024; ‘World reacts to ICJ interim ruling in Gaza genocide case against Israel’, Al Jazeera, 26 January 2024; Bethan McKernan, ‘Israeli officials accuse international court of justice of antisemitic bias’, Guardian, 27 January 2024; Yoav Gallant, ‘The State of Israel does not need …’, com, 26 January 2024; Simon Speakman Cordall, ‘“Israel’s supporters have been put on notice”, say experts on ICJ verdict’, Al Jazeera, 27 January 2024.
- 60. Beth McKernan, ‘UK, US and other countries to pause funding for key UN aid agency for Palestinan refugees’, Guardian, 28 January 2024; ‘Our message to Palestinans in Gaza …’, State Department, com, 20 October 2023.
- 61. Mahmoud Mamdani, When Victims Become Killers: Colonialism, Nativism, and the Genocide in Rwanda, Princeton University Press, Princeton, NJ, 2001.
- 62. Mamdani, When Victims Become Killers; Elizabeth R. Baer, The Genocidal Gaze: From German Southwest Africa to the Third Reich, Wayne State University Press, Detroit, MI, 2017; Volker Langbehn and Mohammad Salama, German Colonialism: Race, the Holocaust, and Postwar Germany, Columbia University Press, New York, 2011.
- 63. Aimé Césaire, Discourse on Colonialism, Monthly Review Press, New York and London, 1972, p. 1.
- 64. Tôi hàm ơn Jamie Allinson vì sự phân biệt lịch sử này. Về logic của các vụ diệt chủng thuộc địa, xem Sai Englert, Settler Colonialism: An Introduction, Pluto Press, London, 2022.
* Cho nên chẳng có gì ngạc nhiên khi Trump tiếp quản Gaza, muốn đuổi hết những người Palestin khỏi Gaza để biến nơi này thành khu vực tự do, khu bất động sản nghỉ dưỡng.