Giữ tượng đài hay giữ sự thật? Câu chuyện “Nỗi buồn chiến tranh”

M. Trần

Một cuốn tiểu thuyết in từ đầu năm 1990, yên ổn hơn ba mươi năm, bỗng đến nay lại leo top trending tranh cãi.

Tác phẩm: Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.

Có lẽ, đây là dịp rất nên nhìn lại dưới mọi góc độ cho thấu đáo thay vì chia phe ném đá.

Vài mốc cơ bản:

– Xuất bản lần đầu năm 1990 (NXB Hội Nhà văn) với tên Thân phận của tình yêu – cái tên do biên tập chọn.

– Năm 1991, tái bản với đúng tên tác giả đặt ngay từ đầu: Nỗi buồn chiến tranh, và nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam.

Từ đó, cuốn sách đi ra thế giới:

– Dịch sang tiếng Anh với tên The Sorrow of War, xuất bản ở Anh/Úc đầu 90s.

– Dần dần được dịch khoảng gần 20 thứ tiếng, phát hành ở gần 20 quốc gia.

Rinh về một loạt giải thưởng và ghi nhận quốc tế:

– Giải Independent Foreign Fiction Prize (Anh, 1994).

– Nằm trong danh sách “50 bản dịch xuất sắc thế kỷ 20” (Society of Authors, London).

– Giải thưởng văn học ở Nhật, Hàn… trong thập niên 2000–2010.

Đây không phải cuốn “tự nhiên hot nhờ mạng xã hội”, mà là một tác phẩm đã được đọc – khen – chê – trao giải hơn 30 năm.

Đến 2025: Sách được vinh danh trong danh sách 50 tác phẩm văn học – nghệ thuật tiêu biểu sau thống nhất.

Một số tướng lĩnh, cựu chiến binh phản đối, cho rằng: Quá buồn, quá ám ảnh, không phù hợp để vinh danh tầm “tiêu biểu quốc gia”, có thể làm mờ hình ảnh người lính.

Nhiều nhà văn, nhà phê bình, độc giả lâu năm bảo vệ, xem đây là: một trong những tiểu thuyết Việt Nam hay nhất về chiến tranh, một cột mốc của văn học hậu chiến.

Và thế là… bùng tranh cãi.

Lần đầu tôi đọc Nỗi buồn chiến tranh là vào đầu những năm 1990, và bản tôi đọc đã mang tên Nỗi buồn chiến tranh – tức là sau lần tái bản 1991.

Những thứ còn đọng lại đến giờ trong tôi vẫn là những nhân vật: Kiên – anh lính trinh sát sống sót sau chiến tranh nhưng tâm hồn thì không trở về được. Phương – cô gái Hà Nội, vừa là tuổi trẻ, vừa là tình yêu, vừa là vết thương. Những phụ nữ thoáng qua nhưng không mờ: Hiền, chị Hạnh, những cô gái giao liên, y tá, dân thường…

Lần đầu đọc, tôi đã thấy… ám ảnh.

Không có những tiếng hô xung phong quen thuộc từ sách hồi nhỏ. Thay vào đó là những đêm rừng ẩm sũng, xác người không kịp gọi tên, một anh lính trở về mà đầu óc kẹt trong tiếng vọng quá khứ.

Nhiều năm sau tôi đọc lại, cảm giác cái gai trong ngực như vẫn còn. Kiên – là hình ảnh trung thực của một người phải sống tiếp với cuộc chiến đã dời từ ngoài chiến trường vào bên trong đầu.

Có lẽ vì từng bị cuốn sách này đâm cho một nhát từ hơn ba mươi năm trước nên bây giờ thấy tranh cãi, tôi không thấy phe nào hoàn toàn vô lý.

Mỗi phía thực ra đang sợ mất cái gì?

Cựu chiến binh và tướng lĩnh: Với họ, cả tuổi trẻ nằm lại trong rừng, trong những tọa độ mà thế hệ sau chỉ thấy trên giấy. Hình ảnh người lính là trụ cột tinh thần để sống tiếp: đẹp, sáng, không được phép rạn.

Một cuốn tiểu thuyết được gắn nhãn “tiêu biểu” nhưng: tràn ngập mệt mỏi, day dứt, ám ảnh, chiến tranh hiện lên như cỗ máy nghiền nát tuổi trẻ, khiến họ lo: giới trẻ chỉ còn thấy lính là những người đổ vỡ, tượng đài trong lòng mình bị nứt. Cảm xúc ấy cần được tôn trọng. Ta không thể gạt đi bằng một câu “các bác cổ hủ”.

Vấn đề chỉ nảy sinh khi: Từ “tôi không chịu nổi”bước sang “đừng vinh danh cuốn này, đừng cho nó đứng vào hàng tiêu biểu”.

Khi đó, ta chạm vào giới hạn của tự do sáng tạo và cách một xã hội ghi nhận giá trị nghệ thuật.

Nhà văn, nhà phê bình, người đã đọc kỹ tác phẩm và yêu tác phẩm: Với họ, Nỗi buồn chiến tranh là bước thoát khỏi một kiểu viết chiến tranh một màu, lần hiếm hoi văn học nhìn chiến tranh như bi kịch chung của con người, kể cả bên thắng.

Việc đưa cuốn này vào danh sách “tiêu biểu” không phải tôn vinh sự bi lụy, mà là thừa nhận rằng chúng ta đủ trưởng thành để nhìn chiến tranh bằng cả tiếng hò reo lẫn tiếng thở dài của người sống sót.

Người lựa chọn tác phẩm vinh danh: Họ đứng giữa truyền thống sử thi, anh hùng ca của mấy chục năm và nhu cầu đổi mới, hội nhập với cách thế giới nói về chiến tranh: bớt tuyên truyền, nhiều nhân bản, đối diện sang chấn tâm lý. Nếu đến Nỗi buồn chiến tranh mà cũng không dám đưa vào thì văn học hậu chiến của chúng ta còn chỗ nào để… khác đi?

Người trẻ – và hội “chưa đọc đã comment” – nhóm đông nhất và sung nhất trong mọi drama, bao giờ cũng là đội: Chưa đọc nhưng đã có ý kiến, xem vài trích đoạn, vài tít báo là kết luận “độc hại” hoặc “kiệt tác” rất nhanh.

Điểm chung là ít đọc, nhiều phán: Đó là lý do tôi nghĩ: trước khi nói mình đứng về phe nào, hãy tự hỏi: “Mình đã đọc trọn cuốn sách chưa?”.

Nỗi buồn chiến tranh ở đây là nỗi buồn gì?

Không phải nỗi buồn của kẻ thua trận, cũng không phải kiểu “ước gì đừng đi lính”. Đó là nỗi buồn của một người biết rõ vì sao mình chiến đấu, nhưng cũng nhìn rất rõ cái giá phải trả. Nỗi buồn khi nhận ra: tuổi trẻ, những người đã nằm lại, sự bình yên trong đầu… là những thứ không bao giờ lấy lại được.

Chiến tranh kết thúc trên bản đồ, nhưng trong một người như Kiên, chiến tranh không kết thúc – nó đổi hình, từ tiếng súng sang tiếng vọng trong ký ức. Đó là “nỗi buồn chiến tranh” mà cuốn sách dám gọi đúng tên.

Không thích là quyền, đòi cấm lại là chuyện khác.

Bị chạm vào ký ức, thấy đau, thấy bức xúc – bình thường. Nhưng: từ “tôi không thích, tôi không chịu nổi” sang “đừng vinh danh, đừng để nó xuất hiện trong danh sách tiêu biểu”là hai chuyện khác nhau.

Nếu hôm nay ta gạt một cuốn vì: quá buồn, quá ám ảnh” ngày mai rất dễ gạt thêm những cuốn: quá gai góc, quá thẳng, đụng chạm. Đến lúc đó, thứ còn lại có thể là: một nền văn học an toàn, nhẵn mịn, vô hại, và… vô hồn.

Thế hệ sau sẽ đọc gì? Những câu chuyện ai cũng đoán được cái kết, những nhân vật luôn đúng, những chiến thắng không có vết xước.

Người trẻ nên làm gì? Theo tôi, người trẻ không cần chọn phe “cựu chiến binh” hay “nhà văn”.

Thực tế hơn: Đọc trước, nói sau. Muốn nói về Nỗi buồn chiến tranh, hãy tôn trọng chính mình: đọc trọn cuốn, và đọc cho tử tế. Tham gia bình luận mà chưa đọc, không có dữ liệu, đó không phải tranh luận – đó chỉ là xả cảm xúc.

Tôn trọng ký ức – nhưng đừng sợ sự thật.

Thế hệ đi qua chiến tranh có quyền giữ ký ức theo cách giúp họ sống tiếp.

Thế hệ sinh sau chiến tranh có quyền: đọc cả những góc khuất, hiểu thêm về những vết thương.

Hai điều này không loại trừ nhau, miễn là ta không lấy nỗi đau của mình để bịt miệng trải nghiệm của người khác.

Chúng ta chọn giữ lại nỗi buồn nào?

Một dân tộc chỉ dám giữ lại những trang sử toàn ánh sáng, không dám giữ lại nỗi buồn của mình, rất khó gọi là một dân tộc đã trưởng thành.

Chúng ta muốn mình thuộc kiểu nào? Chỉ nghe những câu chuyện “lên hoài không xuống”, hay đủ mạnh để: vẫn tự hào về chiến thắng, và cũng dám nhìn vào những vết thương mà chiến tranh để lại, kể cả khi chúng được viết trong một cuốn tiểu thuyết tên là Nỗi buồn chiến tranh.

Khi nói về một cuốn sách, hãy nói trong tư thế của người đã chịu khó đọc và chịu khó nghĩ, chứ không chỉ lặp lại cảm xúc của người khác hộ mình.

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.