Có phải người nghệ sĩ lúc nào cũng hiểu rõ tác phẩm của chính mình?

Tobi Trần – Giám tuyển Độc lập

Đôi khi mình tự đặt câu hỏi “Phải chăng có những ngộ nhận phổ biến trong giới nghệ thuật ở Việt Nam hiện nay là niềm tin rằng nghệ sĩ luôn hiểu rõ nhất tác phẩm của chính họ?”.

Niềm tin này khiến nhiều người mặc nhiên xem lời nói của họa sĩ như là “chân lý diễn giải” và xem mọi diễn giải khác, đặc biệt là của giám tuyển hay nhà phê bình như những cách nói “phụ”. Nhưng trong thực tế suốt chiều dài lịch sử nghệ thuật có một sự thật rằng rất hiếm có nghệ sĩ nào thật sự hiểu trọn vẹn những gì họ tạo ra.

Sự sáng tạo tự thân nó không phải là một hành vi lý trí mà là một xung động giữa vô thức và tri thức, giữa điều người nghệ sĩ biết và điều họ chưa từng biết rằng mình biết. Khi cọ chạm mặt toan hay khi cơ thể di chuyển trong không gian, nghệ sĩ vận hành bằng ký ức, cảm giác, trực giác và phản xạ hình ảnh, tất cả đều không tuân theo ngôn ngữ khái niệm. Chính vì thế, nhiều nghệ sĩ không thể hoặc không muốn diễn giải, bởi ngôn từ luôn đến sau hành động sáng tạo như một bóng hình cố bắt kịp bản thể đã trôi đi. Đây cũng chính là một điểm tựa ngụy biện (fallacy point) để một số họa sĩ lười biếng và núp bóng trừu tượng dựa vào.

Jackson Pollock từng nói:

“When I am in my painting, I’m not aware of what I’m doing.”

Đây là câu nói của Pollock trong “My Painting”, là bài phỏng vấn của Jackson Pollock với Selden Rodman, đăng trên tạp chí Possibilities, số 1, năm 1947–1948.

Nguyên văn của câu trên:

“When I am in my painting, I’m not aware of what I’m doing.

It is only after a sort of ‘get acquainted’ period that I see what I have been about.”

Pollock đã diễn tả trạng thái nhập định của hành động vẽ, nơi ý thức cá nhân tạm rút lui nhường chỗ cho trực giác và cơ thể.

Đây là một “state of flow” trước khi thuật ngữ này được định nghĩa và là nền tảng của triết học hành động trong nghệ thuật Mỹ hậu chiến: hành động chính là tư duy.

Trong phê bình học thuật, chúng ta có thể hiểu đây là một tuyên ngôn về “vô thức sáng tạo” (creative unconscious).

Mark Rothko thì cảnh báo: “Silence is so accurate.”

Câu này được trích trong cuộc phỏng vấn của Rothko với Selden Rodman, in trong sách Conversations with Artists (1957).

– Rodman hỏi: “Why don’t you ever explain your paintings, Mark?”

– Rothko trả lời: “Silence is so accurate.”

Rothko phản đối mọi diễn giải bằng ngôn từ, vì ông tin rằng ngôn ngữ làm sai lệch cảm xúc nguyên thủy mà tác phẩm gợi ra.

Câu này được xem như một tuyên ngôn về sự bất khả của ngôn từ trong việc diễn đạt cái siêu nghiệm.

Trong phê bình học thuật, đây là điểm giao giữa chủ nghĩa hiện sinh và mỹ học hiện tượng luận khi đúc kết nghệ thuật tồn tại không phải để nói mà để trải nghiệm.

Francis Bacon khi bị hỏi vì sao ông lại vẽ những khuôn mặt méo mó, cũng chỉ đáp ngắn gọn trong bài phỏng vấn vào năm 1966 cùng David Sylvester:

“I distort things deliberately…I want to create an image that disturbs reality.”

Nguyên văn Francis Bacon trả lời David Sylvester, 1966:

“You can’t be more real than distortion, because everything is distortion in a way.

I distort things deliberately because I want to bring the image closer to a fact of life.”

Ông không “thấy đời là méo mó” mà Bacon chủ động méo mó đời sống để vẽ ra sự thật bên trong nó.

Những lời này không phải sự né tránh, đó là một sự thành thật triệt để khi họ biết rằng ngôn từ không thể giam cầm cảm giác. Tác phẩm nghệ thuật, một khi đã được hoàn tất thì có thể xem như một sinh thể tự trị và vượt khỏi quyền kiểm soát của chính người sinh ra nó.

Chính vì thế, vai trò của giám tuyển và nhà phê bình không phải là phụ họa mà là khai mở những khả thể diễn giải mà nghệ sĩ vô thức để lại. Trong nhiều trường hợp, giám tuyển chính là người đầu tiên giúp tác phẩm “nhận ra chính mình” bằng cách đặt nó vào một mạng lưới ngữ cảnh bao gồm lịch sử, xã hội, triết học, chính trị hay thậm chí là tâm lý học hình ảnh.

Nghệ sĩ nhìn thấy tác phẩm từ góc nhìn bên trong rồi bộc bạch ra bên ngoài còn giám tuyển hay phê bình nhìn thấy tác phẩm bắt đầu từ góc nhìn bên ngoài rồi đi vào bên trong, như một cấu trúc ý niệm có thể được đọc, giải cấu trúc và tái cấu trúc. Hai hướng nhìn này không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau và chính sự lệch pha này mới tạo nên chiều sâu phê bình tác phẩm của một triển lãm đương đại.

Nếu nghệ sĩ là người khai sinh thì giám tuyển là người gợi mở cho tác phẩm biết nói, còn nhà phê bình là người đặt câu hỏi về ý nghĩa của tiếng nói đó trong bối cảnh con người hôm nay.

Ở Việt Nam, việc các triển lãm vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào lời nghệ sĩ khiến không gian phê bình trở nên nghèo nàn. Khi người sáng tác mặc nhiên được xem là người diễn giải duy nhất, nghĩa là không còn chỗ cho đối thoại của các góc nhìn khác và nghệ thuật dần trượt vào tự sự cá nhân, thiếu đi tầm khái quát xã hội và triết học mà nó vốn có thể đạt tới.

Nghệ sĩ không cần phải hiểu trọn tác phẩm của mình mà điều họ cần là tạo ra một hệ mở, nơi tác phẩm có thể được đọc, được cắt nghĩa và được thách thức. Khi đó, người giám tuyển hay nhà phê bình sẽ bước vào, không phải để “nói thay” nghệ sĩ mà để đánh thức những ý nghĩa mà ngay cả tác giả cũng chưa kịp nhận ra.

Bởi nghệ thuật rốt cuộc không nằm ở chỗ ai sẽ hiểu đúng, nó nằm ở chỗ ai dám đi sâu hơn vào điều chưa hiểu. Và chính ở đó, vai trò của giám tuyển hay phê bình trở thành một dạng tri thức khai mở, đánh thức những tiềm năng ý nghĩa mà ngay cả tác giả cũng chưa kịp nhận ra.

Đây là ý kiến và quan điểm cá nhân của mình, mời các nghệ sĩ hay họa sĩ vào phản biện hay đưa ra góc nhìn khác. Mình xin cảm ơn rất nhiều.

This entry was posted in Nghệ thuật and tagged . Bookmark the permalink.