Chủ nghĩa dân tộc tai họa – sự sụp đổ của nền văn minh tự do (kỳ 4)

Tác giả: Richard Seymur

Việt dịch: Nguyễn Quang A

 Nhà xuất bản Dân Khí-2025

3.  Tình dục: Chủ nghĩa dân tộc khiêu dâm chống lại Chủ nghĩa Marx (Làm cho Chủ nghĩa đế quốc Gợi dục Trở lại)

Những người đàn ông trải nghiệm ‘chủ nghĩa cộng sản’ như một cuộc tấn công trực tiếp lên cơ quan tình dục của họ.

– Klaus Theweleit, Male Fantasies1

 

Chủ nghĩa Bolshevik như thế tự tiết lộ mình như kẻ thù không đội trời chung của nền văn minh và chủng tộc. Chủ nghĩa Bolshevik là kẻ nổi loạn, kẻ phản bội bên trong các cổng, mà sẽ phản bội thành trì, làm thoái hóa chính cấu trúc thớ của con người chúng ta, và cuối cùng lật nhào một thế giới bị dã man hóa lại, bị bần cùng về chủng tộc thành các sự lai giống đê hèn và vô vọng nhất.

– Lothrop Stoddard, The Rising Tide of Color Against White World-Supremacy2

I.

Bất cứ nơi nào chủ nghĩa dân tộc tai họa nhú lên, nó tạo ra một sự khiêu dâm về tội lỗi tình dục: ‘chủ nghĩa dân tộc khiêu dâm’, như Dibyesh Anand gọi nó. Nó tưởng tượng về những phụ nữ là ‘những ký sinh trùng đồi bại kinh tởm’ (giữa các mẫu vật nhẹ hơn của sự ghét phụ nữ incel), là những người Muslim ăn ở hai lòng quyến rũ con gái Hindu vào tôn giáo của họ (nỗi sợ hãi dân tộc chủ nghĩa Hindu về ‘tình yêu thánh chiến’), và là elite buôn bán tình dục trẻ em ‘khắp các lục địa, qua Vatican, và dưới vỏ bọc của các tổ chức từ thiện và các dịch vụ bảo vệ trẻ em’ (như một cuốn sách QAnon bán chạy nhất diễn đạt). Sự kích thích sợ hãi, như những người hâm mộ sự kinh dị biết và như các nhà tâm lý học đã chứng minh trong nhiều nghiên cứu, đôi khi có thể được trải nghiệm theo cùng cách như sự hưng phấn tình dục. Thậm chí cách mà mối lo cực độ có thể kích sự cương cứng hay làm tăng dòng máu âm đạo thường dẫn đến cái được gọi là ‘nhầm lẫn cảm xúc’.3 Điều này đặt ra câu hỏi về các tai họa gợi tình của chủ nghĩa dân tộc tai họa gây ra loại hưng phấn nào trong những người ủng hộ nó.

Quốc gia, được tái sinh qua tình dục, luôn chiêu mộ tình dục. Trong sự lên của nó trong các thế kỷ thứ mười tám và mười chín, chủ nghĩa dân tộc đã giúp thiết lập cái Christopher Chitty gọi là ‘bá quyền tình dục’. Các chuẩn mực tình dục làm lợi cho giai cấp tư sản Âu châu đầy hứa hẹn được chấp nhận rộng rãi là liên kết với sự nghiệp quốc gia. Đối với các nhà cai trị mới của châu Âu, George Mosse lập luận trong lịch sử về tính dục dân tộc chủ nghĩa của ông, các chuẩn mực này là sự kiềm chế, sự tôn trọng và sự chia tách giới nghiêm ngặt. Đạo đức này đã giúp tương phản đức hạnh tư sản với sự suy đồi quý tộc và sự vô đạo đức của các tầng lớp thấp hơn. Tuy vậy, tính tôn trọng tư sản cũng trở thành một dự án văn minh hóa cho toàn bộ xã hội. Không có nó, cuộc sống hiện đại nuôi dưỡng thảm họa tình dục: sự nhiễm độc gợi tình lật đổ lý trí, sự thủ dâm thúc đẩy hành vi chống-xã hội, đàn ông trở thành đàn bà và đàn bà trở thành đàn ông.4

Chủ nghĩa dân tộc mới phất như thế hành hạ các văn hóa đồng tính mà đã tồn tại vui vẻ hơn trong các xã hội đô thị trung cổ. Sự thủ dâm bị coi là nguy hiểm gần với âm mưu. Các công trình văn học, ngay cả của các nghệ sĩ được sùng kính như Shakespeare, đã bị cắt bỏ những sự nhắc công khai đến tình dục cho sự tiêu dùng an toàn của công chúng. Cơ quan quốc gia lý tưởng được phân biệt gới tính nghiêm ngặt và bị bỏ tính nhục dục. Tất cả các thứ đe dọa và nguy hiểm trong khoái cảm tình dục bị gán cho những người nước ngoài và các kẻ thù dân tộc: ‘bọn dago*’ đồi bại, ‘bọn Đông phương’ gợi cảm, bọn Do thái được cho là ứng xử như đàn bà hoặc không thể kiểm soát được dục vọng của họ đối với đàn bà không Do thái, bọn đồng tính ‘đảo ngược’ vai trò tình dục đúng đắn. Tuy nhiên bá quyền tình dục đã chẳng bao giờ được thiết lập hoàn toàn, và vào đầu thế kỷ thứ hai mươi các chuẩn mực này bắt đầu tan rã. Mosse mô tả cuộc phản-cách mạng tình dục nổi lên từ Chiến tranh thế giới I, kết tinh trong cố gắng phát xít để phục hồi sự tôn trọng tư sản và ‘hình thức nghiêm ngặt’ của nó, được tẩy sạch khỏi những sự mơ hồ đe dọa.5

Chủ nghĩa dân tộc đương thời vênh váo với sự khoe khoang khoác lác nam, phần lớn theo tinh thần của nhà thơ Italia và người theo phát xít Gabrielle D’Annunzio. Trump khoe khoang một cách riêng tư về việc sờ âm hộ và công khai khoe khoang về muốn hẹn hò con gái ông. Duterte công khai nói chuyện về dương vật to đùng của ông. Bolsonaro khiến bọn bợ đỡ của ông trên internet cười khúc khích với tuyên bố rằng ông ‘sẽ không hiếp’ cựu bộ trưởng về các quyền con người, Maria do Rosário, ‘bởi vì cô không đáng việc đó’. (Ông nghĩ ai đáng hiếp?) Những người đa dâm của sự phục hồi dân tộc chủ nghĩa ngày nay được vẽ bởi một sự mê hoặc với sức mạnh vi phạm. Các nhà chiến lược cộng hòa thấy rằng ‘các bà mẹ thích mua hàng tại Walmart’ ngưỡng mộ Trump về tình dục, người mà họ so sánh với một biểu tượng sức mạnh bạo lực, giống một con sư tử. Ngay cả sự độc thân khắc khổ của Modi thu hút những lời khen ngợi một cách tương tự, như cựu Hoa hậu Ấn Độ Mỹ, Pria Warrick, tán dương rằng ông ‘hoang dã – như một con sư tử trong bộ râu đó của ông’. Sự sư tử hóa theo nghĩa đen như vậy dẫn Andrew Anglin tân-Nazi để đề xuất một ‘Chủ nghĩa dân tộc Chad (nam tính hấp dẫn)’ kiên quyết cực-hữu, đương đầu với các cậu con trai tập-gym, ‘gợi tình’, ‘nguy hiểm’.6 Trên bề mặt của nó, điều này trông không giống chính trị tôn trọng tư sản chút nào.

Tuy vậy, bằng chứng là mối quan hệ của chủ nghĩa phát xít với tính tôn trọng đã luôn phức tạp hơn Mosse gợi ý. Dagmar Herzog mô tả làm thế nào, Reich đệ tam (Đức quốc xã) bắt đầu cố ý tạo ra một phiên bản ‘khỏe mạnh’, ‘Aryan’ của thú vui tình dục rất khác với việc đơn giản cố gắng kiểm soát tính dục. Các xuất bản phẩm Nazi xúi dục sự kích động, các câu lạc bộ thanh niên Nazi cổ vũ những người trẻ để giao cấu, các biện pháp tránh thai có sẵn dư dả, những người đàn ông được khuyến khích để có quan hệ ngoại tình ngoài hôn nhân và binh lính được thúc giục để ‘chè chén mây mưa’ (như Hitler diễn đạt) trong các nhà thổ. Tính dục Nazi chính thức, tuy vậy, đã là tình cảm ‘Thời đại Mới’, phôi thai, ám ảnh với chủ nghĩa khỏa thân, tự nhiên và cơ thể khỏe mạnh, ngược với những gì ý thức hệ xem như tính dục ‘Do thái’ lố bịch, hài hước, nhân tạo của thời đại Weimar.7

Trong chương trình hai-bước của chủ nghĩa phát xít, sự tự do hóa và sự kìm nén tình dục đi cùng với nhau. Ý thức hệ về sức khỏe tình dục Đức được luật bảo lãnh chống lại ‘những kẻ cưỡng dâm-chủng tộc,’ Do thái có các mối quan hệ với phụ nữ ‘Aryan,’ các chiến dịch triệt sản bắt buộc, giam giữ, và cuối cùng hủy diệt cơ thể tình dục không mong muốn hay đe dọa của những người Do thái, những người đồng tính và những người khuyết tật. Michel Foucault đã lập luận nổi tiếng rằng chính trị tình dục kiểu Hitler đã là một chủ đề nhỏ, bậc dưới của ‘sự tán dương huyền ảo về huyết thống ưu việt’. Tuy vậy, những người Nazi đã không phân chia chính thể theo cách đó. ‘Sự chè chén mây mưa’ của binh lính Đức thường gồm việc họ vào các thị trấn đêm trước của cuộc chinh phục và vui chơi trước khi mang cuộc chiến tranh chủng tộc đẫm máu tới cùng thị trấn ngày hôm sau. Sự phấn khích tình dục được dùng như một lực quốc gia hóa, một khuyến khích cho kỷ luật. Logic tàn bạo của nó thậm chí được mở rộng vào các trại tập trung nơi, theo lệnh của Himmler và với sự chuẩn y của Hitler, các nhà thổ được tổ chức cho những người lao động nam có năng suất nhất ở trại. ‘Kraft durch Freude’, tên của tổ chức giải trí nhà nước của Reich đệ tam, có nghĩa là ‘Sức mạnh qua niềm Vui’: khoái lạc tình dục như một nguyên tắc của sự thượng đẳng. Điều này khó có thể là chủ nghĩa phát xít ‘đến để thay phiên của các lính canh nhà thờ’, như Maria Macciocchi diễn đạt một lần.8

Điều này đưa chúng ta lại vấn đề về thần học tình dục: về ai là độc ác về mặt tình dục, và ai đáng được khoái cảm. Các nhà dân tộc chủ nghĩa đã luôn bác bỏ để tự bảo vệ mình chống lại các sự tưởng tượng tình dục của họ. Ví dụ, trong năm 2020, bang Uttar Pradesh của Ấn Độ đã thông qua Pháp lệnh Cải Đạo Bất hợp pháp. Mục tiêu của luật đã là cái những người chủ trương của nó cho là một làn sóng của các vụ ‘yêu jihad (thánh chiến)’, trong đó những đàn ông Muslim độc ác về tình dục đã quyến rũ phụ nữ Hindu vào phe kẻ thù, giả vờ yêu để tăng tỷ lệ sinh của người Muslim. Luật này đã thắng qua hàng thập niên khích động của các mạng lưới của các đội viên dân phòng cấp cơ sở liên kết với đảng BJP, như Bajrang Dal và Vishwa Hindu Parishad (VHP), cho rằng những người Muslim đã dùng bùa và trò ma thuật để lừa các cô gái Hindu. Theo các nhà hoạt động, để chấm dứt ‘yêu jihad’ cần phải phá hủy lớp vỏ phục tùng, thế tục, bị Anh hóa bên trên liên kết với đảng Quốc Đại và ‘cánh tả’.9

‘Yêu jihad’ là một tưởng tượng cắm sừng phổ biến của cánh hữu Hindu, mà bị mê hoặc (như trong ‘bùa chú’, như trong ‘chủ nghĩa phát xít’) với ý tưởng rằng khả năng giao cấu nam Muslim đã thống trị Ấn Độ một cách bất hợp pháp trong 1.200 năm. Nó rút trực tiếp từ các thành ngữ thị giác của chủ nghĩa phát xít – những sự miêu tả của Der Stürmer về ‘Germania’ như một phụ nữ tóc vàng, xinh đẹp trong nanh vuốt của một người Do thái không hấp dẫn (thế nhưng vẫn thành công về mặt tình dục), hay những phê bình nhận xét của Hitler về ‘những tên khốn Do thái chân cong’ quyến rũ con gái Đức. Và nó đã là nguyên nhân của những vụ dân phòng giết người và dính líu đến bạo lực cộng đồng, như các vụ náo loạn và các vụ hãm hiếp băng nhóm ở quận Muzaffarnagar của Uttar Pradesh trong 2013 mà dẫn đến 50.000 người bị đuổi ra khỏi quận và vào các trại tị nạn. Vào 2020, sự tưởng tượng đã không chỉ là cơ sở cho sự đàn áp pháp lý, bắt đầu với một thanh niên bị truy tố vì việc kết bạn với một cô gái Hindu tại một buổi tiệc và cố gắng ‘cải đạo’ cô sang Islam, nhưng nó thậm chí được cơ quan luật định, Ủy ban Quốc gia vì Phụ nữ, ủng hộ. Sự hoang tưởng này, ảo ảnh bức hại tính dục Muslim được lặp lại ở nơi khác trong ý tưởng, phổ biến ở các nước Âu châu, rằng các đàn ông Muslim đặc biệt dễ hình thành các băng đảng hiếp dâm hay ‘các băng đảng chú rể’ ấu dâm, và rằng phần này của một cuộc tấn công rộng hơn chống lại quốc gia và người dân của nó. Mô tip về sự ngây thơ bị vi phạm là một khía cạnh nhất quán của sự tưởng tượng cắm sừng dân tộc chủ nghĩa: hãy xem xét các cáo buộc của những người ủng hộ Bolsonaro về ‘các bộ đồ đồng tính’ trong các trường học Brazilian với các chai cho trẻ sơ sinh với các núm hình dương vật, hoặc các cuộc biểu tình ‘Demo für Alle’ của Đức chống lại cải cách giáo dục giới công nhận sự đa dạng LGBT, mà những người biểu tình chế nhạo như các đứa trẻ ‘tẩy não’.10

Theo cách tương tự, QAnon đã kế thừa một truyền thống hoảng lọan đạo đức về lạm dụng tình dục trẻ em. Lâu trước giáo phái ‘Cứu trẻ em’ của ‘QAnon’, hoặc thuyết âm mưu #pizzagate kết tủa nó, ‘đa số đạo đức’ của Hoa Kỳ đã tin vào một câu chuyện về sự lạm dụng trẻ em với nghi lễ ma quỷ (Satanic) mà là sự tưởng tượng tập thể của các bậc cha mẹ, các nhà công tác xã hội, các nhà tâm lý học, các giáo viên, cảnh sát và trẻ em bị ép buộc. Những câu chuyện nó tạo ra dễ dàng là phẫn nộ như bất cứ thứ gì có thể được phát hiện trên các bảng tin nhắn QAnon. Như Richard Beck mô tả các cáo buộc trong We Believe children: A Moral Panic in the 1980s (Chúng ta Tin Trẻ em: Một Hoảng loạn Đạo đức trong các năm 1980), chúng bao gồm các giáo viên quăng trẻ em khỏi thuyền vào một đàn cá mập, các thầy giáo hiếp trẻ em với dao, thìa và dĩa gỗ, và trẻ em được người lớn dẫn đến các nghĩa địa để đào lên và cắt các thi thể, hoặc để giết các con hổ mới sinh. Các câu chuyện thậm chí kích các cuộc điều tra của riêng chúng. Trong việc họ tìm kiếm các hầm ngầm và ‘phòng tình dục bí mật’ được trẻ em mô tả tại trường mẫu giáo McMartin, các phụ huynh đã thuê nhà khảo cổ học E. Gary Stickel để điều tra. Dùng radar, ông cho là đã phát hiện ra bằng chứng về các đường hầm mà lối vào và lối ra của chúng khớp với mô tả đó của trẻ em.11

Sự khác biệt chính giữa ‘sự lạm dụng nghi lễ Satanic’ và thuyết âm mưu QAnon là chức năng chính trị của hành động khiêu dâm trẻ em bị từ chối do mỗi bên tạo ra. Vụ bê bối lạm dụng nghi lễ Satanic huy động những sự lo âu chủng tộc và giai cấp của các vùng ngoại ô da trắng và nỗi sợ của tuổi thơ tầng lớp trung lưu da trắng bị hăm dọa bởi ‘tội lỗi’, ‘những trẻ sơ sinh bị nhiễm ma túy trong dạ con’ và ‘những kẻ siêu-săn mồi’ như những kẻ ấu dâm. Lý thuyết về một ổ ấu dâm ‘nhà nước ngầm’ do ‘những người theo Lucifer và những người tôn thờ Satan’ tổ chức của QAnon liên kết với những mối lo âu về sự tập trung và sự xa lánh tăng lên của quyền lực chính trị: sự không-phù hợp của quốc gia và nhà nước. Tuy vậy, ngay cả bước này đã được văn hóa dòng chính mường tượng trước, ví dụ trong các cuộc điều tra Anh chính thức và bao quát bị dẫn dắt bởi những cáo buộc sai về tình dục ấu dâm elite dính líu đến các chính trị gia hàng đầu và những người nổi tiếng, mà đã nhận được nhiều sự đưa tin báo chí cuồng loạn và gây lầm lạc, gây cảm hứng cho sự chấp nhận rộng rãi từ tả sang hữu trước khi chúng tan vỡ.12

Sự khiêu dâm của cái ác tình dục, với lời mời gọi của nó đến bạo lực phục hồi, phóng đại các xu hướng mà đã là dòng chính rồi. Nếu nó đóng gói tất cả mối lo, sự gây hấn, tính nước đôi và tình dục vào một nhân vật độc ác không thể mô tả được mà có thể bị giết, nó chỉ nói trong một ngôn ngữ mọi người đều quen thuộc. Và nếu nó ngoại hóa cái ác tình dục, nó cũng cung cấp một alibi (bằng chứng ngoại phạm) trong hình thức của một bức tranh an ủi làm vững dạ về xã hội trong đó chúng ta sống. Nhưng nó sẽ không là sự khiêu dâm nếu giả như nó không thuyết phục một cách kỳ lạ, kể cả trong các chi tiết bệnh hoạn. Nó sẽ không hoạt động nếu nó không cho chúng ta cái gì đó được kích động về và được tiếp sinh lực bởi, cho dù trong hình thức của sự phẫn nộ bạo lực.

Vì để có được sự nhẹ nhõm, phải có sự kích thích tình dục, gồm cả sự cám dỗ và sự thất vọng. Chủ nghĩa dân tộc khiêu dâm hứa hẹn để gợi tình đời sống xã hội, không chỉ bằng việc làm sống lại sự đàn áp mà cả bằng giải phóng bạo lực tình dục. Nó mang lại thảm họa và cái chết vào sự hỗn hợp. Và nó hứa hẹn cái không có thể: bằng việc giết những người bất chính về tình dục và việc khủng bố phụ nữ và những người LGBT vào sự rút lui, nó tự cho là có khả năng khôi phục một thời đại của sức mạnh tình dục nam quyến rũ. Bởi vì lời hứa của nó là không thể thực hiện được, nó giữ các đối tượng của nó khao khát, bị treo giữa sự phấn khích và sự khuây khỏa. Nó cũng xúi giục những người tham gia để hy sinh sự tự chủ đạo đức của họ, để tận hưởng ‘sự theo trật tự’. Hai bước của chủ nghĩa dân tộc tai họa, đàn áp và giải phóng, nhắm không phải để cản trở sự khát khao mà để phục hồi nó như sự khát khao chinh phục, một sự khát khao để ‘biết chỗ của người ta’.

II.

Một cách dễ dàng các sự tưởng tượng bị cắm sừng (cuck fantasies) càng bạo dâm nhất, thì ý thức hệ của đàn ông ‘sống độc thân không tự nguyện (involuntarily celibate)’, incel, càng hư vô hơn yêu nước. Thế giới mà họ sinh sống là homo economicus (con người kinh tế) gặp Planet of the Apes (Hành tinh Vượn): một thị trường tình dục trong đó phụ nữ được mô tả công khai như ‘các hàng hóa’, và một hệ thống đẳng cấp tình dục tàn bạo bị thống trị bởi những con khỉ đột lưng bạc với ‘giá trị thị trường tình dục’ cao (một cụm từ xuất hiện đầu tiên trong văn học tán tỉnh lừa tình).

Sự khốn khổ do định mệnh của incel được sinh ra với ‘giá trị thị trường tình dục’ thấp, để không có khả năng giao cấu với phụ nữ mà họ cả ghét và ham muốn. Họ là các nạn nhân của một đẳng cấp cao hơn của ‘các Chad (đàn ông nam tính, hấp dẫn)’, ‘các Stacey (những người thành công)’ và ‘các Tyrone (người giỏi hẹn hò)’, nhưng sâu sắc hơn về sự tiến hóa, mà đã bồi dưỡng phụ nữ cho ‘hôn nhân cùng đẳng cấp’: giao phối với các đàn ông có địa vị xã hội và tình dục cao hơn. Như guru tự-lực Jordan Peterson diễn đạt, ‘phụ nữ giao phối ngang và (hướng) lên các hệ thứ bậc thống trị, những người đàn ông giao phối ngang và (hướng) xuống’. Như một kết quả, chỉ 20 phần trăm của những người đàn ông (thẳng thắn) có 80 phần trăm của tình dục (trực tiếp). Nếu các nhà dân tộc chủ nghĩa tai họa cố gắng làm cho chủ nghĩa đế quốc gợi tình lần nữa bằng việc đưa vào một sự kết hợp mới của sự cấm đoán và sự cho phép, thì các incel biến tình dục một cách hiệu quả thành chủ nghĩa đế quốc.13

Câu chuyện kỳ quặc này, mà dường như kết đôi ý thức hệ tân tự do với những luận điệu rút gọn nhất của tâm lý học tiến hóa, giống kỳ quái với truyện kể tiến hóa không ít suy đoán hơn xuất hiện trong Totem và Taboo của Freud. Việc cố gắng để giải thích các nguồn gốc của tội lỗi trong nền văn minh hiện đại, Freud cho rằng trong quá khứ xa xôi đã có một người cha nguyên thủy có sự tiếp cận vô hạn và vô luật pháp đến tất cả các phụ nữ. Nền văn minh, ông xác nhận dựa vào nhân chủng học suy đoán nào đó, được thành lập khi các con trai liên minh lại và giết ông bố, thiết lập một sự phân chia công bằng các phụ nữ giữa họ. Như thế, một loại luật trị (rule of law) được hình thành, nhưng với cái giá tội lỗi thần kinh. Trong phiên bản incel của câu chuyện, cuộc đấu tranh nữ quyền đã mang lại sự sụp đổ của trật tự này và khôi phục sự thống trị vô chính phủ của các ông bố nguyên thủy. Điều này có thể gợi ý rằng nên có một sự căng thẳng giữa các nhà dân tộc chủ nghĩa Chad và các incel mà các đối thủ có thể khai thác – và quả thực có – nhưng đối với các incel ‘Chad’ là một nhân vật khát vọng, trong khi phụ nữ là các ký sinh trùng độc ác vận hành một ‘sự cai trị của đàn bà nữ quyền’. Đối với các incel và các đồng hữu MRA (Men Right Activist-Nhà hoạt động Nam quyền) của họ, chủ nghĩa nữ quyền chẳng gì khác hơn một ‘chiến lược tình dục’ cho phép các chiến lược giao phối của phụ nữ hôn nhân cùng đẳng cấp.14

Cái lôi cuốn về sự tưởng tượng dystopian (xã hội tàn khốc) này là nó buộc các incel vào sự khốn khổ của họ thế nào. Tất cả chúng ta đều là incel lúc nào đó. Chẳng ai trong chúng ta có được nhiều hơn một sự xấp xỉ của khoái cảm tình dục chúng ta muốn. Nhưng đối với những người bị ý thức hệ incel bắt giữ, nó không chỉ là vấn đề không thỏa mãn được cấy vào các quan hệ tình dục, các bùa mê cô đơn và những cảm giác đôi khi về sự xấu xí và sự không thỏa đáng. Sự rối loạn xúc cảm là toàn bộ. Vì tình dục là một thị trường do cạnh tranh tổng-zero điều khiển, vì phụ nữ là ‘các hàng hóa’, vì sự thỏa mãn của một người đàn ông là sự bị tước đoạt của người đàn ông khác và vì sinh học là số phận, một số tăng lên của những người đàn ông trẻ bị lừa bịp có số phận không được thỏa mãn về tình dục. Tồi hơn thế, bằng việc tự nhiên hóa cạnh tranh tổng-zero, ý thức hệ incel cũng tự nhiên hóa văn hóa tàn bạo đi cùng của những người thắng và kẻ thua, làm cho sự thất bại tình dục là một trải nghiệm gây ác cảm hơn. Cái các đối thủ chính trị xem như một sự bày tỏ về ‘đặc quyền’ và ‘quyền hưởng’ được trải nghiệm như một sự thiếu hụt chí tử trong bản chất của incel.15

Tất nhiên, có quyền hưởng (được phép làm) trên các diễn đàn incel. Nhưng quyền được phép làm đến sau sự đau quặn của sự không thích đáng và sự lộn-ruột về cơn thịnh nộ bất lực, như một cách điều trị ý thức hệ giả mạo. Trong thực tế, ý thức hệ làm mọi thứ để trộn sự đau khổ. Các incel vì thế khẳng định rằng họ được quyền hiếp phụ nữ: phụ nữ ‘đáng [bị] hiếp’ bởi vì họ là ‘cặn bã của trái đất’. Các incel nên ủng hộ ‘sự hợp pháp hóa hãm hiếp’. Trẻ em cũng không nên được tha: sự ủng hộ cho ấu dâm là một đặc điểm thường lệ của các bảng tin incel. Nếu lệnh huấn thị siêu-ngã chính trong xã hội hiện đại là ‘tận hưởng’, trong trường hợp này là làm tình càng thường xuyên càng tốt, với càng ít hạn chế càng tốt, trạng thái incel ủng hộ lệnh huấn thị với một nỗi đam mê. Nhưng ngay cả những sự xoay vòng giải tòa cảm xúc của họ về phụ nữ chỉ làm trầm trọng sự tự ghét mình đến tự tử, vì các incel vẫn cần và khao khát phụ nữ mà họ coi khinh. Trong một mạch (thread) bản tin có tiêu đề ‘Irish hag-whore chokes on dog cum and dies (con điếm Irish bị tắc thở cực khoái với chó và chết)’, một incel suy tưởng: ‘Phụ nữ thà đ. (giao cấu với) chó hơn là tôi.’16

Sự tưởng tượng về sự thích thú tình dục vô hạn cũng là một tưởng tượng về bị vi phạm. Hãy xem xét hiện tượng cộng đồng người hâm mộ Andrew Tate. Tate gọi bản thân mình là một libertarian (người tự do chủ nghĩa). Ông coi khinh cái ông gọi là ‘Matrix’, một regio dissimilitudinus (vùng không giống nhau), một thực tế giả tạo được tạo ra bởi ‘giới quyền thế’ mà thiến đàn ông Tây phương cường tráng. ‘Tôi không phải là một kẻ hiếp dâm,’ một lần ông giải thích, sau khi khẳng định rằng ông chuyển sang Rumania bởi vì sẽ dễ hơn để thoái khỏi tội hiếp dâm. ‘Nhưng tôi thích ý tưởng về chỉ có thể làm những gì tôi muốn. Tôi thích được tự do.’ Với những người hâm mộ nam cực kỳ dễ chịu của ông, điều này không nhiều hơn quyền được hưởng của ông: ‘Ông ta là “Top G” – ông có thể hiếp bất ức ai ông muốn.’ Cứ như để nói, ‘ông có thể hiếp tôi nếu ông muốn’. Sự tưởng tượng Männerbund (Hội đàn ông) ‘tự do chủ nghĩa’ của Tate không cố gắng để ổn định ranh giới chính trị giữa những người mà có thể hay có thể không cưỡng dâm, và những người mà có thể hay có thể không bị cưỡng dâm. Nó là một sự tưởng tượng về quyền tự do tối cao của một trong những người cưỡng dâm, đơn giản bởi vì anh ta muốn nó, bởi vì anh ta có thể, bởi vì anh ta là ‘Top G’. Bất kể cố gắng nào để thực hiện điều này sẽ thậm chí để kẻ muốn hiếp dâm rơi vào tình thế phụ thuộc vào chỉ sự ngẫu nhiên, vì ‘Top G’ của ngày hôm nay có thể dễ dàng trở thành nạn nhân của ngày mai. Nó là sự tưởng tượng tự do anomic (bất thường) của con sói cô đơn, tự do của sự sụp đổ xã hội.17 Có một sự mơ hồ định mệnh giữa việc muốn là ông ta và muốn là nạn nhân của ông ta.

Sự tưởng tượng incel về sự khoái lạc vô hạn sẽ có ít người cải đạo nếu bức tranh của nó về thực tế không cộng hưởng với một số khía cạnh của đời sống thực. Ví dụ, ý tưởng về 20 phần trăm đàn ông ‘có’ 80 phần trăm tình dục là một sự cường điệu nhưng không phải hoàn toàn không có thật. Khảo sát Xã hội Tổng quát gợi ý rằng cho cả đàn ông và đàn bà ở Hoa Kỳ, chắc hơn 20 phần trăm ‘có’ giữa 50 và 60 phần trăm tình dục. Bức tranh về sự không ham muốn tình dục tăng lên cũng nhận được sự ủng hộ nào đó từ cùng nguồn, mà tìm thấy rằng số người, đặc biệt những người trẻ, không có hoạt động tình dục chút nào đã tăng 28 phần trăm cho đàn ông và 8 phần trăm cho phụ nữ, đặc biệt kể từ 2008 – mặc dù dữ liệu bị tranh cãi bởi các nguồn khác như Khảo sát Nghiên cứu Sức khỏe và Dinh dưỡng Quốc gia và Khảo sát Quốc gia về sự Tăng trưởng Gia đình.18

Tuy vậy, cái thiếu trong câu chuyện này là sự sống độc thân giữa những người trưởng thành trẻ ngày càng tự nguyện. Cái đang sụp đổ không phải là sự hài lòng mà là sự ham muốn. Không chỉ hoạt động tình dục giảm, mà cũng thế là sự quan tâm đến tình dục và cùng với nó là toàn bộ sự kinh doanh lãng mạn và hẹn hò. Sự liệt dương tăng lên đáng kể, gợi ý một sự tắc nghẽn chẳng liên quan gì đến sự sẵn có của các đối tác tình dục. Các khó khăn và thất vọng luôn đến với các mối quan hệ tình dục, dường như áp đảo khả năng ham muốn. Cái gì đó về nền văn minh tư bản chủ nghĩa muộn và tính xã hội bị giảm của nó đúng là không rất khêu gợi: mà, đối với Freud, có lẽ có nghĩa là không đáng sống trong đó.19

Thế thì, có lẽ là một sai lầm để tin lời nói của các incel khi họ tự cho sự sống độc thân của họ là hoàn toàn tự nguyện. Một mặt, cái nhìn của họ về sự ganh đua khêu gợi của họ sẽ là một phương tiện cho bản thân họ để kích gợi mình, để khôi phục ham muốn đang yếu đi của họ. Nhưng cũng khó để không thấy, trong việc incel ghét kết hôn và cái nhìn quấy rầy chán chường về tình dục đi cùng nó, một hình thức sợ tình dục. Và hệt như một lời ‘không thể’ thường là một màn khói cho một lời ‘sẽ không’, luận điêu của họ rằng họ bị phụ nữ tước đoạt một cách không công bằng có thể là một cách thuận tiện để thể hiện ra bên ngoài sự từ chối của chính họ. Điều này, nếu đúng, sẽ mô tả một xung đột không thể chịu đựng nổi, thuộc loại mà có thể chỉ đường xoắn ốc, và ở cuối của nó là con đường được chọn bởi George Sodini, Elliot Rodger, Nikolas Cruz, Alek Minassian, Scott Beierle, Jake Davidson và Armando Hernandez Jr., giữa nhiều người khác.

III.

Theo chủ nghĩa dân tộc tai họa, tình dục là một vấn đề địa chính trị, và nguyên nhân của sự sa sút của phương Tây. Phần nhiều như Pat Robertson đã đổ lỗi sự phá thai, những người theo thuyết nữ quyền và những người đồng tính cho các cuộc tấn công Trung tâm Thương mại Thế giới, cũng thế các tuyên bố cực hữu ngày nay rằng sự thất bại của Hoa Kỳ ở Afghanistan là một sự trừng phạt đích đáng vì đã ủng hộ ‘globohomo’: ‘Chương trình nghị sự Đồng tính Toàn cầu’.20

Khi binh lính Mỹ rút lui khỏi Afghanistan trong tháng Tám 2021, người dẫn chương trình Fox News Tucker Carlson đã tự mình giải thích vì sao taliban đã thắng. ‘Nhân dân Afghanistan’, ông suy đoán với khán giả, ‘thực sự không mốn các hội thảo nghiên cứu giới tính … Họ không ghét sự nam tính của họ. Họ không nghĩ nó là độc hại. Họ thích chế độ gia trưởng.’ Cái ông gọi ‘chương trình tân tự do’ về các quyền bình đẳng là ‘lố bịch’, ‘ngược với bản chất con người’ và trả lời ‘chẳng là một trong những khát vọng sâu sắc nhất của chúng ta’. Ông nói thêm, hầu như đăm chiêu: ‘Vì thế bây giờ họ lấy lại tất cả.’21

Trên diễn đàn cực hữu Gab, những người dùng đồng ý rằng Hoa Kỳ đã thua cuộc chiến tranh của nó ở Trung Á bởi vì nó không còn là cùng nước, mà đã xâm chiếm trong 2001, nữa – một ‘quốc gia Kitô giáo’ cấm hôn nhân đồng tính, coi những người chuyển giới là ‘mắc bệnh tâm thần’ và cấm những người đồng tính trong quân đội. Các meme của những người ủng hộ Taliban khắp thế giới mô tả Islam như một người bảo vệ gia đình gia trưởng chống lại các quyền đồng tính, thuyết nữ quyền và các ý thức hệ ‘woke (thức tỉnh)’ khác. Một post trên telegram do những người ủng hộ nhóm phát xít mới Proud Boys vận hành đã ca ngợi taliban vì việc lấy lại ‘quốc gia của họ từ globohomo’: một âm mưu cánh tả được cho là để hủy hoại đàn ông da trắng, như sói cô độc giết người Brenton Tarrant diễn đạt trong ‘tuyên ngôn’ 2019 của hắn, ‘làm cho tất cả mọi người trở thành một kẻ chuyển giới thụ động-hung hăng cắm sừng, yếu, lai giống, thoái hóa, tôn thờ [người Do thái]’.22

‘Chất keo biểu tượng’ giữ các phần khác nhau của cực hữu mới lại với nhau, học giả nghiên cứu giới Andrea Pető nói, là cuộc đấu tranh chống lại ‘ý thức hệ giới tính’. Đây là cuộc tấn công khác được cho là do Marxist-gây cảm hứng để chống lại các vai trò tình dục truyền thống, truyền cảm hứng cho đối lập từ cánh hữu công giáo ở Ba Lan đến những người phái phúc âm ở Brazil và thống nhất các nhà quân phiệt truyền thống, cánh hữu tôn giáo, những người cực hữu và phát xít mới. ‘Giải cấu trúc nam giới Âu châu’, nhà phát xít mới Thụy điển Daniel Friberg, là cạnh sắc của ‘dự án phá hủy cánh Tả’. Ông chỉ trích ‘giả khoa học nực cười của “những nghiên cứu giới tính”’ như vũ khí cuối cùng trong cuộc tấn công này. Đi theo một logic tương tự, một loạt chính phủ, ở Hungary, Rumania và Brazil, đã cấm một cách hiệu quả các nghiên cứu giới. Guillaume Faye nhà tuyên truyền cánh ‘Hữu Mới’ Pháp đồng ý rằng các xã hội Âu châu đã bị tuyên truyền cánh tả nhử vào ‘sự nhầm lẫn tình dục’ bằng việc loại bỏ những sự cấm đoán được cho là truyền thống về ‘chứng thích đồng tính’, ‘hôn nhân liên sắc tộc và liên-chủng tộc’, và ‘hôn nhân đồng tính hợp pháp’: các hành động tương đương với ‘khổ dâm-sắc tộc (ethno-masochism)’. Ông đổ lỗi điều này cho sự sa sút về gia đình Âu châu và, sự sụt giảm tỷ lệ sinh đi cùng.23

Nơi ‘ý thức hệ giới tính’ không được nhận diện như một cuộc tấn công Marxist chống lại đàn ông, điều đó chỉ bởi vì nó còn tồi tệ hơn chủ nghĩa Marx: ‘thậm chí phá hoại đàn ông’ hơn chủ nghĩa cộng sản, như tổng thống Ba Lan Andrzej Duda diễn đạt, hoặc thậm chí ‘tồi tệ hơn chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa Nazi cùng nhau’ theo giám mục Ba lan Tadeusz Pieronek. Chiến tranh về ‘ý thức hệ giới tính’ đã rất thành công như một công cụ huy động cánh hữu mà thậm chí đã được những người cánh hữu Colombia dùng để chặn một thỏa thuận hòa bình giữa chính phủ và nhóm du kích FARC, bởi vì thỏa thuận nhắc đến các quyền LGBT. Dù vấn đề là gì, nỗi sợ và sự ghê tởm tình dục lệch lạc có thể được dựa vào để nâng sự phản đối lên một điểm sôi.24

Thế đấy có phải là câu chuyện cũ về chủ nghĩa phát xít muốn khôi phục các vai trò tình dục truyền thống và đặt phụ nữ và những người LGBT vào chỗ của họ? Phần nào. ‘Phụ nữ muốn được chinh phục,’ nhà hoạt động cực-hữu Markus Willinger viết. ‘Đàn ông muốn giành được một phụ nữ xứng đáng với sự cố gắng’: một ‘công chúa xinh đẹp’, không phải một ‘nhà hoạt động nữ quyền cau có hay một phụ nữ có hàm to nhô như đàn ông’. Sự tôn sùng ‘vợ truyền thống’, sự tôn vinh nữ tính phục tùng, chất phác, là các ví dụ của lý tưởng này. Tuy vậy, có các vấn đề với bức tranh này. Vợ truyền thống, để gọn lỏn trong những hình ảnh về thành công gia đình sau-chiến tranh, cũng là một biểu hiện của bệnh u sầu da trắng như của khát vọng gia trưởng. Hơn nữa, như nhà khoa học chính trị Robyn Marasco lập luận, chủ nghĩa phát xít đương thời cung cấp cho phụ nữ sự tiếp cận đến chính xác loại ‘những sự thôi thúc vi phạm … hủy diệt và các lực phản-xã hội’, mà nhà phân tâm học Áo thế kỷ thứ hai mươi Wilhelm Reich chỉ rõ, đã là điển hình của chủ nghĩa phát xít. Phụ nữ từ lâu đã là các nhà tổ chức quan trọng trong các phong trào cực-hữu. Nhưng ngược lại thuyết chống nữ quyền bảo thủ truyền thống cung cấp cho phụ nữ sự an toàn của sự kiểm soát gia trưởng, chủ nghĩa phát xít của hôm nay cung cấp cho phụ nữ sự nổi tiếng, uy thế và thậm chí cơ hội để trở thành ‘những người tử vì đạo’, một cụm từ mà cực hữu đã dùng cho sĩ quan Không lực Ashli Babbitt, bị một sĩ quan cảnh sát mặc thường phục bắn khi cô cố gắng tấn công tòa nhà Capitol (Quốc hội) Mỹ trong tháng Giêng 2021.25

Chủ nghĩa phát xít mới cũng cung cấp cho một số người đồng tính nam một bom chìm (depth-charge) tương tự của bạo lực vi phạm. Ví dụ, nhà văn phát xít Jack Donovan ca ngợi một phiên bản của cái nhà bảo thủ cấp tiến đầu thế kỷ thứ hai mươi Hans Blüher gọi là ‘Männerbünde (hội đàn ông)’. Việc từ chối một bản sắc đồng tính nam có gốc rễ trong một nền văn minh quá ‘phức tạp, thế giới chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa’ và mất đoàn kết để duy trì nam tính thực sự, Donovan gia nhập một liên kết bộ lạc, cùng giới ông gọi là ‘androphilia (hấp dẫn tính dục với nam giới)’. ‘Sự từ chối nam tính mãnh liệt’, ông khăng khăng, ‘là giết bản sắc nam.’26

Nỗi ám ảnh siêu hình cốt lõi hướng dẫn sự lên men cánh hữu này ở phương Tây, nhà xã hội học Chetan Bhatt lập luận, là một nỗi sợ ‘sự tuyệt chủng da trắng’ mà sự giải quyết của nó được tìm thấy trong ‘sự làm sạch bạo lực tận thế’. Chính một mình mối bận tâm này mà có thể gông một liên minh hỗn tạp lại với nhau của những người cánh hữu, thế tục và tôn giáo, những người truyền thống và hiện đại, cực hữu và phát xít mới. Sự ám ảnh với nhân khẩu học, mà đã cất cánh như một góc bài-Islam trong ‘chiến tranh chống khủng bố’ và được ủng hộ bởi các nhà tự do hiếu chiến như Sam Harris và Christopher Hitchens, bây giờ đã trở thành lời kêu gọi tập hợp của những kẻ phát xít giết người. Phụ nữ hóa, tỷ lệ sinh thấp và sự nhập cư Muslim đã là chất liệu của một ‘cuộc diệt chủng’ đang diễn ra chống lại đàn ông da trắng được các nhà Marxist văn hóa điều phối, Anders Behring Breivik lập luận. ‘Tuyên ngôn’ của kẻ giết người khăng khăng ‘chính tỷ lệ sinh,’ là kẻ giết giáo hội kitô. ‘Chính là các tỷ lệ sinh. Chính là các tỷ lệ sinh.’27

Bóng ma chủ nghĩa Marx ám ảnh cực hữu đương thời, đặc biệt ngay cả trong sự bận tâm tình dục của nó. Và nếu ‘sự tuyệt chủng da trắng’ bị đe dọa bởi tập tục tình dục như phần của một cuộc tấn công Marxist lên nền văn minh Tây phương, thì cuộc đấu tranh không đơn giản để kiểm soát tính dục. Nó là, nó phải là, để tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản lần nữa.

IV.

Thật kinh ngạc, căn cứ vào sự vắng mặt tương đối của nó như một lực lượng có tổ chức trên thế giới, chủ nghĩa cộng sản vẫn là quỷ Satan lớn của chính trị dân tộc chủ nghĩa, đằng sau mọi phù thủy và quỷ đe dọa nhà nước-quốc gia: ‘con quái vật gồm tất cả các quái vật’, như Joseph de Maistre nói về quần chúng cách mạng.28 Bất cứ nơi nào chủ nghĩa dân tộc tai họa thắng thế, nó lúc nào cũng tìm thấy kẻ thù ‘cộng sản’ để nhiếc móc. Và thẩm quyền của chủ nghĩa cộng sản càng ít, thì sự chống-chủ nghĩa cộng sản càng mãnh liệt.

Theo phong trào Tea Party thì Barack Obama, vị tối cao của các cuộc tấn công drone, là một ‘người xã hội chủ nghĩa’. Theo Trump thì Joe Biden, mà đối với ông chăm sóc sức khỏe được xã hội hóa là quá cấp tiến, là một ‘con Ngựa thành Trojan cho chủ nghĩa xã hội’ dưới sự kiểm soát của ‘các nhà Marxist có con mắt hoang dã’. Black Lives Matter là một âm mưu của ‘những kẻ cực đoan cánh tả’ và ‘Antifa’ ở đó để phá hủy ‘hệ thống chính phủ Hoa Kỳ’. Chính phủ Anh đã khởi động cuộc điều tra riêng của nó về ‘chủ nghĩa cực đoan’ cánh tả trong phong trào Black Lives Matter. Theo Thượng nghị sĩ Cộng hòa Lindsey Graham, ‘đội’ các phụ nữ tiến bộ da màu trong Quốc hội – Alexandra Ocasio-Cortez, Rashida Tlaib, Ayanna Presley và Ilhan Omar – là ‘một lũ cộng sản’. Trong một sự vặn vẹo ngữ pháp gây ấn tượng mạnh, ông nói thêm rằng họ ‘ghét đất nước của chính chúng ta’. Graham đưa ra sự chụp mũ-cộng sản này như một thay thế cho đòi hỏi phân biệt chủng tộc của Trump rằng đội ‘hãy trở về các nước bị đổ vỡ hoàn toàn và tràn ngập tội phạm’ của họ. ‘Nhắm cao hơn,’ ông gợi ý, cứ như thói du côn McCarthyite là chính trực khi chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc công khai là thất sách. Trong thăng Sáu 2023, Trump hứa hẹn rằng, nếu được bàu lại, ông sẽ ‘tiêu diệt bọn cộng sản’ trong một ‘trận cuối cùng’ để cứu nước Mỹ.29

Ở Brazil, một di sản có sức thuyết phục mạnh mẽ của sự chống-chủ nghĩa cộng sản bắt đầu với chế độ độc tài Vargas đã được cổ vũ lại kể từ 2015. Đó là năm trong đó nhà cải cách ôn hòa Dilma Rousseff của Đảng Lao động, được bàu lại cho một nhiệm kỳ thứ hai, đột ngột xoay trục khỏi cương lĩnh bầu cử của bà và bắt đầu một chương trình khắc khổ tài chính không được lòng dân. Việc này đã khiến các đồng minh xa lánh, dẫn đến sự ủng hộ cử tri của bà xuống một con số và kích sự náo loạn quần chúng. Một trào lưu đáng kể trong các cuộc phản kháng, tuy vậy, là cánh hữu tầng lớp trung lưu công khai chỉ trích cả Rousseff và người tiền nhiệm của bà, Luiz Inácio Lula da Silva (Lula), như ‘chỉ là bọn cộng sản đội lốt’. ‘Chúng ta không muốn một Brazil cộng sản,’ họ biện hộ. ‘SOS quân đội.’ ‘Brazil không muốn và sẽ không là một Venezuela mới’. ‘Lục quân, Hải quân và Không quân. Hãy cứu chúng tôi một lần nữa khỏi [sic] chủ nghĩa cộng sản.’ Rousseff, đã yếu một cách định mệnh, bị lật đổ trong một cuộc đảo chính mềm. Lula bị bắt và bị tù vì các cáo buộc tham nhũng mà muộn hơn hóa ra bị thẩm phán Sérgio Moro thao túng và đã dẫn công tố viên Deltan Dallagnol cản ông khỏi việc ứng cử tổng thống. Với Bolsonaro được bàu trong 2018, những người ủng hộ hân hoan của ông hô to, ‘Cái chết cho bọn cộng sản!’ Khi Tòa án Tối cao Brazil phán quyết rằng sự kết án tù Lula đã sai lầm, một ‘lực lượng dân quân’ ủng hộ-Bolsonaro tổ chức một cuộc biểu tình vũ trang và một vụ đánh bom mô phỏng dùng pháo hoa, gọi các thẩm phán là ‘bọn cộng sản’.30

Ở Đông Âu, đặc biệt Hungary và Ba Lan, các chính phủ cực-hữu cho rằng ngay cả sau 1989 chủ nghĩa cộng sản đã vẫn âm thầm nắm quyền. Các thẩm phán, các giáo sư, các nhà báo, các nhà sản xuất media, các luật sư, các giáo viên và những người khác chịu trách nhiệm cho việc tái sinh xã hội trong trạng thái bình thường của nó đã giữ lại các mối liên kết và quan hệ thời-Soviet của họ. Chủ nghĩa Marx của họ đã chỉ biến hình thành một hình thức tinh tế và quỷ quệt hơn, thúc đẩy chủ nghĩa tự do văn hóa, ‘ý thức hệ giới tính’, các quyền LGBT, và ‘Islam hóa’ châu Âu. Thậm chí những điều tầm thường như các quyền của những người đi xe đạp và ăn chay được coi như bằng chứng về quyền lực bền bỉ của chủ nghĩa cộng sản, và sự hợp nhất của nó với bộ máy quan liêu mới của Liên Âu (EU). Chính trên cơ sở này mà Orbán Viktor biện minh một sự đoạn tuyệt hiến pháp trong 2012, bãi bỏ Tòa án Tối cao và việc nhồi đầy Tòa án Hiến pháp và Hội đồng Ngân sách và hội đồng media bằng những người trung thành, để giúp cổ thủ đảng Fidesz trong quyền lực.31

Thậm chí ở Vương quốc Anh một toytown (chỗ tưởng tượng) chống-chủ nghĩa cộng sản được giải phóng chống lại Jeremy Corbyn, nhà xã hội (chủ nghĩa) có chân trong quốc hội và nhà lãnh đạo được bàu-hai lần của Công Đảng trong 2018. Theo một loạt cáo buộc giả mạo, được các bộ trưởng chính phủ Bảo thủ lặp đi lặp lại với bộ mặt tỉnh bơ, Corbyn đã là một gián điệp Khối phương Đông. Ngay cả khi những cáo buộc đó trở nên quá gây lúng túng để duy trì, các đối thủ của Corbyn đã không thể cưỡng được việc gọi ông là một tên cộng sản. Ông lãnh đạo, như cựu lãnh đạo Bảo thủ Iain Duncan Smith phê bình nhận xét, một ‘Công Đảng Marxist và khá bẩn thỉu’. Lời hứa của ông để cung cấp (internet) băng thông rộng miễn phí cho cả nước trong 2019, báo chí nói, là ‘chủ nghĩa cộng sản băng thông rộng’. Khi cánh hữu Anh tìm kiếm các kẻ thù cộng sản để làm cho tình hình của nó lý thú hơn, nó đã ngụ ý tất cả mọi người từ những người nhút nhát nhất cung cấp hàng hóa woke doxa mịn mượt (‘chủ nghĩa Marx văn hóa’) đến Liên Âu, quán quân cứng đầu của các thị trường cạnh tranh (‘EUSSR*’).32

Sự cuồng chống-cộng sản, mà chí ít có ý nghĩa trực giác hơn trong các nước nơi các tàn dư của chủ nghĩa cộng sản lịch sử giữ lại sức hút công chúng nào đó, như Ấn Độ hay Philippines, trong thực tế đã sôi sục nhất trong các xã hội nơi nó hầu như vắng mặt hoàn toàn, như Hoa Kỳ, Brazil hoặc Hungary. Cánh hữu Ấn độ thích tố cáo các đối thủ như ‘những kẻ phản bội’ và ‘chống-công dân’. Trong môt nước nơi có các đảng cộng sản mạnh về mặt khu vực, chính phủ thường định khung sự bức hại các nhà bất đồng như một cuộc chiến chống lại ‘các Naxal đô thị’ (các Naxal là một xu hướng Maoist ở vùng nông thôn). Tuy vậy, cuộc chiến này được kế thừa từ đảng Quốc Đại Ấn độ chi phối trước kia. Tại Philippines, sự bài trừ Đảng cộng sản như một tổ chức ‘khủng bố’ trong 2017, và sự hồi sinh của ‘tagging-đỏ’, phù hợp với một hình mẫu rộng hơn về việc ngược đãi các đối thủ chính trị. Điều ngạc nhiên thật là bốn thành viên nội các của Duterte đã được Đảng cộng sản bổ nhiệm năm trước sự bài trừ, tiếp theo những năm hợp tác với chế độ hung bạo của ông ở Thành phố Davao, như thế họ dựng cái bẫy của riêng họ và đi thẳng vào các chiếc hàm sắp sập xuống của nó.33

Sự chống-chủ nghĩa cộng sản mà không có chủ nghĩa cộng sản là ảo giác, nhưng không hoàn toàn mới. Nếu các làn sóng chống-chủ nghĩa cộng sản trước chí ít đã tương ứng với các cuộc nổi dậy và các phong trào cộng sản thật, chúng hầu như không bao giờ tương tác với chủ nghĩa cộng sản như nó đã thực sự tồn tại. Nghiên cứu của Klaus Theweleit về Freikorps Đức, mà đã tàn sát những người cánh tả sau Chiến tranh thế giới I, đã tìm thấy rằng Freikorps dùng ‘chủ nghĩa cộng sản’ như một ngạn ngữ cho các phụ nữ cách mạng (các chiến binh công lý xã hội ‘cuồng loạn’ của thời họ), mà đã là mối đe dọa thiến và tình trạng vô luật pháp. Giữa những người cánh hữu Pháp chống nghị viện trong các năm 1920 và các năm 1930, chủ nghĩa thế tục, quyền bầu cử phụ nữ và sự hòa giải với Đức tất cả đều tương đương với ‘chủ nghĩa cộng sản’. Đối với Gustavo Barroso, thư ký chống-semitic của phong trào Integralism Brazil, mọi biểu hiện của sự xóa bỏ phân biệt chủng tộc đều tương đương với chủ nghĩa cộng sản – mà bản thân nó là một biểu hiện của tinh thần Do thái. Hơn nữa, các âm mưu cộng sản bịa đặt được tìm thấy ở mọi nơi. Những người Nazi lên nắm quyền nhờ sức mạnh ngăn cản một cuộc đảo chính cộng sản hư cấu. Theo đám đông phát xít cố gắng tấn công quốc hội Pháp vào ngày 6 tháng Hai 1934, chính phủ trung-tả, yếu, chính thống về tài khóa của Édouard Daladier đã đe dọa một cuộc đảo chính xã hội chủ nghĩa. Cuộc đảo chính của tướng Getúlio Vargas thiết lập chế độ độc tài Estado Novo ở Brazil được biện minh bằng một sự giả mạo của Đảng Integralist, ‘Kế hoạch Cohen’, mà được cho là một kế hoạch cộng sản chi tiết cho sự nổi dậy.34

Chủ nghĩa cộng sản đã ở mọi nơi, và mọi nơi nó là một mối đe dọa tình dục. Nhóm Freikorps bị bực bội về ‘các phụ nữ Đỏ’ lang chạ, ‘những con điếm vô sản’ với súng được giấu dưới váy. Sứ thần của giáo hoàng ở Munich trong một chính phủ cách mạng chết yểu, sau-chiến tranh đã viết cho Vatican trong 1919 rằng cuộc cách mạng trong thực tế đã là sự trác táng tình dục dưới sự che chở của lãnh tụ cách mạng người Do thái Max Levien. Bọn phát xít Brazil cho rằng những người cộng sản, trong một cuộc nổi dậy ngắn ở Natal, đã ‘xâm phạm các trinh nữ không có khả năng tự vệ’ bằng việc hủy hoại ‘nỗi sợ Chúa’: ‘Ai có thể kháng cự sự cám dỗ mạnh’ khi ‘lĩnh vực là hoàn toàn tự do cho họ’? Kế hoạch Cohen, thấy trước cuộc nổi dậy cộng sản, khẳng định rằng sự phấn khích của quần chúng trong cuộc nổi loạn sẽ có một ‘ý nghĩa tình dục riêng biệt’. Chủ nghĩa phát xít Argentinia vẽ chân dung chủ nghĩa cộng sản qua hình ảnh của một cơ thể suy đồi về tình dục nhưng vẫn mạnh của ‘người Do thái’. Trong Chiến tranh Lạnh, chủ nghĩa cộng sản được nghĩ là không thể phân biệt được khỏi tính dục phá vỡ. ‘Nếu các cậu muốn chống lại McCarthy,’ Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy nói, ‘các cậu phải hoặc là một tên Cộng sản hoặc một đứa mút cu.’ ‘Bạn hầu như không thể tách những kẻ đồng tính dục khỏi bọn lật đổ,’ Thượng nghị sĩ Kenneth Wherry nói. Trong các cuộc tàn sát chống-cộng sản Indonesia trong 1965, mà đã giết một nửa triệu người và đưa Tướng Suharto lên nắm quyền, bộ máy tuyên truyền của Suharto đã kích thích công chúng bằng những câu chuyện về sự xuyên tạc cộng sản. Ông đã cảnh cáo, Vincent Bevins viết, về ‘sự đảo ngược vai trò giới tính, sự tấn công theo nghĩa đen vào cơ quan sinh dục của những người đàn ông mạnh mẽ bị những người phụ nữ cộng sản quỷ dữ, sa đọa về tình dục’ tiến hành.35

Trong sự tưởng tượng cánh hữu, chủ nghĩa cộng sản đã đặc biệt gây ác cảm bởi vì nó đánh quốc gia nơi nó đau, đúng nơi quốc gia tái sinh, về mặt sinh học, xã hội và đạo đức: trong đời sống tình dục của nó. Sự phá hoại như vậy chỉ có thể biểu hiện một âm mưu chủng tộc, các quỷ nước ngoài, rộng lớn chống lại quốc gia: ‘Chủ nghĩa Bolshevik-Do thái’, ‘chủ nghĩa Marx văn hóa’, ‘Antifa’, ‘bè đảng’. Nó đã, hơn nữa, là quyền lực vô định hình, không có hình dạng rõ rệt, huyền bí, quỷ quái vươn các vòi của nó vào mọi thứ. Nó dùng ‘các mặt trận’, ‘bọn cộng sản-bí mật’ và ‘tổ chức không có hình dạng’ như Đô đốc Sudomo của chế độ độc tài Indonesia tuyên bố trong 1973, tám năm sau khi chế độ đã thắng cuộc chiến tranh của nó với chủ nghĩa cộng sản. Giống phù thủy, sức mạnh của chủ nghĩa cộng sản đã thuần túy tiêu cực. Nó không có năng lực sáng tạo nào, chỉ có khả năng hủy diệt và làm giảm giá trị ‘chính kết cấu thớ của bản thể chúng ta’: một ‘sự vô sản hóa thế giới’ như nhà lý thuyết chủng tộc Lothrop Stoddard diễn đạt. Nó là ngày tận thế, cho nên bất cứ mức độ bạo lực nào đều có thể được biện minh trong việc nghiền nát nó.36

Hình ảnh về chủ nghĩa cộng sản như âm mưu chủng tộc đã có những người ủng hộ vượt xa chủ nghĩa phát xít. Như lịch sử có thẩm quyền của Paul Hanebrink về những chi tiết chống-chủ nghĩa cộng sản, phóng viên chính ở Nga của tờ Times đã đổ tội cho Cách mạng Nga về ‘đám đông sục sôi của những người Do thái nghèo’. Winston Churchill đổ tội chủ nghĩa cộng sản về ‘những người Do thái Quốc tế’ thiếu sự trung thành quốc gia. Trong làn sóng đầu tiên của chống-sự giám sát cộng sản của những người Mỹ, giữa 1917 và 1919, Bộ trưởng Ngoại giao Robert Lansing cho rằng Cách mạng Nga chứng minh thuyết âm mưu chống-semitic khét tiếng, The Protocols of the Elders of Zion, là đúng. Ủy ban Lusk, điều tra chủ nghĩa cấp tiến trong tiểu Bang New York, cho rằng chủ nghĩa xã hội là xa lạ với các chủng tộc Anglo-Saxon và Latin, và đã là của sự chiết xuất Do thái Đức. Đạo luật Nổi loạn 1918 được dùng rõ ràng chống lại ‘những người nước ngoài’, trong khi J. Edgar Hoover đã dùng vị trí của ông trong FBI để rung chuông báo động về chủ nghĩa cộng sản da đen. Các tổ chức bảo vệ bản địa như Minutemen militias và Daughters of the American Revolution đã chiến đấu chống lại chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở tương tự.37

Sự đàn áp phong trào các quyền dân sự trong chiến tranh lạnh đã bắt đầu với House Un-American Activities Committee (HUAC-Ủy ban các Hành động Không-Mĩ của Hạ viện). Nắm sự kiểm soát ủy ban, Dân biểu John Rankin cáo buộc [phong trào] các quyền dân sự về ‘các xúc tu của con bạch tuộc to lớn này, chủ nghĩa cộng sản, mà ở đó để phá hủy mọi thứ’. Phong trào ‘Kháng cự Lớn’ chống lại các quyền dân sự miêu tả Martin Luther King và các đồng minh của ông như những tên cộng sản. Thật nổi tiếng, những người biểu tình chống lại sự xóa bỏ phân biệt chủng tộc ở Little Rock, Arkansas, cho rằng ‘Sự Trộn lẫn Chủng tộc là Chủ nghĩa cộng sản’. Sự kinh sợ mạt thế do những tuyên bố như vậy khuấy động đã biện minh sự điều tra công khai được tiến hành bởi các Ủy ban Chủ quyền Tiểu Bang (các hồ sơ của chúng thường bị đốt hay bị phá hủy theo cách khác), các lệnh cấm các tổ chức các quyền dân sự khắp-các tiểu bang, các phiên xử các nhà hoạt động và sự khủng bố kinh tế và thân thể.38

Sự gần của sự chống-chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc, cách mà theo đó chủng tộc và chủ nghĩa cộng sản hòa vào nhau trong sự tưởng tượng cực-hữu thành một hình ảnh hiểm độc duy nhất, nên cho chúng ta sự ngập ngừng. Khi Tea Party nhiếc móc ‘chủ nghĩa xã hội’ của Obama, chẳng hạn, thật cám dỗ để xem việc nhử mồi-đỏ chỉ như một phong bao trang trí cho chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc thô tục: ‘nhiều hơn mã phân biệt chủng tộc một chút cho nỗi sợ da trắng lâu đời rằng những người da đen sẽ ăn cắp từ họ, và thèm muốn mọi thứ họ có’. Điều này sẽ là một sự giải thích thỏa mãn hơn nếu giả như chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc được che đậy khéo chút nào. Nhưng người ta cũng có thể đảo ngược câu chuyện một cách hợp lý và nói rằng chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc làm cho sự chống-chủ nghĩa cộng sản có thể chấp nhận được hơn. Trong các bài phát biểu sớm của Hitler chửi bới chống lại chủ nghĩa cộng sản, chẳng hạn, ông đã thấy cần thiết để giải thích cho giai cấp lao động Đức vì sao không là lợi ích của họ để nắm sự kiểm soát tất cả tài sản sở hữu bởi các nhà tư bản. Những người lao động, ông cho rằng, đã bị những người Do Thái lừa bịp. Không có khả năng làm bất cứ gì hữu ích với sự giàu có họ đã tước đoạt, Hitler xác nhận, những người lao động sẽ phụ thuộc vào một dân ủy: ‘Mọi thứ mà người bình thường nghĩ là giành được cho bản thân mình, chảy quay lại cho những kẻ quyến rũ ông ta.’ Michael Mann chỉ ra rằng khi các chiến sĩ Nazi gọi tên các kẻ thù chính của họ, thì 63 phần trăm đã nhận diện những người cộng sản và xã hội chủ nghĩa, so với 18 phần trăm Nazi gọi tên những người Do thái. Chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc đã hòa giải sự chống-chủ nghĩa cộng sản với các lợi ích được cho là của những người lao động ‘yêu nước’. Có phải cùng nguyên lý không hoạt động khi các nhà dân tộc chủ nghĩa cánh-hữu ngày nay tự nhận lên tiếng cho ‘giai cấp lao động da trắng’ trong khi phản đối hầu như bất kể chính sách nào làm cho cuộc sống của họ khấm khá hơn?39

Nhà tâm lý học xã hội Joel Kovel đã viết một lần về ‘lỗ-đen chống-chủ nghĩa cộng sản’.40 Trong lỗ đen, mọi thứ được cảm nhận như sự đe dọa hay sự loạn chức năng được nén vào một điểm duy nhất. Tất cả các khủng hoảng, tất cả các đối thủ, chỉ là những xúc tu khác nhau của một kraken (thủy quái) cộng sản. Hình dáng của ‘chủ nghĩa cộng sản’ xảo trá thừa nhận sự khủng hoảng và sự chia rẽ trong khi giới thiệu nó như cái gì đó tấn công quốc gia, về tình dục và chủng tộc, từ bên ngoài. Sức mạnh của sự tưởng tượng chống-cộng sản nằm trong tiềm năng phòng ngừa của nó. Chính bởi vì khủng hoảng là thật, ngay cả ở nơi ‘chủ nghĩa cộng sản’ không phải thật, nên cần xóa sổ nó. Đặc biệt trong những sự lặp đi lặp lại chủng tộc của nó, chống-chủ nghĩa cộng sản là một lý thuyết về sự tiệt trừ phòng ngừa.

Herbert Marcuse phóng to vào đặc điểm này khi ông mô tả chủ nghĩa phát xít như một ‘phản-cách mạng phòng ngừa’. Tại Italy, Đức và Tây Ban Nha, chủ nghĩa phát xít đã nắm quyền hứa hẹn để cản trở một cách mạng cộng sản mà đã không xảy ra. Cái xảy ra đã là một quá trình hỗn loạn của dân chủ hóa, đô thị hóa, đấu tranh giai cấp và sự phá vỡ đạo đức truyền thống và các quan hệ giới. Mối nguy hiểm nằm trong các đám đông ‘nổi loạn và không suy nghĩ’ được trao quyền bởi những biến đổi như vậy, như Tướng Franco diễn đạt trong tuyên bố của ông biện minh cho sự nổi dậy quân sự chống lại Cộng hòa Tây Ban Nha trong tháng Bảy 1936. Như quan chức quan hệ công chúng của các nhà Dân tộc chủ nghĩa Đại úy Gonzalo de Aguilera y Munro giải thích, ‘bệnh dịch và dịch hạch’ một thời đã giúp ‘làm mỏng các đám đông (quần chúng) Tây Ban nha’. Bây giờ quần chúng, ‘không tốt hơn súc vật’, đã tăng lên quá nhanh. ‘Bạn không thể kỳ vọng họ không bị lây virus của chủ nghĩa Bolshevik,’ ông xác nhận. ‘Rốt cuộc, những con chuột và rận mang dịch bệnh.’41

Như lời của Aguilera ngụ ý, hồ sơ đẫm máu của sự chống-chủ nghĩa cộng sản cuồng tín luôn luôn vượt quá nhu cầu chiến lược có thể tưởng tượng nổi. Trong những tình tiết đẫm máu nhất của bạo lực chống-cộng sản, trải từ sự nghiền nát Công xã Paris qua chủ nghĩa phát xít đầu thế kỷ thứ hai mươi, các cuộc chống nổi dậy thuộc địa như cuộc tấn công Anh lên Malaya, các chế độ độc tài đẫm máu trong ‘thế giới tự do’ như cuộc đảo chính quân sự Indonesia 1965, và các cuộc chiến tranh ủy nhiệm của Hoa Kỳ ở Trung Mỹ, rất hiếm khi để tìm thấy những thân thể không bị xẻo, hay những trẻ em không bị giết theo cách nhục nhã nào đó hay chiến tranh đã không sa đọa thành diệt chủng.

Nơi chủ nghĩa dân tộc tai họa thấy màu đỏ, vậy thì, máu chắc có khả năng chảy trên đường phố. Sự lây cảm xúc của chủ nghĩa đế quốc muộn, việc tìm thấy một hình thức bày tỏ và điều trị virus chống-chủ nghĩa cộng sản, đã sinh ra rồi những cuộc đốt phá đầu cơ vào bạo lực cấp cơ sở chống-cộng sản của các dân quân tư nhân, các đội viên dân phòng và sói đơn độc giết người. Nhưng, như nghiên cứu lịch sử của Ellen Schrecker về các mạng lưới ‘chống cộng sản’ cho thấy, dù bạo lực cấp cơ sở như vậy có nham hiểm, nhà nước đã luôn luôn cung cấp sức mạnh có hiệu quả thật.42

Chính những lực lượng cấp cơ sở này và nhà nước kết hợp lại và khớp vào nhau, được ủng hộ bởi một cơ sở xã hội dân sự tương đối rộng, mà chúng trở nên thực sự nguy hiểm. Đó là ý nghĩa của cấu hình bất ngờ xuất hiện ngắn ở Hoa Kỳ trong mùa hè 2020, của lời kêu gọi của Bolsonaro để ‘bắn súng máy’ những người ủng hộ Đảng Lao động trong 2022, và của những sự tính toán được hứa hẹn vẫn chưa đến.

Chú Thích:

  1. 1. Klaus Theweleit, Male Fantasies, Volume 1: Women, Floods, Bodies, History, University of Minnesota Press, Minneapolis, 1987, p. 74.
  2. 2. Lothrop Stoddard, The Rising Tide of Color Against White World-Supremacy, Charles Scribner’s Sons, New York, 1920, p. 96.
  3. 3. Dibyesh Anand, Hindu Nationalism in India and the Politics of Fear, Palgrave Macmillan, New York, 2011, pp. 1, 49–81, 199 and 152–3; Dibyesh Anand, ‘Porno-Nationalism and the Male Subject: An Ethnography of Hindu Nationalist Imagination in India’, in Jane Parpart and Marysia Zalewski, eds, Rethinking the ‘Man’ Question in International Politics, Zed, London, 2008; Lori Colley, ‘The Day I Knew Q Wasn’t a Hoax’, in WWG1WGA, QAnon: An Invitation to the Great Awakening, Relentlessly Creative Books, Dallas, TX, 2019, p. 36; D. Dutton and A. Aron, ‘Some evidence for heightened sexual attraction under conditions of high anxiety’, Journal of Personality and Social Psychology 30: 4 (1974), pp. 510–17; J. Allen, D. Kenrick, D. Linder and M. McCall, ‘Arousal and attraction: A response-facilitation alternative to misattribution and negative-reinforcement models’, Journal of Personality and Social Psychology 57: 2 (1989), pp. 261–70.
  4. 4. Christopher Chitty, Sexual Hegemony: Statecraft, Sodomy, and Capital in the Rise of the World System, Duke University Press, Durham, NC, 2020; George L. Mosse, Nationalism and Sexuality: Middle-Class Morality and Sexual Norms in Modern Europe, The University of Wisconsin Press, Madison, WI, 1985.
  5. 5. Mosse, Nationalism, pp. 3, 11, 17, 20, 153 và 190.
  6. 6. David A. Fahrenthold, ‘Trump recorded having extremely lewd conversation about women in 2005’, Washington Post, 8 October 2016; Adam Withnall, ‘Donald Trump’s unsettling record of comments about his daughter Ivanka’, Independent, 10 October 2016; Rhys Blakely, ‘Porsche or pussycat? Moms have their say’, Times, 26 April 2016; Shruti Dhapola, ‘The insufferable silliness of the Modi-is-hot media hype’, First Post, 20 May 2014; Jonathan Watts, ‘Brazil’s attorney general files criminal complaint over rape taunt in Congress’, Guardian, 16 December 2014; ‘DICK MOVE: Duterte brags about penis in public speech’, Coconuts Manila, 8 April 2019; Allie Conti, ‘Neo-Nazi to Troll Army: “We Have to Be Sexy” at the Big Alt-Right Rally’, Vice, 9 August 2017.
  7. 7. Dagmar Herzog, Sex after Fascism: Memory and Morality in Twentieth-Century Germany, Princeton University Press, Princeton and Oxford, 2005, pp. 10–63.
  8. 8. Dagmar Herzog, Sexuality in Europe: A Twentieth Century History, Cambridge University Press, Cambridge and New York, 2011, pp. 67–75; Michel Foucault, The History of Sexuality Volume I: The Will to Knowledge, Penguin Books, London, 1976, p. 150; Robert Sommer, ‘Camp Brothels: Forced Sex Labour in Nazi Concentration Camps’, in Dagmar Herzog, ed., Brutality and Desire: War and Sexuality in Europe’s Twentieth Century, Palgrave Macmillan, New York, 2005.
  9. 9. Billy Perigo, ‘India’s Biggest State Passes Law Based on Anti-Muslim Conspiracy Theory’, Time, 25 November 2020; Ismat Ara, ‘Uttar Pradesh’s “Love Jihad” Law Is a Moment of Glory for Hindutva Foot Soldiers’, Wire, 4 January 2021.
  10. 10. Herzog, Sex after Fascism, p. 19; Hitler được trích trong Otis C. Mitchell, Hitler’s Stormtroopers and the Attack on the German Republic, 1919-1933, Macfarland and Company, Inc., Jefferson, NC and London, 2008, p. 81; Ajoy Ashirwad Mahaprashasta, ‘The History of “Love Jihad”: How Sangh Parivar Spread a Dangerous, Imaginary Idea’, Wire, 20 November 2020; ‘Six years later refugees of Muzaffarnagar riots have no access to electricity, water; say will vote for peace’, TimesNowNews, 7 April 2019; Shylaja Varma, ‘“Suspicious Activity In Account”: Women’s Panel Chief in “Love Jihad” Row’, NDTV, 21 October 2020; Ella Cockbain and Waqas Tufail, ‘A new Home Office report admits grooming gangs are not a “Muslim problem”’, Guardian, 19 December 2020; Max Fisher and Amanda Taub, ‘How YouTube Radicalized Brazil’, New York Times, 11 August 2019; Elizabeth Schumacher, ‘Sex education sparks protests’, Deutsche Welle, 16 November 2016.
  11. 11. Richard Beck, We Believe the Children: A Moral Panic in the 1980s, PublicAffairs, New York, 2015; E. Gary Stickel, ‘Archaeological Investigations of the McMartin Preschool Site, Manhattan Beach, California’, The McMartin Tunnel Project, 1993, p. 104; Ali Breland, ‘Why Are Right-Wing Conspiracies So Obsessed with Pedophilia?’, Mother Jones, July/August 2019.
  12. 12. Lori Colley, ‘The Day I Knew’, p. 36; Paul Renfro, Stranger Danger: Family Values, Childhood and the American Carceral State, Oxford University Press, Oxford and New York, 2020; R. T. Waterhouse, ‘Satanic abuse, false memories, weird beliefs and moral panics’, unpublished Doctoral thesis, City University London, 2014; Rose Waterhouse, ‘Satanic abuse dismissed as “myth” by government inquiry: Report blames Evangelical Christians and “specialists” for the scare which led to investigations. Rosie Waterhouse reports’, Independent, 3 June 1994.
  13. 13. Tuyên bố rằng 80 phần trăm phụ nữ hẹn hò chỉ với 20 phần trăm đàn ông, và như thế là ‘siêu chọn lọc’, dường như dựa vào một số ít nguồn đáng ngờ. Nguồn thứ nhất là một ‘nghiên cứu’ của một tài khoản Medium mà đã thăm dò 27 nữ người dùng Tinder. Worst-Online-Dater, ‘Tinder Experiments II: Guys, unless you are really hot you are probably better off not wasting your time on Tinder — a quantitative socio-economic study’, com, 25 March 2015. Nghiên cứu thứ hai về các phụ nữ trên Tinder cũng đã có một kích thước mẫu chỉ 27. Olga Roshchupkina, Olga Kim and Eun-Ju Lee, ‘Rules Of Attraction: Females Perception of Male Self-Representation in a Dating App,’ Asia Marketing Journal 24: 4, article 5 (2023); Cho bối cảnh của ý tưởng về ‘giá trị thị trường tình dục’ và ‘mặt hàng’ nữ xem Sarah Martin, ‘Sexual Market Value: Economic metaphor in “pickup artist” handbooks’, luận văn không công bố, Graduate School for Social Research, 2018, pp. 31–2, 37–40; và Joshua A. Segalewitz, ‘“You Don’t Understand … It’s Not About Virginity”: Sexual Markets, Identity Construction, and Violent Masculinity on an Incel Forum Board’, honors thesis, 2020, p. 279; một ví dụ về huyền thoại ‘não sau tiềm thức-subconscious hindbrain’ có thể được thấy trong Relampago Furioso, ‘Where Do You Stand in the Sexual Hierarchy?’, New Modern Man, 21 April 2016; Jordan Peterson được trích trong Amia Srinivasan, The Right to Sex, Bloomsbury, London, 2022, p. 116; cho một ví dụ về cách tiếp cận rút gọn của tâm lý học tiến hóa đến các triển vọng hẹn hò, xem A. Gouda-Vossos, R. C. Brooks and B. J. W. Dixson, ‘The Interplay Between Economic Status and Attractiveness, and the Importance of Attire in Mate Choice Judgments’, Frontiers in Psychology 10: 462 (2019).
  14. 14. Sigmund Freud, Totem and Taboo: Some Points of Agreement Between the Mental Lives of Savages and Neurotics, Routledge, London and New York, 2004, pp. 164–70. Bản của Routledge dịch nó là ‘cha nguyên thủy-primal father’; Laura Bates, ‘I went undercover in the incel community to try to understand men like Jake Davison’, Telegraph, 14 August 2021; Pierce Alexander Dignam and Deana A. Rohlinger, ‘Misogynistic Men Online: How the Red Pill Helped Elect Trump’, Signs 44: 3 (Spring 2019).
  15. 15. Laura Bates describes a typical incel recruit, ‘Alex’, of whom she says: ‘Alex didn’t feel privileged at all, so it annoyed him when people said he was.’ Laura Bates, Men Who Hate Women: From Incels to Pickup Artists, The Truth About Extreme Misogyny and How it Affects Us All, Simon and Schuster, London and New York, 2020, p. 11
  16. 16. Bates, Men Who Hate Women, pp. 11–13; ‘The Incelosphere: Exposing pathways into incel communities and the harms they pose to women and children’, Center for Countering Digital Hate, 2022; Segalewitz, ‘“You Don’t Understand”’, p. 279.
  17. 17. Shanti Das, ‘Inside the violent, misogynistic world of TikTok’s new star, Andrew Tate’, Guardian, 6 August 2022; ‘When Your Boyfriend Becomes an Andrew Tate Fan’, Vice, 24 February 2023.
  18. 18. Lyman Stone, ‘Male Sexlessness Is Rising But Not for the Reasons Incels Claim’, Institute for Family Studies, 14 May 2018; Harvey Day, ‘Are young men really having less sex’, BBC Three, 10 April 2019; Segalewitz, ‘“You Don’t Understand”’, p. 279.
  19. 19. Jean M. Twenge, iGen: Why Today’s Super-Connected Kids Are Growing Up Less Rebellious, More Tolerant, Less Happy – and Completely Unprepared for Adulthood – and What That Means for the Rest of Us, Atria Books, New York, 2017, pp. 40–4; Emily Willingham, ‘People Have Been Having Less Sex – Whether They’re Teenagers or 40-Somethings’, Scientific American, 3 January 2022; Hannah Fry, ‘A “failure to launch”: Why young people are having less sex’, Los Angeles Times, 3 August 2023; D. Herbenick, M. Rosenberg, L. Golzarri-Arroyo, et al., ‘Changes in Penile-Vaginal Intercourse Frequency and Sexual Repertoire from 2009 to 2018: Findings from the National Survey of Sexual Health and Behavior’, Archives of Sexual Behavior 51: 1419–33 (2022); K. Wellings, M. J. Palmer, K. Machiyama, E. Slaymaker, ‘Changes in, and factors associated with, frequency of sex in Britain: evidence from three National Surveys of Sexual Attitudes and Lifestyles (Natsal)’, BMJ 365: 1525 (2019); Samuel M. Cripps, Deidre M. Mattiske, and Andrew J. Pask, ‘Erectile Dysfunction in Men on the Rise: Is There a Link with Endocrine Disrupting Chemicals?’, Sex Dev 15: 1–3 (10 September 2021), pp. 187–212; A. Kessler, S. Sollie, B. Challacombe, K. Briggs, and M. Van Hemelrijck, ‘The global prevalence of erectile dysfunction: A review’, BJU Int. 124 (2019), pp. 587–99.
  20. 20. Laurie Goodstein, ‘After the Attacks: Finding Fault; Falwell’s Finger-Pointing Inappropriate, Bush Says’, New York Times, 15 September 2001; Geneve Sands, ‘White supremacist praise of the Taliban takeover concerns US officials’, CNN, 1 September 2021.
  21. 21. ‘Tucker Seems to REALLY Like The Taliban’, The Majority Report with Sam Seder, YouTube, 18 August 2021.
  22. 22. Jacob Silverman, ‘The Far Right Thinks Wokeness Is Why America Lost in Afghanistan’, New Republic, 16 August 2021; ‘“Taliban” accounts mock USA and western culture with Pepe the Frog and other “edgy” memes’, OpIndia, 1 September 2021; Sands, ‘White supremacist’; Tarrant được trích trong Bjork-James, ‘Racializing misogyny: Sexuality and gender in the new online white nationalism’, Feminist Anthropology 1: 176–83 (2020).
  23. 23. Andrea Pető, ‘Gender as a symbolic glue makes European freedom of education at stake’, Progressive Post, 27 October 2018; Marta Marchlewska and Aleksandra Cichocka, ‘How a gender conspiracy theory is spreading across the world’, Conversation, 23 March 2020; Agnieszka Graff and Elzbieta Korolczuk, ‘“Worse than Communism and Nazism Put Together”: War on Gender in Poland’, in Roman Kuhar and David Paternotte, eds, Anti-Gender Campaigns in Europe: Mobilizing Against Equality, Rowman & Littlefield, London and New York, 2017; Fernanda Barasuol, ‘Academic feminists beware: Bolsonaro is out to crush Brazil’s “gender ideology”’, Loop, 25 October 2022; Daniel Friberg, The Real Right Returns: A Handbook for the True Opposition, Arktos, London, 2015, p. 77; Guillaume Faye, Sex and Deviance, Arktos, London, 2014, pp. 9, 28, 39 and 67.
  24. 24. ‘Polish election: Andrzej Duda says LGBT “ideology” worse than communism’, BBC News, 14 June 2020; Eszter Kováts and Maari Põim, ‘Gender as Symbolic Glue: The Position and Role of Conservative and Far Right Parties in the Anti-Gender Mobilizations in Europe’, Foundation for European Progressive Studies and the Friedrich-Ebert-Stiftung, 2015; William Beltrán and Sian Creely, ‘Pentecostals, Gender Ideology and the Peace Plebiscite: Colombia 2016’, Religions 9: 418 (2018).
  25. 25. Markus Willinger, Generation Identity: Declaration of War Against the ‘68ers, Arktos, London, 2013; Miranda Christou, ‘#TradWives: sexism as gateway to white supremacy’, Open Democracy, 17 March 2020; Robyn Marasco, ‘Reconsidering the Sexual Politics of Fascism’, Historical Materialism, 25 June 2021; Kathleen M. Blee, ‘Women in the 1920s’ Ku Klux Klan Movement’, Feminist Studies 17: 1 (Spring 1991), pp. 57–77; Jason Wilson, ‘Lauren Southern is on the comeback trail, and Australian conservatives are all too happy to help’, Guardian, 9 August 2020; Emma Bowman, ‘The Women Behind the “Alt-Right”’, NPR, 20 August 2017; Vera Bergengruen, ‘How Ashli Babbitt Is Being Used As a Far-Right Recruiting Tool’, Time, 10 January 2021.
  26. 26. Jack Donovan, The Way of Men, Dissonant Hum, Milwaukee, OR, 2012, p. 117; Jack Donovan, Androphilia: Rejecting the Gay Identity, Reclaiming Masculinity, Lightning Source, La Vergne, TN, 2012; Jack Donovan, Becoming a Barbarian, Dissonant Hum, Milwaukee, OR, 2016.
  27. 27. Chetan Bhatt, ‘White Extinction: Metaphysical Elements of Contemporary Western Fascism’, Theory, Culture and Society 38: 1 (2021), pp. 27–52; Sam Harris, ‘Sam Harris on the Reality of Islam’, Truthdig, 8 February 2006; Christopher Hitchens, ‘Facing the Islamist Menace’, City Journal, Winter 2007; Scott Poynting, ‘“Islamophobia Kills”. But Where Does It Come From?’, International Journal for Crime, Justice and Social Democracy 9: 2 (2020); F. Wilhelmsen, ‘“The Wife Would Put on a Nice Suit, Hat, and Possibly Gloves”: The Misogynistic Identity Politics of Anders Behring Breivik’, Fascism 10: 1 (2021), pp. 108–33.
  28. 28. Được trích trong Domenico Losurdo, War and Revolution: Rethinking the Twentieth Century, Verso, London and New York, 2015, Kindle loc. 4458.
  29. 29. Rebecca Ballhaus, ‘Trump Calls Biden “Trojan Horse” for Socialism’, Wall Street Journal, 28 August 2020; Matthew Choi, ‘Trump issues executive order warning cities, protesters over destruction of monuments’, Politico, 26 June 2020; Clea Skopeliti, ‘Peer is asked to investigate the activities of extreme right and left’, Guardian, 8 February 2021; William Cummings, ‘Trump should “aim higher”: Lindsey Graham and other Republicans respond to Trump’s “go back” tweets’, USA Today, 15 July 2019; ‘Donald Trump Speaks at Faith and Freedom Coalition Conference’, C-SPAN, 24 June 2023.
  30. 30. Simon Romero, ‘Protesters Across Brazil Call for President Dilma Rousseff’s Ouster’, New York Times, 13 March 2016; ‘One Million Brazilians Show Anger at Corruption’, Sky News, 16 March 2016; ‘The rise of the far right: Brazil’, Trades Union Congress, December 2020; Glenn Greenwald and Victor Pougy, ‘Hidden Plot Exclusive: Brazil’s Top Prosecutors Who Indicted Lula Schemed in Secret Messages to Prevent His Party from Winning 2018 Election’, Intercept, 9 June 2019; Patrícia Campos Mellos, ‘Brazil’s Troll Army Moves into the Streets’, New York Times, 4 August 2020.
  31. 31. Zoltán Pogátsa, ‘The State of Capitalism and the Rise of the Right in the 1930s and Today: Hungary as a Case Study’, and Saygun Gökarıksel, ‘Antifascist Strategy Today: Lineages of Anticommunism and “Militant Democracy” in Eastern Europe’, trong Jeremy Rayner, Susan Falls, George Souvlis and Taylor C. Nelms, eds, Back to the ‘30s? Recurring Crises of Capitalism, Liberalism, and Democracy, Springer Nature, Switzerland AG, 2020; Jakub Majmurek, ‘Polish Deadlock: Between Liberal and Right-Wing Anti-Communism’, Praktyka Teoretyczna 1: 31 (2019), pp. 174–7; Nóra Chronowski, Márton Varju, Petra Bárd and Gábor Sulyok, ‘Hungary: Constitutional (R)evolution or Regression?’, trong Anneli Albi Samo Bardutzky, eds, National Constitutions in European and Global Governance: Democracy, Rights, the Rule of Law, Asser Press and Springer Open, The Hague, NL, 2019.
  32. 32. Robert Tait, Luka Harding, Ewen MacAskill and Ben Quinn, ‘No evidence Corbyn was a communist spy, say intelligence experts’, Guardian, 20 February 2018; Iain Duncan Smith interviewed on BBC News, 3 April 2019; Mark Daniel, Cranks and Gadflies: The Story of UKIP, Timewell Press, London, 2005, p. 88.
  33. 33. Kajal Basu, ‘A Crackdown on Dissent in India: What’s Behind the Recent Arrests of Rights Activists’, Diplomat, 31 August 2018; ‘Philippines: Officials “Red-Tagging” Indigenous Leaders, Activists’, Human Rights Watch, 26 January 2023; Ninotchka Rosca, ‘Duterte: Nada in the Heart of Bluster’, trong Vijay Prashad, ed., Strongmen: Putin, Erdoğan, Duterte, Trump, Modi, OR Books, New York, 2018.
  34. 34. Theweleit, Male Fantasies; João Fábio Bertonha, ‘The corporatist thought in Miguel Reale: Readings of Italian fascism in Brazilian integralismo’, Revista Brasileira de História 33: 66 (2013), pp. 225–42; Leandro Pereira Gonçalves and Odilon Caldeira Neto, ‘Brazilian Integralism and the Corporatist Intellectual Triad’, Portuguese Studies 32: 2 (2016), pp. 225–43; Stanley E. Hilton, ‘Ação Integralista Brasileira: Fascism in Brazil, 1932-1938’, Luso-Brazilian Review 9: 2 (Winter 1972), pp. 3–29; Chris Millington, A History of Fascism in France: From the First World War to the National Front, Bloomsbury Academic, London, 2019, Kindle loc. 789, 935–75; Rodrigo Patto Sá Motta, On Guard Against the Red Menace: Anti-Communism in Brazil, 1917–1964, Sussex Academic Press, Eastbourne, 2022, pp. 201–3.
  35. 35. Theweleit, Male Fantasies, p. 87; Paul Hanebrink, A Specter Haunting Europe: The Myth of Judeo-Bolshevism, Harvard University Press, Cambridge, MA and London, 2018, Kindle loc. 211; Motta, On Guard, pp. 64–5; Federico Finchelstein, ‘The Anti-Freudian Politics of Argentine Fascism: Anti-Semitism, Catholicism, and the Internal Enemy, 1932–1945’, Hispanic American Historical Review 87: 1 (2007), pp. 77–110; Kyle A. Cuordileone, ‘“Politics in an Age of Anxiety”: Cold War Political Culture and the Crisis in American Masculinity, 1949–1960’, Journal of American History 87: 2 (2000), pp. 515–45; Max Lerner, The Unfinished Country: A Book of American Symbols, Simon and Schuster, New York, 1959, pp. 313–16; Vincent Bevins, The Jakarta Method: Washington’s Anticommunist Crusade and The Mass Murder Program That Shaped Our World, PublicAffairs, New York, 2020, p. 210.
  36. 36. Christian Gerlach, ‘Introduction: Anti-Communist Persecutions in the Twentieth Century’, trong Christian Gerlach and Clemens Six, The Palgrave Handbook of Anti-Communist Persecutions, Springer Nature Switzerland AG, 2020, p. 9; Lothrop Stoddard, The Rising Tide of Color Against White World-Supremacy, Charles Scribner’s Sons, New York, 1920, p. 96.
  37. 37. Hanebrink, A Specter, Kindle loc. 242 and 581; Winston Churchill, ‘Zionism versus Bolshevism: A struggle for the Soul of the Jewish People’, Illustrated Sunday Herald, 8 February 1920; Jeff Woods, Black Struggle, Red Scare: Segregation and Anti-Communism in the South, 1948-1968, Louisiana State University Press, Baton Rouge, LO, 1984, p. 86; David S. Foglesong, The American Mission and the ‘Evil Empire’, Cambridge University Press, Cambridge, 2007, p. 58; Joel Kovel, Red Hunting in the Promised Land: Anticommunism and the Making of America, Cassell, London, 1997, pp. 14–22.
  38. 38. George Lewis, The White South and the Red Menace: Segregationists, Anticommunism, and Massive Resistance, 1945–1965, University Press of Florida, Gainesville, 2004; Woods, Black Struggle, pp. 27–8 and 95–6; R. Prechter. 2009. ‘“The Highest Type of Disloyalty”: The Struggle for Americanism in Louisiana During the Age of Communist Ascendancy, 1930s-1960s’, Masters Dissertation, University of New Orleans; Y. Katagiri, The Mississippi State Sovereignty Commission: Civil Rights and States’ Rights, University Press of Mississippi, Jackson, MS, 2001; J. M. Butler, ‘The Mississippi State Sovereignty Commission and Beach Integration, 1959–1963: A Cotton-Patch Gestapo?’, The Journal of Southern History 68: 1 (February 2002), pp. 107–48.
  39. 39. Tim Wise, ‘Red-Baiting and Racism’, Counterpunch, 11 August 2019; Adolf Hitler, Speech in Munich, 12 April 1922, in Norman H. Baynes, The Speeches of Adolf Hitler, April 1922–August 1939 Volume I, Oxford University Press, Oxford, 1942, pp. 9–10; Mann, Fascists, Kindle loc. 2059.
  40. 40. Joel Kovel, Red Hunting in the Promised Land: Anticommunism and the Making of America, Cassell, 1997, pp. 8–13.
  41. 41. Marcuse được trích trong Alberto Toscano, ‘The Long Shadow of Racial Fascism’, Boston Review, 28 October 2020; xem cả Herbert Marcuse and Biddy Martin, ‘The Failure of the New Left?’, New German Critique 18 (Autumn 1979), pp. 3–11; ‘Manifesto by General Francisco Franco, 17 July 1936’, Alun Kenwood, The Spanish Civil War: A Cultural and Historical Reader, Berg Press, Providence, RI, 1993, pp. 56–8; Aguilera được trích trong Adam Hochschild, Spain in Our Hearts: Americans in the Spanish Civil War, 1936–1939, Houghton Mifflin Harcourt, Boston and New York, 2016, p. 72.
  42. 42. Ellen Schrecker, Many Are the Crimes: McCarthyism in America, Little, Brown and Company, Boston, 1998; Ellen Schrecker, The Age of McCarthyism: a brief history with documents, Palgrave Macmillan, New York, 2002; Ellen Schrecker, American Inquisition: The Era of McCarthyism, Recorded Books, LLC, Prince Frederick, ML, 2004.

 

 

* dago là từ rất xúc phạm và khinh bỉ người Ý hay Tây ban nha

* lưu ý cách chơi chữ Liên Âu-EU của tác giả: EUSSR ám chỉ đến USSR-Union of Soviet Socialist Republics: Liên bang các nước Cộng hòa Soviet Xã hội chủ nghĩa-Liên Xô)

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged , . Bookmark the permalink.