Quán cháo lú

Ái Điểu

Quán Bà Mạnh nằm cuối con đường cát sỏi, vàng màu lá mục. Gần đó là cây cầu nhỏ mong manh dài vô tận, ẩn hiện trong những tảng mây xám đen. Cầu bắc qua dòng cuồng lưu miên viễn.

Gà gáy canh hai, đã có nhiều khách vội vã ra khỏi quán.

Ngọn đèn dầu leo lét, lúc như muốn tắt, lúc sáng lên, chập chờn khắc khoải.

Khách không thích ánh sáng, họ chọn chỗ tối, thầm lặng ngồi như những cái bóng trong đêm đen.

***

Giữa quán là một chảo cháo trắng lớn và một nồi trà lá xanh, lửa cháy âm ỉ giữ nóng suốt ngày đêm.

Ba người đàn ông và một người đàn bà lặng lẽ vào quán. Họ đến chỗ cái chõng tre cạnh nồi cháo. Còn vài ông khách ngồi ở đó.

Người râu tóc dài, bạc trắng nói: Cả nhà mình nghĩ chân một lúc.

Một người cầm ống thuốc lào lên mời: Vâng, bố xơi điếu thuốc, uống bát nước chè xanh.

Một ông trung niên ngồi phía trong bắt chuyện: Cụ dễ gì cũng trên tám mươi rồi, sao lại có cụ bà và hai người con cùng xuống chốn này một lúc, bị tai nạn gì vậy?

Ông lão râu tóc bạc, chậm rãi kể: Không cùng một lúc đâu ông. Tôi rời bỏ ruộng vườn ra miền ngoài năm Giáp Ngọ, năm hiệp định. Bỏ lại quê nhà người vợ trẻ, là bà này, và thằng con.

Hơn hai mươi năm, sau mùa Xuân năm đó tôi trở về cùng thằng con thứ hai.

Không còn chiến tranh, thoát chết, gia đình sum họp; giấc mơ bình an trở thành sự thật.

Nào ngờ chỉ vài năm sau thằng con lớn chết trong trại cải tạo, tiếp đến thằng nhỏ hy sinh ở biên giới phía Bắc.

Mẹ chúng buồn phiền sanh bệnh cũng đi theo chúng. Tôi nương theo mệnh trời lây lất sống, mới xuống nơi này gần hai tuần trăng thôi ông ạ.

Người khách trung niên ngạc nhiên: Cụ bà và hai em ở đây cũng gần năm mươi năm rồi, sao không trở lại dương gian?

Ông lão râu tóc bạc trầm ngâm: Tôi cũng nghĩ như ông. Khổ nổi, gia đình tôi ăn thứ cháo này quá nhiều rồi mà vẫn không qua cầu được. Chúng tôi không quên được quá khứ nên không thể chuyển kiếp.

Một người khách khác góp ý: Việc ấy lâu rồi, nên lãng quên để có đời sống khác bác ạ; rất nhiều người không cần ăn cháo cũng đã quên mà.

Ông lão râu tóc bạc điềm đạm: Dà, tôi có nghĩ như ông; có khuyên thằng út, dù gì nó cũng có công với những người có chức quyền thời nay. Cháu đã nhiều lần ăn cháo, qua cầu rồi mà quay về lại.

Khi sự thật chưa được giải bày, bên kia cầu lũ người bất lương, ma mị ngày càng lộng hành thì những người có nhân cách, lương thiện khó bình yên, hạnh phúc khi trở về sống ở dương gian ông à!

Nghe ông lão nói, người khách suy nghĩ giây lát rồi húp sạch chén cháo, đứng lên nói: Thôi, tôi đi, dù sao cũng không thể ở mãi chốn này làm oan hồn vô vọng.

Sống, rất cần sự lãng quên. Nếu không lãng quên khổ đau, uẩn ức chồng chất làm sao mà sống?

Lãng quên như tắm gội, tẩy sạch nỗi đau để thấy niềm vui.

Vài người khác cũng ăn cháo rồi chào ông lão, theo người khách nọ đi qua cầu.

***

Có mấy người phụ nữ vào quán, họ đến ngồi vào chỗ nhóm người vừa đi.

Ông lão râu tóc bạc bắt chuyện: Các cô xuống đây lâu chưa, bị tai nạn gì vậy?

Người chít khăn mỏ quạ nói: Dạ vâng, con ở đây từ năm Giáp Ngọ, năm cải cách đó ông.

Ông lão râu tóc bạc bấm đốt tay, nhẩm tính xong sửng sờ cảm thán: Trời! Lâu quá, cũng bằng một kiếp người rồi. Sao cô chưa qua cầu?

Người đàn bà chít khăn mỏ quạ trả lời: Tôi bị chính con tôi lôi ra sân đình luận tội.

Sách vở nào đã dạy cho con tôi làm điều bất hiếu, bất nhân, đày đoạ, hại chết mòn mẹ của mình? Khó quên quá ông ạ!

Người phụ nữ đội nón lá tiếp lời: Uất ức lắm, tôi ở Mỹ Lai, cả làng tôi có tội gì mà bị người ngoại bang đốt, giết sạch.

Vì sao người ngoại quốc lại giết tôi trên quê hương của tôi?

Còn cháu này, bà đưa tay vịn vai người thiếu nữ trẻ mặc áo bà ba: Cháu xuống đây năm hai ngàn mười chín. Chết lạnh trong thùng xe khi tìm đường mưu sinh ở nước Anh.

Ông lão râu tóc bạc ngạc nhiên: Đến lúc đó đời sống đã khá lên mà, ăn đã no, mặc cũng đẹp; sao cháu lại chấp nhận hiểm nguy khi tìm đường sống ở nước khác?

Người thiếu nữ trẻ mặc áo bà ba, da mặt và môi còn lưu giữ màu tái xám của người chết vì lạnh nói: Dạ, con còn nhỏ, ít học, suy nghĩ có phần chưa trọn; nhưng quyết ý ly hương dù cũng biết rất gian khổ, nguy hiểm.

Những người giàu, quyền chức cũng tìm mọi cách để đưa gia đình họ đi ra nước ngoài sống kia mà.

Người lính hy sinh ở biên giới phía Bắc buột miệng: Thời chiến tranh, đói khổ mà ít ai muốn rời bỏ quê nhà. Nhiều người học cao, có danh phận, thành đạt ở nước ngoài vẫn trở về sống ở nước mình.

Vì sao thời nay người tài đức vẫn muốn ra đi?

Niềm tin và hy vọng làm cho con người sống tốt hơn. Đã lâu rồi con người không còn tin tưởng đồng loại, ngày qua ngày sống trong lo âu, sợ hãi. Tin sao được khi những người ưu tú, những trụ cột của đất nước lại coi rẻ lương dân, phá tàn mạt đất nước.

Nhiều người ngồi trong bóng tối, thầm nhớ lại những sai lầm gây ra nỗi khổ, cái chết phi lý của chính mình.

Họ lặng yên, không nói.

Một người trẻ tuổi nói: Thôi thì cũng đành đầu thai ở một đất nước khác.

Người trung niên nhẹ nhàng góp lời: Tôi đã trải qua một kiếp lưu vong, thấy ở xứ khác cũng vậy thôi. Dân lành như chúng ta chỉ là một loài gia súc, có tên là người. Bò ở quê ta hay bò ở ngoại quốc đều bị xẻ thịt, vắt sữa; chỉ khác ở cách nuôi.

Vài người khách tự múc cho mình lưng chén cháo, thổi nguội, húp từng ngụm nhỏ.

Một người hỏi – như hỏi chính mình: Có nên trở lại kiếp sống cũ không?

Không ai trả lời. Người hỏi cũng không tự giải đáp câu hỏi của đời mình.

Ông thầm nghĩ, không nói ra: hàng trăm năm qua, cứ lý thuyết sau sửa chữa sai lầm của lý thuyết trước; rồi cũng có những sai lầm khác. Mà đời người đâu có dài, sao cứ phải chịu đựng những cuộc thí nghiệm phi nhân tính của lý thuyết.

Một người khác nhồi thuốc vào điếu cày, rít một hơi, lơ mơ nói: Hay là mình uống vài chén rượu, để dễ quên.

Người kia nói: Chúng mình đã uống cạn rượu đời. Đã say, đã tỉnh, đã sống và đã chết mà có quên được đâu.

Có thời gian tôi lầm tưởng là đã ẩn lánh được những phiền não. Nhưng cái ác như vi trùng, không ở ngoài cánh cửa nhà mình, nó len lỏi, lách qua khe hở của pháp trị. Mình miễn nhiễm được thì vợ, con, cháu cũng dễ dàng tiếp nhận.

Không ai nói gì. Tất cả lặng câm.

Những ý nghĩ thật chôn sâu trong lòng của những oan hồn.

Lặng im một lúc, ông lão tóc bạc chậm rãi nói: Tôi nghĩ mọi oan ức sẽ được lãng quên theo thời gian, nếu như đời sống thật sự an lành, không còn âu lo, sợ hãi.

Người đàn bà chít khăn mỏ quạ nói với người đội nón lá và người mặc áo bà ba: Các cô uống bát chè xanh rồi nhanh ra đồng gặt đám lúa ma, trời sắp sáng rồi.

***

Trời chưa sáng, quán đã vắng khách.

Người ở chốn này tan biến khi có ánh mặt trời. Sau khi từ trần, họ không đủ tài đức để lên tiên cảnh, cũng không có tội nặng để xuống địa ngục.

Không quên được kiếp trước nên họ không thể đầu thai trở về cõi nhân gian, họ là những oan hồn, không là quỷ ma cũng không là người.

Bà Mạnh ngồi một mình trong quán vắng.

Đã lâu, lâu lắm rồi, bà vẫn ở đây, cảm nhận những thống khổ, oan nghiệt mà kiếp người phải cam chịu.

Bà có ý nghĩ là món cháo lú mà bà vẫn nấu từ lâu đã không làm cho con người thấy niềm vui khi trở lại kiếp làm người.

Con người có nhất thiết phải quên tất cả quá khứ không?

Món cháo lú này giúp con người vứt bỏ, không nhớ gì kiếp đời đã cũ để tạo lập một cuộc sống mới tốt đẹp.

Nhưng cũng làm cho con người mê muội, đần độn, mù quán, phủ nhận những đạo lý của tiền nhân, không còn tỉnh táo, trí tuệ để sống minh bạch, phân biệt thiện ác.

Bà Mạnh rùng mình, chính bà là kẻ trông coi nồi cháo lú. Bà đã tiếp tay với sự sai lầm khủng khiếp này.

Giữa bầu trời u tối, trong quạnh quẽ, lẻ loi bà Mạnh gõ đũa bếp vào nồi cháo lú, ngửa mặt lên trời cất tiếng hát. Bài hát có từ lúc bà mới đến giữ quán.

 

Cháo lú. Hề! cháo lú nóng đây

oan hồn, uổng tử ghé dùng ngay

ăn không tốn tiền, bao no bụng

phải quên, phải lú mới đầu thai.

 

Cháo lú. Hề! Cháo mất trí đây

quên, lãng quên tiền kiếp đoạ đày

qua cầu, tái sinh trong tiếng khóc

đường trần khổ nạn vẫn đắm say.

 

Cháo lú. Hề! Cháo trì độn đây

khờ khờ, vô cảm sống qua ngày

kiếp này, kiếp sau và mãi mãi

mồ hôi, xương máu hiến dâng ai?

 

Cháo lú. Hề! Cháo mê muội đây

tự hào mà sống không biết sai

công bằng, minh bạch chưa từng thấy

hoang tưởng mơ mòng thiên thai say.

 

Cháo lú. Hề! cháo lú đây

oan hồn, uổng tử ghé ăn ngay.

Tiếng hát khàn đục, không theo quy luật, lời lẽ ngô nghê vang vọng trong cõi u tịch.

***

Trong tảng mây màu xám tối, có một hình thể giống như một cánh bướm, bay chậm xuống cầu, tiến về phía quán.

Hiện rõ dần là một đứa trẻ, y phục màu trắng, đầu quấn khăn tang trắng, ôm trước ngực một nhánh bông lục bình tím.

Đứa trẻ vòng tay, cúi đầu – cách lễ phép của một thời đã không còn. Nó nói: Con chào bà.

Bà Mạnh ngạc nhiên: Con xuống đây lâu chưa mà bà không gặp.

Đứa trẻ chỉ tay lên trời: Dạ, con ở trên kia đó bà. Con ở đó từ năm tám tuổi, lúc đó nơi đây đông người quá, con được lên trên kia.

Con nghe tiếng bà hát nên xuống gặp bà.

Bà Mạnh nhớ lại, trong mấy năm đó có hơn nửa triệu người chết oan xuống đây. Người chìm trong biển, người phơi xác ở những cánh rừng biên giới, trong trại học tập, người quyên sinh…

Bà Mạnh hỏi: Con xuống đây chơi hay ăn cháo rồi qua cầu đầu thai kiếp khác. Con còn nhỏ quá không nên ở đây lâu.

Đứa bé nói: Bà quên rồi sao, thân xác con vẫn giữ nguyên như lúc con chết, nhưng mà con đã hơn năm mươi tuổi rồi đó bà.

Nó nói tiếp: Con được lên trời, không tái sinh làm người. Nhưng mà con thích làm người với thất tình lục dục hơn là làm tiên, làm thần.

Bà Mạnh nói: Kiếp người lạc thú cũng có mà khổ đau lại quá nhiều. Nhưng hầu hết đều sợ chết, đều muốn được sống thật lâu trong kiếp làm người.

Đứa bé nắm tay bà Mạnh, dắt bà đi đến con đò neo đậu dưới chân cầu.

Đó là con đò ngang, đưa khách qua sông. Bà Mạnh – khi còn trẻ – là người lái đò. Từ khi có cây cầu, con đò ngang không được sử dụng. Còn bà Mạnh trở thành người trông coi quán cháo lú.

Đứa bé ôm vai, dìu bà Mạnh lên đò. Nó nói: Bà và cháu ngược dòng cuồng lưu này.

Để đi đâu? Làm gì vậy cháu? Bà Mạnh ngạc nhiên hỏi.

Đứa bé nói: Món cháo lú này lâu quá rồi, không còn đem an lành, hạnh phúc đến cho kiếp làm người.

Bà Mạnh hỏi: Con có ý định gì?

Đứa bé nói: Phải tìm nguyên liệu để nấu món cháo khác. Cháo sáng suốt, trí tuệ, minh bạch.

Con người nên sống với quá khứ, hiện tại và tương lai bằng nhân ái và tri thức.

Bà Mạnh nói: Suy nghĩ của con như tấm áo quá rộng so với sự hiểu biết của bà. Điều con muốn làm còn mênh mông, trắc trở, hoang đường hơn dòng cuồng lưu này.

Đứa bé trả lời mà như nói với chính mình: Chúng ta chỉ là những người nghệ sĩ ghi chép ước mơ của những người khốn khổ. Chúng ta không có khả năng làm cho ước mơ thành sự thật. Những người làm chính sự, những nhà khoa học có lương tri sẽ biến khát vọng thành hiện thực đó bà.

Đứa bé chèo con đò ngang đi ngược dòng nước.

Nó hồn nhiên nói trong tiếng sóng nghìn trùng: Mình đi thôi bà. Giấc mơ, hoài bão chân chính làm con người sống lương thiện. Không còn ước mơ đẹp cho mọi người, mình sẽ thành kẻ bạc nhược, sa đoạ, ích kỷ, bất nhân.

Cứ đi trong niềm tin và hy vọng. Nhiều người cùng tìm sẽ thấy. Phải thay cháo Lú bằng cháo Mẫn nghen bà.

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.