Mireille Sacotte – tác giả bài viết L’œuve de Saint-John Perse – là Giáo sư Danh dự tại Đại học Sorbonne Nouvelle Paris III, chuyên gia về Jean Giono, Romain Gary và Saint-John Perse cũng như về văn học Pháp ngữ vùng Caribe. Bài viết này được đăng trong Les Prix Nobel de Littérature (Những giải Nobel văn chương, tr. 647-tr. 660), NXB L’Alhambra.
Dương Thắng chuyển ngữ

Saint-John Perse
Ngày 20 tháng 9 năm 1975, sau khi Alexis Leger qua đời tại bán đảo nhỏ bé Giens, rất ít người Pháp nhận ra rằng họ vừa mất đi một nhà thơ lớn, một người Pháp tài năng đã từng đoạt giải Nobel văn chương. Sự kiện này hầu như không gây tiếng vang nào trên truyền thông, ngoại trừ một bài viết tuyệt đẹp của Aragon trên tờ L’Humanité (Nhân đạo) và những bài viết lẻ loi trên một vài tờ tạp chí. Thế nhưng con người này lại đóng một vai trò then chốt trong nền ngoại giao Pháp suốt mười lăm năm trước Thế chiến thứ hai, và dưới bút danh Saint-John Perse, ông đã để lại phía sau mình một sự nghiệp thi ca thật sự đồ sộ.
Những lý do nào đã dẫn đến sự lãng quên đáng kinh ngạc này? Một số lý do thuộc về chính bản thân Leger, một số lý do khác đến từ những hoàn cảnh lịch sử và số lý do nữa lại đến từ chính sự nghiệp thi ca của ông. Cái bút danh Saint-John Perse của ông, bất chấp vô vàn những phán đoán và những lời giải thích sắc sảo, chưa bao giờ được làm sáng tỏ hoàn toàn và có lẽ điều đó đã góp phần hạn chế việc phổ biến rộng rãi các tác phẩm của ông ở Pháp. Saint-John Perse – một cái bút danh bí ẩn, mang âm sắc Anh, bởi John và ngay cả Saint-John đều là những tên gọi trong tiếng Anh, dường như cái bút danh mà nhà thơ đã “hân hoan đón nhận” ấy – giống như là một cảm hứng thi ca, với những âm tiết dài và ngắn, âm tính và dương tính – theo trực giác ban đầu sẽ không bao được cảm nhận như một cái tên Pháp. Tuy vậy bút danh Saint-John Perse rất phù hợp với khí chất thơ của ông: Sự hoà hợp giữa tên của một hòn đảo, đảo Saint-John vùng Antilles thuộc Anh, và Perse – tên của vùng vịnh Persique, cái nôi của các nền văn minh cổ đại và của những đại hoang mạc, hai kiểu không gian mà trong những cơn mê của mình ông thường đắm đuối vào đó. Sinh ra ở Guadeloupe, trong những giấc mơ dài ông không ngừng ngoảnh lại nhìn về những vùng đất xa xôi, nơi mà đối với ông chúng đã mang đến hình dạng và ý nghĩa của thế giới này… Sớm bị mê hoặc bởi sa mạc, trước hết là sa mạc Gobi ở Trung Quốc (được ông mô tả như mặt trái và phần cực âm của biển cả) – những vùng đất khắc nghiệt này đã được ông biến thành nơi lưu trú cho cuộc lưu đày của mình với tư cách con người và với tư cách nhà thơ.
Những cách thức mà ông chọn để phổ biến tác phẩm của mình cũng hạn chế đi rất nhiều sự đón nhận của công chúng. Ngay từ khi còn trẻ, nhà thơ đã tỏ ra do dự trước việc công bố các tác phẩm của mình: trong ông tràn ngập cảm giác về một sự bất lực không bao giờ có thể chạm tới sự hoàn hảo, nỗi sợ bị phơi bày bản thân, lo sợ bị phán xét, lo sợ bị đánh đồng với các nhà văn “ngoại nhập”, rồi sau đó là với các nhà thơ kỳ dị, bí hiểm. Việc ấn phẩm trong lần xuất bản đầu tiên bị chệch choạc bởi những sai sót trong in ấn, sự dè dặt khi đón nhận của một số độc giả hoặc sự thất bại trong việc cố gắng giải thích chi tiết tác phẩm đã dẫn đến việc ông lựa chọn chỉ in ấn các bản in sang trọng với số lượng rất hạn chế cũng như hậu quả của việc trong những khoảng thời gian dài ông cố tình lánh mặt trên văn đàn.
Chính là ở tại Mỹ là nơi mà những thi phẩm lớn của ông đã có thể thật sự đến được với công chúng đông đảo. Đầu tiên là Exil (Lưu đày) được đăng trên các tạp chí (Fontaine, Les Cahiers du Sud) trong thời chiến, rồi Vents (Những ngọn gió) và Amers (Đắng cay). Nhờ các ấn bản song ngữ ( xuất bản theo hợp đồng ký với Bollingen Foundation), người Mỹ đã nhanh chóng làm quen với các tác phẩm của ông sớm hơn rất nhiều so với người Pháp và họ cũng đã đón nhận Perse rất nồng nhiệt. Đây là trường hợp cực kỳ ngoại lệ khi mà các bài phê bình của văn giới Pháp về một nhà thơ Pháp lại bị lu mờ bởi giới phê bình Anh-Mỹ.
Một nguyên nhân quan trọng khác dẫn đến tình trạng tiếp nhận yếu kém đến vậy lại có nguyên nhân từ quan điểm chính trị của Alexis Leger và các mối quan hệ xung đột của ông với tướng de Gaulle. Bị buộc phải lưu vong vào tháng 6 năm 1940 sau khi Đức chiếm nước Pháp, bất chấp yêu cầu của nhiều bạn bè chính trị, của Winston Churchill và của chính De Gaulle, Leger chưa bao giờ chấp nhận công khai đem danh tiếng liêm chính của mình để ủng hộ hay bảo chứng cho tướng De Gaulle hay cho chính phủ “nước Pháp Tự do” đang lưu vong. Hành động này của ông xuất phát từ mối quan tâm đến tính hợp pháp của nền Cộng hòa và từ sự ngờ vực đối với một quân nhân mà, trong mắt ông, đã vượt quá giới hạn trong chức trách của mình. Sau chiến tranh, tổng thống De Gaulle và những người theo phái De Gaulle không quên điều này: họ giữ một mối hiềm khích sâu sắc đối với ông. Nhà thơ Saint-John Perse, gắn bó với số phận của nhà ngoại giao Alexis Leger, đã nhìn thấy tác phẩm của mình bị cố tình đẩy vào quên lãng trên đất Pháp. Nếu người Mỹ và người Thụy Điển nhiệt tình ủng hộ Saint-John Perse được đề cử giải Nobel thì nước Pháp hoàn toàn ngược lại. Ngược lại với thông lệ, Viện Hàn lâm Pháp không gửi thông điệp chúc mừng và nước Pháp không cử bất cứ đại diện chính thức nào đến tham dự lễ trao giải Nobel của ông. Chỉ có duy nhất André Malraux lên tiếng, nhưng chỉ với tư cách cá nhân. Về phần mình, ngài Alexis Leger, trong sự cô tịch gần như tuyệt đối, biến mất vĩnh viễn sau hình bóng của nhà thơ Saint-John Perse, đến lượt mình nhà thơ Saint-John Perse ẩn nấp kín đáo phía sau các tác phẩm của mình.
Cũng cần phải nói rằng những tác phẩm của Saint-John Perse không hề dễ đọc. Trong cái bức tranh toàn cảnh thơ ca Pháp nửa đầu thế kỷ 20, nó được xem là một trong những giọng thơ khó hiểu nhất và cũng là độc đáo nhất. Và khác hẳn các giọng thơ khác, đây cũng là giọng thơ hòa giải được những phẩm chất tưởng như mâu thuẫn nhau gay gắt nhất. Jean Paulhan, trong bài viết Énigmes de Perse (Điều bí ẩn Perse) đã phác họa cái vị trí đặc biệt dành riêng cho các thi phẩm của Saint-John Perse, những thi phẩm xuất hiện trong một thời đại mà, như ông nói, thơ đã tự huỷ bằng việc mang nghĩa “một tác phẩm văn xuôi, bất ổn về nhịp điệu, ngắn ngủi và tràn ngập là tuyệt vọng”. So với những sáng tác cùng thời – Char, Eluard, Breton – thơ của Saint-John Perse dường như gần gũi nhất với chất sử thi. Nó gây ngạc nhiên bởi chiều kích rộng lớn, bởi cấu trúc đồ sộ đan dệt bằng các phần nối tiếp nhau (Anabase, Vents/ Những ngọn gió, Chronique/ Biên niên sử, Oiseaux/ Những con chim) hoặc các “ tổng phổ” mang tính tổng hợp (Éloges/Tụng ca, Exil/Lưu đày, Amers/Vị đắng). Những câu thơ có độ dài đặc biệt, bay bổng nhờ vào việc thường xuyên sử dụng các tiết tấu có nhịp đều. Thời kỳ cuối, xuất hiện các bài thơ ở dạng ngắn và rời rạc, nhưng theo dự kiến của Saint-John Perse đáng lẽ chúng cũng phải được ghép vào một tổng thể lớn, điều mà nhà thơ đã không còn đủ thời gian hoàn tất. Bài thơ Éloges phải mất bốn mươi năm còn Amers phải mất hơn mười năm mới tìm được cấu trúc cuối cùng của chúng.
Đi ngược với khuynh hướng chung trong thời đại mình – một thời đại đề cao sự đứt đoạn và pha tạp – Saint-John Perse luôn ưa chuộng các tác phẩm có quy mô lớn và ông đặc biệt hướng đến những “tác phẩm được kiến tạo như một tổng thể”. Chúng được kết cấu chặt chẽ đến mức mỗi bài thơ mới xuất hiện dường như luôn gắn kết hữu cơ với những bài trước đó, gắn kết bằng những từ ngữ, những hình ảnh, những lối diễn đạt (lời khấn, lời cảm thán), bằng những nhịp điệu cũng như bằng những cử chỉ (vỏ sò áp vào tai), những chất liệu ưa thích và những vật thể có quyền năng gần như ma thuật (muối, than hồng, kiếm, mỏ neo), bằng những cảnh tượng lặp đi lặp lại (“Những kỵ sĩ tiến tới khi đàn đại bàng sáng rực tấn công”). Hình ảnh lặp lại của biển khơi, từ thời Troy đến nay, với “một làn sóng mơ hồ” lan toả khắp thế giới, và chuỗi tác phẩm trình hiện như “một bài thơ khổng lồ duy nhất tự tạo tiếng vọng cho chính mình”.
Tất cả các tài liệu như: thư từ, tiểu sử, các chú giải thêm hoặc các bình luận do chính nhà thơ viết cho ấn bản Pléiade của mình đều hướng về tác phẩm mà chúng “hộ tống” và chính chúng, đến lượt mình lại tạo ra một tác phẩm mới, hòa điệu nhịp nhàng với các bài thơ. Sự giám sát chặt chẽ của Saint-John Perse còn bao phủ cả những bản dịch tiếng Anh thơ ông: ông luôn làm việc tỉ mỉ với dịch giả, thậm chí sẵn sàng tự mình sửa lại bản dịch nếu cần. Thế giới tưởng tượng của nhà thơ được tổ chức mạnh mẽ giữa những hấp lực (cái chua, cái sống, cái nóng) và những kháng lực (cái béo, cái khô, cái ấm), tất cả đều là những cảm nhận thường trực, những “điểm nở rộ” trong văn chương của ông, theo cách nói của nhà phê bình Caillois, khó lẫn với bất cứ ai khác.
Một khía cạnh khác cũng gây ra không ít bối rối bối. Thơ ca – và rộng hơn là văn học – kể từ thời Mallarmé trở đi thường khóc than về sự suy tàn của thế giới và sự cáo chung của tinh thần siêu nghiệm, sự sụp đổ của ý nghĩa; thơ ca gắng gượng chống lại sự sụp đổ ấy bằng cách chạy trốn vào trong những âm vang tuyệt vọng cuối cùng của một vài hình thức thi ca mang nặng tính “chế tác”. Thế riêng phẩm chất nổi bật của thơ Saint-John Perse lại là âm hưởng của một bản thánh ca linh thiêng dâng tặng cho sự toàn năng của cuộc sống, tặng cho năng lượng và sinh khí, cho chuyển động phổ quát khôn nguôi của linh hồn. Thơ cả của ông tôn vinh ý nghĩa và trao giá trị cho toàn bộ sự đa dạng của thế giới sống. Được sinh ra từ hơi thở thần linh, những đấng Sáng tạo đã tạo dựng trọn vẹn thế giới này trong một hành động duy nhất – vì thế đối với ông sự sống là một điều thiêng liêng và không bao giờ có thể thay thế. Nhà thơ là kẻ vượt thoát khỏi những vẻ bề ngoài, để nhìn thấy sự liên đới gắn kết mỗi thực tại với tất cả các thực tại khác và với cái nguồn gốc đã và đang bị lãng quên ấy. Từ góc nhìn đó, mọi sự đều sẽ trở nên đẹp và tốt lành, trở nên dễ hiểu. Những lời nói, những loài chim, các đại dương và sa mạc, những con người trưởng thành – “được thấm nhuần thứ nhựa nguyên sơ […]” – đều là anh em và luôn giữ “một điều gì đó của giấc mộng tạo sinh” (Oiseaux/ Những con chim).
Chuỗi tác phẩm, hay nói đúng hơn là sự nghiệp thi ca hùng vĩ với một cấu trúc chặt chẽ và thống nhất của ông được mở đầu bằng tập thơ Éloges. “Ôi tôi có nơi chốn để ca tụng!”, đứa trẻ nói; và đó cũng là chàng thanh niên, là nhà thơ, người đang trò chuyện với chính đứa trẻ mà anh đã từng là. Trong thế giới trẻ thơ, động từ louer (ca tụng) được dùng “ trù mật khắp nơi”, vì mọi cây cối, cá, côn trùng, trái cây đều có thể trở thành bổ ngữ trực tiếp của lời tụng ca đó. Vạn vật và mọi sinh thể không chỉ được ca tụng, mà còn “đáng ca tụng”, nghĩa là mỗi lời ngợi ca tất cả các vật khác sẽ là nơi mà nơi niềm “hạnh phúc được hiện hữu” một lần nữa được nhắc lại. Cuộc sống sẽ đem đến cho tất cả những điều ấy – thói quen an trú trong niềm vui, sự lưu đày, nỗi cô độc, tang tóc – những lời phủ nhận thẳng thừng. “Đó là nhịp độ của thế giới và tôi chỉ còn biết tán dương nó”, ta đọc thấy trong Anabase. Từ bài thơ này sang bài thơ khác, lời ca ngợi những gì đang là, cái nhỏ và cái lớn, cái hữu ích và vô dụng, cái thiện và cái ác, vẫn được lặp đi và lặp lại. Gió “hát lên niềm vinh dự được sống, và chúng ta hát lên nỗi kinh hoàng phải sống”, cả hai điều này đều đứng ngang hàng với nhau. “Hỡi bậc tuổi già cao cả mà ta ca tụng”, trong Chronique ông sẽ nhắc lại một lần nữa việc bài thơ về tuổi già đã đổi mới lại thành tuổi thơ, như thể giữa hai tuổi này chưa bao giờ có sự đứt đoạn. Bởi đến khi ngoái đầu nhìn lại, nhà thơ không dừng bước ở “sự mài mòn” hay “tro bụi”, mà ở “một đời sống cao cả đang khai mở trên mặt đất của con người”.
Và các chủ đề thơ hoàn toàn tách rời mọi biến cố lịch sử được đánh dấu bằng các cột mốc thời gian, tách rời khỏi mọi phiêu lưu cá nhân, cho dù đôi khi chúng vẫn neo bám vào một địa danh địa lý có thể nhận diện được (Guadeloupe trong Éloges, Trung Quốc cho Anabase, phong cảnh Mỹ cho Exil hoặc Vents). Thơ của Perse hướng đến tình cảnh chung của con người. Người ta thấy một “tôi” không mang bất kỳ một phẩm chất cá biệt nào, một cái tôi chỉ đại diện cho Con Người viết hoa (kẻ xa lạ, người yêu, kẻ bị ruồng bỏ, kẻ lang thang) hoặc, tốt nhất, cho một sự hiện thể mang tính tự sự (thi sĩ, người kể chuyện), thực hiện một cuộc dịch chuyển trên bề mặt trái đất để đi tìm ý nghĩa của đời sống. Khi đối mặt với các yếu tố (mưa, tuyết, gió), với những đại cảnh (sa mạc, biển, núi), khi dần dần thoát khỏi những gì mang dáng dấp của số phận trần gian, nhà thơ đạt tới sự mặc khải rằng sức mạnh sinh động lớn lao đang nuôi dưỡng vạn vật luôn sẵn có để trao tặng cho người nào mà hơi thở thiêng liêng ấy vẫn còn thôi thúc họ. Qua khổ luyện, người ấy đã học cách biết lắng nghe lời của thế giới và nhìn thấy những dấu vết của chữ viết thiêng liêng đã được gieo ở khắp nơi. Người lữ khách-thi sĩ, được “trả lại [cho] quê gốc thực sự của mình”, hòa vào nguồn gốc chuyển động của thế giới và của ngôn từ. Rồi anh ta sẽ quay trở về giữa đồng loại, mang theo thông điệp hy vọng: “cái chết chẳng là gì cả” (Amers); “không có gì sống động bắt nguồn từ hư vô, cũng chẳng có yêu thương nào đến từ hư vô cả” (Poésie). Một đời sống, một nền văn minh, một tác phẩm như là sự tiếp nối những đời sống khác, những nền văn minh khác, những tác phẩm khác. Sự sống, nhân loại, thi ca thì mãi mãi sinh sôi nảy nở và phì nhiêu. Giữa dòng thác của những lời nguyền rủa và trong lòng một thời đại suy tàn mà chủ nghĩa hư vô đang bành trướng mạnh mẽ, một thông điệp đầy hứng khởi như thế thật sự là rất lạ lùng.
Thi pháp của Saint-John Perse cũng kỳ lạ không kém và điều đó khiến ông trở thành một nhà thơ không thể xếp loại. Ở một số phương diện, người ta có thể nghĩ thơ ông vẫn thuộc thế kỷ XIX. Thị hiếu dành cho những phong cảnh rộng lớn, những thảm họa nguyên sơ, độ rộng mở của những khung cảnh được thơ hóa, tính nhạc trong câu thơ của ông gợi lại chất trữ tình lãng mạn: “Đó là những cơn gió lớn lướt qua mọi mặt của thế giới này.”
Nhưng đôi khi khung cảnh trong thơ ông lại như bất động, biến thành những bức tranh tôn nghiêm, phù hợp với cái đẹp lý tưởng kiểu Parnasse (trường phái Thi Sơn): “Và người đàn ông gác biển, đứng đó giữa những màu đất son, vàng nhạt, gọi lên giữa trưa sắc đỏ từ chiếc tù và sắt của mình.” Hơn nữa, việc tìm kiếm biểu tượng đôi khi áp đặt vào trong thơ ông một phong cảnh nhân tạo: đền thờ, bể nước, sân bậc; vào việc sử dụng biểu tượng thành Alexandrin được nới rộng ra, nhưng bao giờ cũng vừa đủ, không vượt quá chừng mực.
Saint-John Perse không kế thừa các bậc thầy của mình theo kiểu một đệ tử trực hệ. Cầu viện tới họ nhưng ông lại không tuân thủ các quy tắc của họ: trộn lẫn, làm lệch đi, giễu nhại, bẻ cong họ theo ý muốn của mình. Hơn nữa, những đặc trưng thế kỷ XIX được ông tái tạo luôn đi kèm với các tìm tòi táo bạo và đứt đoạn, có thể sánh ngang với các trào lưu thi ca tiền phong mới mẻ nhất của thế kỷ XX. Những hình ảnh trong thơ ông đã quyến rũ các nhà thơ siêu thực: “buồn như cái chết của loài khỉ” hoặc “và đồ giặt sạch ra như một thầy tu bị xé thành từng mảnh” – tất cả những hình ảnh ấy đều được cân nhắc kỹ lưỡng, vận hành theo lối mạch ngắn, tuân theo một mỹ học của sự bất ngờ.
Ở vị trí trung tâm trong những bài thơ của Saint-John Perse luôn hiện diện những suy tư về việc viết, về một hành trình tìm kiếm cái tuyệt đối của thơ, và về sự vận hành bí ẩn trong hành trình sáng tạo một thi phẩm. Vấn đề này cũng chính là trung tâm của các tác phẩm đương đại đa dạng nhất – từ các tác phẩm Nouveau Roman (Tiểu thuyết mới) cho đến công trình thi ca của Francis Ponge – thế nhưng vẫn chưa có ai có thể đi xa hơn thơ của Perse.
Điểm cuối cùng: nếu văn xuôi của ông nổi bật bởi sự tráng lệ và vẻ đồng nhất, thì những đứt đoạn và gãy vỡ của nó cũng không kém phần đáng chú ý. Cú pháp của ông tiết kiệm mọi mối liên kết lô-gíc, xóa mờ các khớp nối và mệnh đề phụ thuộc. Ông thích lối tỉnh lược, thích cụm danh từ, thích câu tách biệt. Thay cho sự minh bạch, Saint-John Perse ưa chuộng sự lửng lơ: “Hỡi Lữ khách trong gió vàng, sở thích của linh hồn…”. Vậy nên, sau khi làm việc đến kiệt sức ở vô hạn lần với các âm vị của từ ngữ, đôi khi ông lại bỗng dưng buông bỏ để cho từ ngữ tự mở lối tìm kiếm nghĩa, băng qua những con đường ẩn dụ sang hoán dụ, qua những trượt chuyển dần dần, đến mức đôi khi các từ tìm được nguồn gốc của chúng ngay trong nhan đề. Thế nên từ Vents: à éventer, vivant, van, an, vain, rêve, vin, ivre, divin, violent… mở ra những hướng khác nhau mà bài thơ có thể dấn thân vào đó. Xuyên qua những tìm kiếm hết sức táo bạo và mới mẻ, thơ Saint-John Perse lại kết nối trở lại với một thao tác rất nguyên thủy của ngôn ngữ, vốn là thao tác của các tư tế và thầy bói cổ xưa, và Perse đã cất tiếng đòi hỏi được kế thừa những truyền thống diệu kỳ đó.
Ở đây ta chạm đến điều tạo nên tính độc đáo nhất của thơ ông: nó thừa hưởng toàn bộ các tìm kiếm thi ca, từ cổ đại đến hiện đại, để tổ chức câu thơ như một cơ chế kiến tạo nghĩa. Sự thực thi của mỗi bài thơ luôn hòa giải ba tầng ngữ nghĩa: có thể là chuyện kể về cuộc phiêu lưu của một con người trên mặt đất; cũng có thể là cuộc phiêu lưu tinh thần nơi sự khai tâm hướng đến nghĩa của thế giới; hoặc cũng có thể là cuộc phiêu lưu thơ ca để đi đến nguồn cội của sáng tạo. Những từ ngữ, chứa đầy tầng nghĩa, cho phép chúng ta đọc theo cả ba cách. Xa hơn nữa, Perse nuôi tham vọng hòa giải ý nghĩa phổ quát của cuộc phiêu lưu của nhân loại khi tham chiếu đến những trải nghiệm riêng biệt nhất. Điều đó hiện ra ngay trong từ vựng, nơi những từ ngữ chung nhất, thậm chí mang tính loại (vật, người, chim…) được đặt cạnh những danh từ; lớn, cao, thuần khiết với các tính từ; những số nhiều ở dang bất định; phép hoán dụ mơ hồ (dùng các “tấm vải” để ám chỉ cho áo choàng, vải lanh, lều, màn, buồm); và những từ ngữ chính xác được vay từ các từ điển chuyên biệt nhất của hàng hải, giải phẫu người hay từ điển các loài chim, luật học, côn trùng học.
Sự tổng hợp mang độ tổng quát nhất: “Con người sinh ra từ bụi đất và theo mọi cách”, ngay lập tức lại được kết nối tiếp với sự mô tả tỉ mỉ và cụ thể nhất “gã chiến binh phóng đãng đã cắm ngọn giáo của mình trên ngưỡng cửa để buộc một con khỉ.” Vậy nên, toàn bộ di sản văn hóa của thế giới – Do Thái cổ đại, Ai Cập thời Pharaon, châu Mỹ của những kẻ đi chinh phục đất mới – tất cả đều được huy động chỉ để mô tả một “con cá bụi rậm” thứ mà ta chẳng biết gì về nó, ngoài việc nó đi ngang qua trong bản hoà tấu của “những màu sắc của chim công Salomon”, “bông hoa vẽ trên dây đeo của người Ras” và “con ocelot được nuôi bằng thịt người cho Montezuma” (Éloges). Cùng một cách như thế, ông đã khám phá mọi ngóc ngách của chữ nghĩa. Thi ca của ông rút dưỡng chất từ khắp nơi: từ những cái thực, từ tri thức, từ những sự kiện muôn hình, từ những văn bản lớn. Nhưng ông gom góp, xem xét rồi tổ chức chúng lại theo phong cách riêng, toàn bộ sự phong phú của chất liệu ấy sẽ gói gọn chỉ trong một câu, ở trong một giọng, trong một vũ trụ tưởng tượng chỉ thuộc riêng của Saint-John Perse. Như chính ông nói trong Chronique: “Chúng ta đem toàn bộ sở hữu của mình mở rộng theo cách dùng và luật lệ của ta.”

P/S: Sự kiện ra mắt bản dịch tiếng Việt của tập thơ Những ngọn gió của Saimt-John Perse sẽ được Viện Pháp tổ chức vào hồi 9g30 thứ ba ngày 18/11/2025 tại Viện Pháp số 15 Thiền Quang, Hà Nội (vào cửa tự do). Xin được bày tỏ sự ngưỡng mộ và xin được chia vui tới nhà thơ-dịch giả U90 Hoàng Hưng và nhà văn trẻ Hà Thủy Nguyên của nhà sách Book Hunter và cũng xin được trân trọng thông tin tới những ai có quan tâm đến sự kiện này.