Nguồn: https://bessmertnybarak.ru/article/komissiya_pospelova/
Bản dịch của Văn Việt
Ủy ban Pospelov là tên gọi một ủy ban do Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô thành lập vào ngày 31 tháng 12 năm 1955, mà người đứng đầu là Pyotr Pospelov, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô (1953), Tổng biên tập báo Pravda và Giám đốc Viện Chủ nghĩa Marx-Lenin. Tham gia Ủy ban còn có Averky Aristov Bí thư Trung ương Đảng, Nikolai Shvernik Chủ tịch Hội đồng Công đoàn Trung ương toàn Liên bang và Phó Trưởng ban Kiểm tra Đảng P. T. Komarov. Báo cáo của Ủy ban này là nền tảng cho “bài phát biểu bí mật” của Nikita Khrushchev về Tệ sùng bái cá nhân và hậu quả của nó.
Văn Việt
—————————————————-
Ngay trước thêm Đại hội Đảng lần thứ 20, ngày 8/2/1956, “Ủy ban Pospelov” do Đoàn chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương thành lập đã trình bày một báo cáo dài về các cuộc đàn áp. Báo cáo được chuẩn bị trong một tháng. Tài liệu tuyệt mật này, không đề cập đến vấn đề đàn áp đối với “các thành phần thù địch của mặt xã hội” trong những năm 1920 -1930, nơi vai trò của Malenkov, Voroshilov, Kaganovich và chính của Khrushchev trong các cuộc đàn áp những năm 1930 được tránh né một cách cẩn thận, nơi không có một lời nào về sự phá sản của giai cấp nông dân trong quá trình tập thể hóa, về thảm kịch của các tù nhân chiến tranh Liên Xô, những người, trái với ý muốn của mình, đã bị trao đổi từ các trại phát xít sang các trại giam Liên Xô, chứa đựng một bức tranh kinh hoàng về cuộc khủng bố hàng loạt của chính quyền đối với người dân đất nước.
Chỉ trong vòng hai năm (1937-1938), 1.548.366 người đã bị bắt với tội hoạt động chống Liên Xô, trong đó 681.692 người bị xử bắn. Hai hoặc ba nhóm lãnh đạo công nhân từ các nước cộng hòa, khu vực và tỉnh thành bị bắt giữ; trong số 1.966 đại biểu tham dự Đại hội lần thứ 17 của Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) có 1.103 người đã bị bắt, trong đó 848 người bị xử bắn.
Tài liệu xác định rõ ràng trách nhiệm cá nhân của Stalin về việc sử dụng tra tấn trong thẩm vấn, giết người và xử bắn không thông qua xét xử.
Một bản báo cáo đáng sợ. Nó đáng sợ bởi các sự thật cụ thể, bởi nhiều trích dẫn từ lời khai của cả nạn nhân và đao phủ, phần lớn số đó cũng bị xử bắn trong thời kỳ “thanh trừng” của các cơ quan Dân ủy Nội vụ các năm 1939-1940, bởi các bằng chứng về sự tra tấn và những nỗ lực tuyệt vọng xin Stalin tha mạng của những người trước kia là đồng chí. Báo cáo đi kèm ba tài liệu: một điện tín của Stalin ngày 10/1/1939, xác nhận việc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) cho phép “sử dụng vũ lực” (tức tra tấn) trong các cuộc thẩm vấn, một bản chứng nhận của Stalin phê chuẩn xử bắn 138 cán bộ lãnh đạo, và một lá thư tuyệt mệnh gửi cho Stalin, của Ủy viên Nhân dân Nông nghiệp, ủy viên Ủy ban Chấp hành Trung ương Liên Xô, R. I. Eikhe.
Ngày 9/2/1956, báo cáo này được trình bày tại Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương, gây sốc lớn. Ngay lập tức, một cuộc tranh luận nổ ra về việc có nên công bố nội dung này tại Đại hội hay không, và nên đánh giá Stalin như thế nào?
Molotov nhấn mạnh phẩm chất tích cực của “vị lãnh tụ của nhân dân”: “Ba mươi năm Đảng sống và làm việc dưới sự lãnh đạo của Stalin, thực hiện công nghiệp hóa đất nước, giành chiến thắng trong chiến tranh và trở thành một cường quốc sau chiến tranh.”
Kaganovich do dự: “Chúng ta phải chịu trách nhiệm, nhưng tình hình lúc đó khiến chúng ta không thể phản đối,” ông nhớ lại số phận của anh trai mình, Mikhail, người đã tự sát trước nguy cơ bị bắt, nhưng đồng thời lo ngại “sẽ kích động một làn sóng hỗn loạn tại Đại hội.”
Những người ủng hộ báo cáo bao gồm Aristov, Shepilov và Malenkov. Lúc cuối, Molotov, Voroshilov và Kaganovich phản đối báo cáo. Trong bối cảnh đó, Khrushchev hứa cố gắng tìm giải pháp thỏa hiệp, sẽ “không đào sâu” vào quá khứ.
—
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô trình Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương về việc xác định nguyên nhân các vụ đàn áp hàng loạt đối với các thành viên và ứng viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik), được bầu tại Đại hội Đảng lần thứ 17
Ngày 9 tháng 2 năm 1956
Kính gửi Đoàn Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô
Theo chỉ thị ủy quyền, chúng tôi xin báo cáo như sau.
Chúng tôi đã nghiên cứu các tài liệu lưu trữ tại Ủy ban An ninh Nhà nước, cho thấy từ năm 1935 đến 1940, nước ta diễn ra các vụ bắt giữ hàng loạt công dân Xô-viết. Tổng cộng trong những năm này có 1.980.635 người bị bắt với cáo buộc hoạt động chống Liên Xô, trong đó 688.503 người bị xử bắn.
Các vụ đàn áp diễn ra mạnh mẽ nhất vào năm 1937-1938, như thể hiện trong bảng sau:

Như vậy, trong vòng hai năm 1937–1938 có 1.548.366 người đã bị bắt và 681.692 trong số đó bị xử bắn.
Làn sóng đàn áp trong các năm 1937-1938 tác động rộng rãi đến cán bộ lãnh đạo các cơ quan Đảng và chính quyền, tổ chức kinh tế, cũng như ban chỉ huy trong quân đội và cơ quan Dân ủy Nội vụ. Trong những năm này, ở hầu hết các nước cộng hòa, khu vực và tỉnh thành, gần như toàn bộ lãnh đạo cơ quan Đảng và chính quyền Xô-viết, một số lượng lớn lãnh đạo các tổ chức thành phố và khu vực cũng bị bắt. Ở một số ủy ban khu vực, tỉnh và huyện, từ hai đến ba nhóm lãnh đạo bị bắt.
Hơn nữa, trong số 139 thành viên và ứng cử viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) được bầu tại Đại hội Đảng lần thứ 17, trong những năm này có 98 người đã bị bắt và bị xử bắn.
Điều đáng kinh ngạc là tất cả các thành viên và ứng cử viên cho chức vụ ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) bị đưa ra xét xử đều nhận một hình thức trừng phạt duy nhất – xử bắn, không để cho một ai được sống sót. Trong số 1.966 đại biểu tham dự đại hội với quyền biểu quyết và tư vấn có 1.103 người đã bị bắt vì tội phản cách mạng, trong đó 848 người bị xử bắn. Những con số này cho thấy các cơ quan Dân ủy Nội vụ, được đồng chí Stalin gọi là đội vũ trang của Đảng, thực chất hướng đến chống lại Đảng. Cơ sở pháp lý để tòa án ra bản án tử hình ngay lập tức đối với một số lượng lớn công dân Xô-viết là bản luật ngày 1/12/1934. Luật này được ban hành sau vụ ám sát S. M. Kirov, thiết lập việc xem xét án một cách nhanh chóng và đơn giản hơn, đồng thời cấm không chỉ đối với kháng cáo giám đốc thẩm mà ngay cả cả với việc nộp đơn xin ân xá.
Chiến dịch bắt giữ hàng loạt hầu hết là người dân Xô-viết vô tội bắt đầu sau khi đồng chí Stalin, trong điện tín gửi các ủy viên Bộ Chính trị tháng 10 năm 1935, chỉ ra rằng các cơ quan Ủy ban Nhân dân Nội vụ đã chậm trễ ít nhất 4 năm trong việc phát hiện âm mưu chống Liên Xô của nhóm Trotsky-Zinoviev.
Tại cuộc họp của các cán bộ lãnh đạo Cục Quản lý An ninh Nhà nước thuộc Dân ủy Nội vụ ngày 19/3/1937, trong báo cáo “Về kết quả phiên họp toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik)”, Yezhov, dựa vào bức điện tín của đồng chí Stalin và các quyết định của Phiên họp Toàn thể tháng hai-tháng ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik), yêu cầu tất cả cán bộ an ninh nhà nước rút ra “những kết luận cần thiết” từ “đánh giá nghiêm khắc” của đồng chí Stalin về công việc của Ủy ban Nhân dân Nội vụ.
Tổng kết cuộc họp, Yezhov nói: “…điều quan trọng là phải nhận ra rằng chúng ta có một số thiếu sót mà không thể dung thứ được, chúng ta đã để mất quá nhiều thời gian… Vì vậy, nhiệm vụ chính phải đặt ra trong thời gian tương đối ngắn, là chúng ta phải bù đắp tất cả những gì đã bỏ lỡ trong công tác tình báo và đánh bại kẻ thù.
Chúng ta đang giáng đòn xuống kẻ thù, và giáng rất mạnh. Chúng ta đã đập tan nhóm Trotsky, đập tan tành. Tôi sẽ không nêu con số, nhưng chúng khá ấn tượng, kẻ địch đã bị tiêu diệt không ít. Chúng ta đang giáng đòn xuống các phần tử Cách mạng Xã hội, bọn gián điệp Đức, Ba Lan và Nhật Bản, nhưng đó mới chỉ là bước đầu, như người ta nói, vẫn chưa đủ.” (Biên bản cuộc họp của Tổng cục An ninh Nhà nước ngày 21/3/1937, trang 401, 402).
Về thực chất, những chỉ đạo này của Yezhov là lời kêu gọi triển khai bắt giữ hàng loạt công dân mà không cần có đủ bằng chứng về tội trạng của họ.
I. Các lệnh của Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô về việc tiến hành đàn áp hàng loạt
Để “bù đắp cho thời gian đã mất,” Yezhov, vi phạm luật pháp Liên Xô, giữa năm 1937 đã ban hành một loạt lệnh cho phép đàn áp hàng chục, rồi hàng trăm nghìn người vô tội dựa trên các dấu hiệu quốc tịch của họ, như, từng sống ở nước ngoài, có quan hệ với người nước ngoài, v.v.
Ngày 25/7/1937, Yezhov ký qua điện tín lệnh số 00439 và đưa vào thực thi, yêu cầu các cơ quan Dân ủy Nội vụ địa phương trong vòng 5 ngày phải bắt giữ tất cả công dân Đức, bao gồm cả những người tị nạn chính trị, đang làm việc hoặc từng làm việc tại các nhà máy quân sự, nhà máy có xưởng quốc phòng, cũng như trong ngành đường sắt, và trong quá trình điều tra án của họ, “phải tìm bằng được mạng lưới tình báo Đức đang ẩn nấp.” Như vậy, tất cả công dân Đức đều có thể bị bắt giữ mà không phân biệt “phát hiện” ai trong số họ là gián điệp cần bị vạch mặt.
Lệnh này không dừng lại ở đó. Nó còn yêu cầu chuẩn bị đợt đàn áp thứ hai, nhắm vào công dân Liên Xô gốc Đức.
Năm ngày sau, ngày 30/7/1937, lệnh thứ hai – mang số 00447 – được ký, trong đó nêu rõ: “…Nhiệm vụ đặt ra trước các cơ quan an ninh nhà nước là tiêu diệt không khoan nhượng toàn bộ băng nhóm các phần tử chống Liên Xô… và cuối cùng, một lần và mãi mãi chấm dứt hoạt động phá hoại bỉ ổi của chúng chống lại nền tảng nhà nước Liên Xô. Theo đó, tôi ra lệnh từ ngày 5/8/1937, tại tất cả các nước cộng hòa, khu vực và tỉnh thành, bắt đầu chiến dịch đàn áp các cựu phú nông, các phần tử tích cực chống phá Liên Xô và các tội phạm hình sự…”
Đối tượng bị đàn áp bao gồm cựu phú nông, thành viên các đảng chống Liên Xô, Bạch vệ, cảnh sát, quan chức, những kẻ hỗ trợ băng nhóm, những người hồi hương, “tiếp tục hoạt động tích cực chống phá Liên Xô”, bao gồm cả những người đã thụ án và đang bị giam giữ trong các nhà tù và trại lao động, cũng như các thành viên gia đình họ, những người “có khả năng thực hiện các hành động chống phá Liên Xô.”
Cùng với lệnh này, các “bộ ba” (troikas) được thành lập để xem xét các vụ án thuộc nhóm được quy định. Hơn nữa, lệnh này quyết định tất cả những người bị bắt phải được chia thành hai loại:
a) loại thứ nhất bao gồm những kẻ thù địch nhất… họ phải bị bắt ngay lập tức và, sau khi bộ ba xem xét án, họ sẽ bị XỬBẮN.
b) loại thứ hai là những người còn lại, ít chống phá hơn nhưng vẫn là phần tử thù địch. Họ phải bị bắt và bị giam trong trại từ 8 đến 10 năm, còn những người đặc biệt nguy hiểm và có hại về mặt xã hội sẽ bị giam trong các nhà tù với thời hạn do bộ ba quyết định”.
Cùng lệnh này, Yezhov gửi xuống các địa phương bản kế hoạch quy định “hạn mức” số lượng người ở mỗi nước cộng hòa, khu vực và tỉnh thành cần bị đàn áp theo cả hai loại trên. Tổng cộng, lệnh này dự kiến bắt giữ 258.950 người, trong đó khu vực Moskva – 35.000 người, Ukraine – 28.300 người, khu vực Tây Siberia – 17.000 người, khu vực Leningrad – 14.000 người, khu vực Azov-Biển Đen – 13.000 người, Belarus – 12.000 người, khu vực Sverdlovsk – 10.000 người, v.v. Đối với những nhà lãnh đạo năng nổ nhất các cơ quan Dân ủy Nội vụ, được lưu ý: “Trong trường hợp tình hình đòi hỏi tăng hơn số lượng đã phê duyệt, các ủy ban nhân dân nội vụ các nước cộng hòa và các trưởng quản lý khu vực, tỉnh thành của Dân ủy Nội vụ phải gửi cho tôi các đề nghị có lí do thích hợp.”
Việc thiết lập “chỉ tiêu” và ghi chú về khả năng tăng hạn mức đã gây cạnh tranh giữa các trưởng cơ quan Dân ủy Nội vụ hãnh tiến muốn vượt quá hạn mức được giao. Cuộc cạnh tranh này được Yezhov khuyến khích.
Về vấn đề này, Luov, cựu cán bộ lãnh đạo Dân ủy Nội vụ Liên Xô, sau này bị bắt vì vi phạm pháp luật, khai rằng: “…Nếu nói về ‘chỉ tiêu’ theo nghĩa hẹp, tức là việc phân bổ số lượng người bị đàn áp và kết án ngoài vòng pháp luật ở các khu vực và địa bàn do Ủy viên Nhân dân phê duyệt, thì tôi biết chắc rằng những chỉ tiêu này là đối tượng cho sự cạnh tranh giữa nhiều lãnh đạo Dân ủy Nội vụ. Trong nội bộ Ủy ban Nhân dân là bầu không khí này: lãnh đạo cơ quan Dân ủy Nội vụ nào nhanh chóng hoàn thành hạn mức được giao với số lượng hàng nghìn người, sẽ nhận được chỉ tiêu bổ sung mới từ ủy viên nhân dân, người đó được coi là nhân viên xuất sắc nhất, hoàn thành và vượt quá chỉ thị của N.I. Yezhov trong việc ‘đánh bại’ quân phản cách mạng nhanh gọn và hiệu quả hơn những người khác. Tôi nhớ rất rõ cách các lãnh đạo cơ quan Dân ủy Nội vụ như Radzivilovsky (Ivanovo) và Simanovsky (Orel), sau khi được N.I. Yezhov tiếp đón, tự hào kể với tôi rằng N[ikolai] I[vanovich] đã khen ngợi công việc của họ và trao cho họ chỉ tiêu bổ sung. Liên quan đến việc này, tôi nhớ một lần sau báo cáo của tôi, trước câu hỏi của N.I. Yezhov: ‘Có gì mới không?’, tôi đáp: ‘Radzivilovsky đã đến gặp tôi. Ông ấy đã hoàn thành hạn mức cũ và xin thêm hạn mức mới.’ N[ikolai] I[vanovich] đáp: ‘Radzivilovsky giỏi lắm. Anh ta đã gặp tôi. Tôi đã cấp cho anh ta hạn mức mới.’”
Vụ việc với Radzivilovsky và Simanovsky cũng không phải là ngoại lệ. Nó điển hình của “thực hiện chỉ tiêu”. (Hồ sơ Lulov, Tập I, trang 189, 190).
Sau khi hoàn thành chỉ tiêu được giao, các lãnh đạo cơ quan Dân Ủy Nội vụ đề xuất xin thêm hạn mức bổ sung, và các đề xuất này thường được Yezhov chấp thuận với sự đồng ý của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik (tức I.V. Stalin).
Điều này được xác nhận, cụ thể là, bức thư của Yezhov số mang 59108 ngày 11/8/1937 gửi đồng chí Stalin: “Trước tình trạng các nông trang tập thể, nông trường và các doanh nghiệp công nghiệp khu vực phía Tây bị các phú nông lẩn trốn và các phần tử phản cách mạng khác đang hoạt động chống phá mạnh mẽ, tôi cho rằng cần phải tăng số lượng đàn áp ở khu vực phía Tây đối với các cựu phú nông, tội phạm hình sự và các phần tử chống Liên Xô, lên 3.000 người theo loại 1 và 6.000 người theo loại 2. Khu vực phía Tây đã được phê duyệt 1.000 người theo loại 1 và 5.000 người theo loại 2. Dự thảo nghị quyết được trình bày.” (Hồ sơ Ban Thư ký Dân ủy Nội vụ Liên Xô số 1595-1937, trang 28, 29).
Trên thực tế, việc thiết lập chỉ tiêu bổ sung cũng được xác nhận qua các bản sao điện tín của Dân ủy Nội vụ Liên Xô ngày 25/10/1937, trong đó chỉ riêng một số trại đã được tăng chỉ tiêu đàn áp thêm 3.600 người. (Hồ sơ Ban Thư ký Dân ủy Nội vụ Liên Xô số 1598-1937, trang 42-52).
Để đảm bảo chiến dịch bắt giữ không gặp trở ngại, Yezhov đã ra lệnh đơn giản hóa phương pháp điều tra và quyết định bắt giữ. Trưởng cơ quan Dân ủy Nội vụ bắt giữ nhóm người theo danh sách mà không cần bất kỳ tài liệu nào, còn về quy trình điều tra, lệnh ghi rõ: “…Điều tra được tiến hành nhanh chóng và đơn giản hóa. Hồ sơ bao gồm: lệnh bắt, biên bản khám xét, tài liệu thu giữ được trong quá trình khám xét, giấy tờ cá nhân, bảng câu hỏi cho người bị bắt, tài liệu tình báo, biên bản thẩm vấn và bản cáo trạng ngắn gọn.”
Các lãnh đạo cơ quan Dân ủy Nội vụ phải báo cáo qua điện thoại tiến độ chiến dịch 5 ngày một lần.
Về tốc độ thực hiện lệnh và tính “khách quan” của quá trình điều tra án được chứng minh ít nhất bằng báo cáo ngày 15/8/1937. Báo cáo này cho thấy chỉ trong vòng 15 ngày sau khi lệnh được ban hành, tại 57 khu vực đã có 100.990 người bị bắt, trong đó 14.305 người bị quy án.
Cú đánh tiếp theo nhằm vào người Ba Lan, trước hết là các lãnh đạo Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Ba Lan, các tổ chức Ba Lan thuộc Quốc tế Cộng sản (Comintern), và những người gốc Ba Lan đảm trách các vị trí quan trọng trong các cơ quan Đảng, Chính quyền, Quân đội Liên Xô và Ủy ban dân vụ.
Sau khi bắt giữ và “phát giác” các gián điệp Ba Lan như cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Ba Lan Lenski-Leshchinsky, Unshlikht, Olsky, Prukhnyak, Pestkovsky và các nhà hoạt động nổi tiếng khác của phong trào cách mạng Ba Lan, Yezhov ban hành lệnh số 00485 ngày 11/8/1937, vu khống Đảng Cộng sản Ba Lan, phủ nhận vai trò cách mạng của đảng này trong phong trào công nhân và ra sức chứng minh nhiệm vụ chính của đảng này là tổ chức hoạt động phản cách mạng. Bằng cách vu cáo một số đồng chí có công lớn trong việc thiết lập và củng cố chính quyền Xô-viết tại Nga, Yezhov ra lệnh từ ngày 20/8 bắt đầu một chiến dịch rộng lớn nhằm thanh trừng triệt để các tổ chức của “Tổ chức Quân sự Ba Lan” tại các địa phương và hoàn thành trong vòng 3 tháng. Lệnh nêu rõ:
“Đối tượng bị bắt bao gồm:
a. Các thành phần tích cực nhất của Tổ chức Quân sự Ba Lan được xác định qua điều tra và chưa bị tìm ra theo danh sách đính kèm;
b. Tất cả tù binh chiến tranh của quân đội Ba Lan còn ở lại Liên Xô;
c. Những người đào tẩu từ Ba Lan, bất kể thời điểm nào vượt biên sang Liên Xô;
d. Những người tị nạn chính trị và những tù binh chính trị được trao đổi từ Ba Lan;
e. Các cựu thành viên của Đảng Xã hội Ba Lan và các đảng chính trị chống Liên Xô khác;
f. Các phần tử dân tộc chủ nghĩa tích cực nhất chống Liên Xô tích ở các khu vực Ba Lan.”
Ngoài ra, lệnh yêu cầu: “Tất cả những ai bị nêu trong lời khai của những người bị bắt với cáo buộc là gián điệp, phá hoại và khủng bố PHẢI BỊ BẮT NGAY LẬP TỨC.” Như vậy, thực chất đây là lệnh bắt giữ tất cả những người gốc Ba Lan.
Lệnh này quy định việc giải quyết những vụ án ngoài vòng pháp luật, những người này bị bắt giữ theo danh sách kèm theo cáo buộc vắn tắt tội trạng.
Liên quan đến việc mua bán Đường sắt Đông-Bắc Trung Quốc (CER), hàng chục nghìn công dân Liên Xô từng làm việc tại CER trở về Liên Xô. Toàn bộ nhóm này được gọi chung là “những người Kharbin”, sau đó bị đàn áp theo lệnh số 00593 của Dân ủy Nội vụ Liên Xô ngày 20/9/1937. Lệnh nêu: “Những người Kharbin phần lớn là đặc vụ của tình báo Nhật Bản…” và phải bị kết án trước ngày 25/12/1937.
Cùng thời điểm đó, ban hành các chỉ thị đàn áp hàng loạt người Hàn Quốc và người Latvia. Một số lượng lớn người Latvia bị giết, đó là những người đồng chí từng tích cực tham gia hoạt động bí mật cách mạng, Nội chiến, đấu tranh chống phản cách mạng, những người nổi tiếng trong Đảng và trong quần chúng Xô-viết, như Rudzutak, Eikhe, Knorin, Pramnek, Soms, Redens, v.v.
Cơn cuồng “gián điệp” lên đến đỉnh điểm, khi ngày 23/10/1937 Yezhov ký lệnh số 00693, nhằm vào các đặc vụ tình báo nước ngoài vượt biên dưới vỏ bọc tìm kiếm tị nạn chính trị, đã đề xuất: “Tất cả những người đào tẩu, bất kể động cơ hay hoàn cảnh vượt biên sang lãnh thổ chúng ta, phải bị bắt ngay lập tức…” và đưa ra xét xử. Những người đào tẩu bị phát giác là gián điệp sẽ bị đưa ra Tòa án Quân sự, còn “tất cả những người khác bị nghi ngờ.. và những người chưa bị phát giác sẽ bị giam trong nhà tù hoặc trại lao động sau khi trình hồ sơ lên Hội đồng Đặc biệt.”
Tóm lại, các nhà cách mạng chuyên nghiệp, các cán bộ trọng trách của các đảng cộng sản anh em, những người trốn tránh cơ quan tình báo nước ngoài, cũng như những người lao động tìm kiếm cuộc sống tốt đẹp hơn, mạo hiểm vượt biên sang lãnh thổ Liên Xô, đều không tránh khỏi nhà tù hoặc bị xử bắn. Lệnh này vi phạm nguyên tắc hiến pháp về quyền tị nạn chính trị và chà đạp một cách tàn bạo học thuyết Lenin về chủ nghĩa quốc tế.
Kết quả của tất cả các chiến dịch đàn áp hàng loạt ở trung ương và địa phương là tại các cơ quan Dân ủy Nội vụ đã tích tụ một lượng lớn người bị bắt. Để “xem xét nhanh nhất có thể các hồ sơ điều tra,” lệnh số 00606 của Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô ngày 17/9/1938, cùng với các bộ ba hiện có, lại thành lập thêm cái gọi là các “bộ ba đặc biệt” bao gồm bí thư thứ nhất của ủy ban tỉnh thành, khu vực hoặc Ủy ban Trung ương các đảng cộng sản các nước cộng hòa, công tố viên tương ứng và trưởng cơ quan Dân ủy Nội vụ địa phương. Các bộ ba ra quyết định dựa trên bản tóm tắt ngắn gọn và tuyên án tử hình hầu hết người bị bắt. Bản án của bộ ba được thi hành ngay lập tức.
Theo dữ liệu báo cáo, chỉ trong ngày 10/9/1938, thực hiện theo các lệnh trên đã cơ bản tuyên bố khủng bố hàng loạt dựa theo quốc tịch đã có 227.986 vụ án được xem xét, trong đó 172.830 người bị kết án xử bắn, 46.912 người bị kết án với các hình phạt khác nhau, 3.120 người được chuyển cho các tòa án xem xét, và 5.124 người được trả lại để điều tra thêm.
Đối với các chiến dịch riêng lẻ, số liệu này được phân bổ như sau:
Ngày 15/8/1937, Yezhov, dựa trên nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik), đã ban hành lệnh số 00486, buộc các cơ quan Dân ủy Nội vụ địa phương bắt giữ và tuyên án, thông qua một Hội đồng đặc biệt, với mức án không dưới 5–8 năm tù đối với tất cả “vợ của những kẻ phản bội Tổ quốc, thành viên của các tổ chức gián điệp và phá hoại Trotsky cánh hữu”, bị kết án sau ngày 1/8/1936, cũng như con cái trên 15 tuổi của họ bị coi là “nguy hiểm về mặt xã hội và có khả năng hành động chống phá Liên Xô”.
Sau này, phạm vi áp dụng lệnh này đã được mở rộng sang các thành viên gia đình của cái gọi là “những người Kharbin”.
Lệnh số 00486 được ban hành hoàn toàn trái ngược với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Liên Xô, vốn quy định rằng một cá nhân chỉ có thể chịu trừng phạt hình sự vì một tội phạm cụ thể do họ thực hiện. Theo lệnh này, hàng trăm nghìn người vô tội đã bị đưa vào trại lao động với thời hạn dài, còn con cái còn nhỏ của họ, bị tước đoạt cả cha lẫn mẹ, được đưa đến các trại trẻ mồ côi hoặc giao cho họ hàng giám sát.