“Thành phố và những bức tường bất định” của Murakami

Lê Hồng Lâm

 

“Loài người giống như hơi thở. Đời người như bóng bay qua. Ờm, cậu có hiểu không? Con người là một dạng tồn tại mong manh như hơi thở, mọi hành vi sống hằng ngày của con người chẳng qua chỉ là cái bóng đang di chuyển. Ờm, từ ngày xưa tôi đã bị hấp dẫn bởi câu thơ này, nhưng phải sau khi chết đi, phải sau khi trở thành như bây giờ, tôi mới hiểu thấu đáo ý nghĩa của nó. Phải, con người chúng ta chẳng qua chỉ là một dạng tồn tại giống như hơi thở mà thôi. Thế rồi một kẻ đã chết giống như tôi còn chẳng hề có bóng bám theo.”

– Đó là những lời mà ông Koyasu nói với nhân vật xưng tôi và không có tên (như nhiều cuốn tiểu thuyết trước của Murakami) trong Thành phố và những bức tường bất định.

Đó là một người đàn ông kì quặc, đội mũ beret, phần trên mặc comple nhưng phần dưới mặc một chiếc váy quây kẻ ca rô. Ông là chủ của một thư viện nằm ở một thị trấn nhỏ yên bình nằm sâu dưới chân núi và chính ông là người tuyển nhân vật xưng tôi vào giữ chức giám đốc tiếp quản thư viện. Để rồi sau đó ta nhận ra ông chỉ là một hồn ma, quay trở lại trần gian trong hình hài của ông trước đây. Ông tuyển nhân vật xưng tôi vào thư viện vì gã đàn ông trung niên này đã đánh mất cái bóng của mình, chôn giấu một mối tình thanh xuân đã trôi qua vĩnh viễn và một trong hai người nhìn thấy được hồn ma của ông.

Trong cuộc trò chuyện sau đó giữa cô thủ thư (người còn lại nhìn thấy hồn ma), nhân vật xưng tôi biết được cuộc đời của ông Koyasu, một người đàn ông dường như có tất cả, rồi cuối cùng đánh mất tất cả, trước sự bất trắc và khó lường của cuộc đời.

Ông từng là chủ một hãng rượu lớn trong thị trấn, được kế thừa từ bốn đời. Ông có vợ đẹp và con ngoan, một cuộc đời bao người mơ ước. Nhưng thảm kịch ập đến, đầu tiên bằng cái chết vì tai nạn của đứa con lúc mới năm tuổi và sau đó là người vợ – vì nỗi đau như hóa đá, trầm cảm nặng và nhảy xuống dòng nước xiết để kết liễu cuộc đời – không để lại cho ông bất cứ lời nhắn gửi nào, ngoài hai cây hành được đặt trên tấm ga trải giường. Ông Koyasu tiếp tục sống, lặng lẽ như một bóng ma. Ông bán công ty rượu gia đình được một khoản tiền lớn và lập nên một thư viện trong thị trấn – đó từng là ước mơ thời thanh xuân của ông, trở thành một nhà văn và đắm chìm vào thế giới của những cuốn sách. Ông cứ sống lặng lẽ như thế suốt ba mươi năm nữa rồi một ngày bị cơn nhồi máu cơ tim đoạt mạng. Nhưng khi thể xác của ông đã thành tro rồi, linh hồn của ông vẫn tồn tại và hiện hữu trong dáng hình mà ông đã từng là – một người đàn ông kì quặc thích mặc váy…

Sau khi đánh vật với hai cuốn tiểu thuyết của László Krasznahorkai, với một thứ văn chương có gì đó như siêu việt nhưng làm tôi kiệt sức vì mệt, hoặc đọc xong một câu phải đọc lại vì chưa hiểu tác giả viết gì – cuốn tiểu thuyết mới của Murakami làm tôi được thư giãn. Dù dày hơn 500 trang, tôi chỉ đọc trong ba buổi sáng và một buổi tối.

Đó là một thứ văn chương “page-turner”, ta cứ lật hết trang này đến trang khác để nghe tác giả kể chuyện, dẫn ta vào một thế giới siêu thực mơ hồ, một thành phố với những bức tường cao, nơi ở đó chỉ tồn tại những con người không có bóng. Ở đó có loại thú một sừng, nhiều con bỏ mạng vào mùa đông, nhưng chẳng mấy chốc lại đến mùa xuân, mùa giao phối, rồi bọn thú con sẽ ra đời vào mùa hè. Những sinh mệnh mới sẽ gạt những sinh mệnh cũ sang một bên. Và ở đó, như ông Koyasu nói, “biết đâu con người phải đi qua hai lần chết. Cái chết tạm trên mặt đất, và cái chết thực sự của linh hồn.”

Đọc xong cuốn này, tôi nghĩ Murakami sẽ không bao giờ đoạt giải Nobel đâu và ông cũng chẳng cần giải thưởng danh giá ấy để khẳng định tên tuổi của mình. Mỗi cuốn sách của ông đều có từ hàng trăm ngàn đến hàng triệu độc giả khắp toàn cầu chờ đón thì đó đã là giải thưởng lớn nhất rồi.

Cuốn tiểu thuyết quan trọng và có thể nói là lớn nhất của ông là Biên niên ký chim vặn dây cót –và phần nào đó Kafka bên bờ biển – có tầm vóc của một tác giả Nobel văn chương, nhưng thời điểm ấy đã trôi qua hơi lâu rồi. Những cuốn tiểu thuyết về sau ngày càng trở nên quá “pop” và “đang bị mắc kẹt trong sự lặp lại của chính mình”.

Sách của Murakami vẫn chinh phục được độc giả và những nhà phê bình thích kiểu văn chương của ông. Nhà văn Junot Diaz (tác giả của Cuộc đời ngắn ngủi và kì lạ của Oscar Wao) trong một bài tích cực trên tờ The New York Times gọi cuốn tiểu thuyết mới của Murakami là một “kiệt tác muộn” và viết: “Tôi xúc động trước bức chân dung về nỗi mất mát không thể nguôi ngoai, về cách nó khắc sâu trong ta một cõi âm u trong tâm hồn mà ta luôn bị gọi trở về.”

Nhưng cũng không ít những bài phê bình chỉ trích gay gắt, như bài viết trên tờ The Guardian của Anh, không ngần ngại chê bai cuốn tiểu thuyết mới của Murakami là “tách rời hoàn toàn khỏi thực tại đến mức chẳng còn ý nghĩa gì” và chốt lại với một câu:

“Dường như tác phẩm của ông – với những con mèo biết nói, những miền đất huyền bí, và những nhân vật trung niên vô danh trôi dạt trong nỗi ám ảnh tuổi trẻ – chưa bao giờ thoát ra khỏi kiểu chủ nghĩa hiện thực huyền ảo vốn chỉ dễ chấp nhận trong những tiểu thuyết ngắn đầu tay của ông. Sách của ông không hề tiến hóa – chỉ đơn giản là dài hơn mà thôi.”

Tôi đồng cảm với cả hai nhận định khen chê này, như trải nghiệm của chính mình, khi vẫn đọc không rời mắt và đồng thời cảm nhận được tác giả đang “ăn” mình hoặc ông đã hết vốn rồi.

Dường như biết được độc giả trung thành sẽ “chất vấn” mình, ở cuối sách Murakami viết thêm một “lời bạt”, dù ông thừa nhận không thích viết lời bạt vì nó như một lời biện bạch của tác giả vậy. Tôi thì nghĩ dù gì thì ông cũng đã biện bạch rồi.

Trong phần lời bạt ấy, Murakami dẫn một câu nói của Jorge Luis Borges – một văn hào người Argentina được giới nhà văn tinh hoa trích dẫn rất nhiều. Murakami mượn lời của Borges để nói rằng “số lượng câu chuyện mà một nhà văn có thể kể bằng tấm lòng chân thật trong trọn một cuộc đời, về cơ bản là hữu hạn. Chúng ta chỉ đang đổi tay thay trò nhằm viết lại những motif hữu hạn ấy theo các hình thức khác nhau mà thôi – có thể nói thẳng ra như thế cũng được.”

Quả thật như vậy. Ta không thể đòi hỏi một nhà văn viết hơn 4 thập kỷ rằng ông phải luôn luôn mới. Ông đã viết đến cuốn tiểu thuyết thứ 15 rồi, chưa kể hàng chục truyện ngắn và tiểu luận nữa. Nhà văn nào, về cơ bản, cuối cùng cũng tự ăn mình mà thôi.

Nghĩ vậy, tôi thấy nhẹ nhõm hơn. Và sau khi đã vượt qua hơn 500 trang sách kể về một thành phố và những bức tường bất định, về những người không có bóng, về cái chết và sự sinh sôi nảy nở, về những sinh mệnh mới sẽ gạt những sinh mệnh cũ sang một bên, về cái chết thể xác và cái chết linh hồn… tôi đọc được một câu kết có sức nặng mà Murakami gửi gắm trong cuốn tiểu thuyết mới của ông:

“Hãy tin vào sự tồn tại của thân phận mình. Tin vào thân phận của ta chính là tin vào bản thân ta”.

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.