Tino Cao

Bìa cuốn The Principles of Art, London: Oxford at the Clarendon Press, 1938
Robin George Collingwood (1889-1943) thường được định vị như một nhà tư tưởng đứng ở giao điểm của nhiều địa hạt nghiên cứu: khảo cổ học, sử học, triết học duy tâm Anh và bề dày văn minh của thế giới cổ đại. Sinh ngày 22 tháng 2 năm 1889 tại vùng Lake District của nước Anh trong một gia đình gắn bó với nghệ thuật và khảo cổ, ông theo học đại học rồi được mời ở lại giảng dạy tại Oxford University, sớm nổi bật như một học giả đa ngành có ảnh hưởng trong các lĩnh vực triết học, sử học và khảo cổ học La Mã. Những năm cuối đời, dù sức khỏe suy giảm, ông vẫn hoàn tất nhiều công trình quan trọng, trong đó The Principles of Art, xuất bản năm 1938, được xem là kết tinh tư duy mĩ học của ông trước khi ông qua đời ngày 9 tháng 1 năm 1943.
The Principles of Art là một cuốn sách có tựa đề ngắn gọn nhưng lại bao hàm một tham vọng lí luận đáng kể. Tác phẩm ra đời đúng lúc châu Âu trải qua những chấn động sâu sắc về chính trị, xã hội và văn hóa, ngay trước khi bước vào cuộc thế chiến đẫm máu lần thứ hai. Các mô hình nghệ thuật cổ điển vốn giữ vai trò định hướng trong nhiều thế kỉ bắt đầu suy yếu trước sự trỗi dậy của thị trường đại chúng. Đồng thời, hình thức luận, phân tâm học, hiện đại chủ nghĩa và những thực nghiệm thị giác nhằm kích thích cảm giác đang phá vỡ tính liên tục của mĩ học truyền thống khiến những phạm trù thẩm mĩ quen thuộc đánh mất chỗ dựa. Mặc dù ảnh hưởng của Kant, Hegel hay Croce vẫn còn hiện diện, chúng dường như không còn đủ sức dẫn dắt diễn ngôn nghệ thuật vượt qua thời kì biến động này.
Trong bối cảnh ấy, Collingwood tìm cách đưa nghệ thuật trở lại vị trí vốn có của nó trong đời sống tinh thần – vị trí mà sự tưởng tượng và khả thể biểu đạt nội tâm hoạt động như một hình thức khai mở ý thức. Ông đặt lại câu hỏi tưởng như quen thuộc nhưng luôn gây bối rối đối với mọi thời đại: nghệ thuật thực sự tồn tại như thế nào trong cấu trúc ý thức con người; và điều gì làm cho kinh nghiệm nghệ thuật khác biệt với những kích thích thẩm mĩ mang tính thị trường hoặc công cụ? Việc truy xét câu hỏi đó trong thời điểm đặc biệt cuối thập niên ba mươi của thế kỉ trước đã biến The Principles of Art không chỉ trở thành một văn bản luận đề triết học về nghệ thuật mà còn là phản biện của Collingwood trước một châu Âu đang mất đi khả năng tự nhận thức thẩm mĩ của chính mình.
Trọng tâm của The Principles of Art là quá trình mà trong đó Collingwood tách nghệ thuật thành một hình thức kinh nghiệm tinh thần có tính cấu trúc chứ không phải là một dạng thức cảm xúc nhất thời. Trong không ít công trình nghiên cứu trước đấy, nghệ thuật bị cắt nghĩa như một sự mô phỏng hoặc phát lộ cảm xúc về một thứ đã định dạng. Collingwood phá vỡ cả hai hướng diễn giải ấy. Ông cho rằng con người không hề sở hữu những cảm xúc hoàn chỉnh trước khi tìm thấy hình thức diễn đạt. Cảm xúc, theo ông, tồn tại ở trạng thái bị che mờ. Khi cảm xúc được biểu đạt, nó không được truyền tải mà được tạo dựng. Nghĩa là nghệ thuật không nhằm tái hiện một thế giới đã biết cũng không nhằm thể hiện một nội dung đã hiện hữu mà là hành động làm cho cái chưa rõ trở thành cái có hình thức để ý thức có thể chiếm lĩnh. Đây là điểm khiến Collingwood tách khỏi truyền thống mimesis và cũng khác với những lí thuyết về cảm xúc luận mang màu sắc tâm lí, vốn xem nghệ thuật như nơi giải thoát những áp lực tinh thần.
Khái niệm tưởng tượng, do đó, không phải là món trang sức của văn nghệ mà là cơ chế căn bản của hoạt động nghệ thuật. Collingwood sử dụng nó để định nghĩa bản chất của tác phẩm. Tác phẩm chân chính là một hình thái tinh thần có thể được tái hiện trong ý thức bất kì ai đủ khả năng bước vào cùng một cấu trúc tưởng tượng. Vì vậy, vật chất chỉ là một chỉ dấu, nơi biểu hiện của một hình thức tư tưởng. Lập luận này đưa ông gần với Croce ở quan điểm xem tác phẩm như một trực giác, nhưng Collingwood đi xa hơn khi buộc trực giác phải trải qua một tiến trình tổ chức nội tâm có tính logic. Chính ở đây, nghệ thuật trở thành một dạng tri thức về con người, không hiểu theo nghĩa nhận thức thế giới vật lí mà theo nghĩa khai minh những chuyển động thâm trầm của ý thức.
Để bảo vệ lập luận ấy, Collingwood phân biệt một cách lạnh lùng giữa nghệ thuật và những hình thức chỉ có dáng vẻ nghệ thuật. Công nghệ, lễ nghi, tuyên truyền hay giải trí đều có thể sử dụng ngôn ngữ của nghệ thuật nhưng không thể được xem là nghệ thuật theo nghĩa nghiêm ngặt. Lí do nằm ở mục đích. Khi cảm xúc phát sinh và nó được tạo ra để mang lại một hiệu ứng bên ngoài, hành động sáng tạo mất đi tính thành thật nội tâm. Nghệ thuật giả ở đây không phải là sản phẩm tồi mà là sản phẩm sinh ra từ động cơ ngoài thẩm mĩ. Chính ở điểm này, Collingwood tỏ rõ quyết tâm bảo vệ nghệ thuật khỏi những lực kéo khiến nó trở thành công cụ của tập thể, thị trường hoặc quyền lực. Quan niệm này nghe có vẻ nghiêm khắc, nhưng nó phản ánh nỗi lo âu sâu xa của nhiều nhà tư tưởng thế kỉ hai mươi, rằng con người có thể đánh mất khả năng tự hình dung chính mình khi hình thức biểu đạt bị công thức hóa.
Dẫu vậy, Collingwood không dừng ở việc xác lập biên giới cứng nhắc cho nghệ thuật. Ông tìm cách giải thích giá trị đặc thù của nghệ thuật đối với đời sống tinh thần. Theo ông, khủng hoảng căn bản của con người là sự đứt đoạn giữa cảm xúc và ý thức. Nghệ sĩ, nhờ hành động biểu đạt, mà hàn gắn được khoảng trống ấy. Người thưởng thức, khi đi cùng một lộ trình tư tưởng đó sẽ không chỉ tiếp nhận một cấu trúc hình tượng mà còn được đối diện với một lớp cảm xúc từng bị giấu kín trong chính họ. Collingwood xem đây là nền tảng của năng lực thấu cảm và của tự hiểu biết. Nghệ thuật, theo nghĩa này, không phải thoát li thế giới, ngược lại, nó giúp con người định vị lại mình trong thế giới bằng ánh huy quang của trí tưởng tượng.
Tuy nhiên, sức mạnh của lí thuyết này đồng thời cũng phơi bày hạn chế của nó. Nhiều nhà mĩ học cho rằng việc đặt trọng tâm vào biểu đạt nội tâm khiến Collingwood khó bao dung các thực hành nghệ thuật không hướng vào cảm xúc. Nghệ thuật khái niệm, nghệ thuật trừu tượng, nghệ thuật tối giản hay các thực nghiệm tạo hình không nhằm biểu đạt cảm xúc mà để thách thức quy ước cảm thụ hoặc kiểm nghiệm những khả thể của hình thức. Trong các trường hợp này, cấu trúc vật chất, không gian hoặc sắc độ có vai trò quyết định, điều mà lí thuyết của Collingwood không chú trọng. Một hữu hạn khác là tính cá nhân. Nếu nghệ thuật mang bản chất nội tâm, làm sao giải thích những hình thức hoặc nghi thức mang tính cộng đồng, nơi tác phẩm không thuộc về cảm xúc của một chủ thể mà là kinh nghiệm sinh tồn của một tập thể, rộng hơn, một cộng đồng, một xã hội. Những phê phán này chưa làm lung lay nền tảng lí thuyết của Collingwood nhưng chỉ ra được thang đo của ông không thể mở rộng đến toàn bộ biên độ của nghệ thuật thế kỉ 20 và 21.
Trong sự bất toàn ấy, The Principles of Art vẫn giữ nguyên sức sống. Collingwood không tìm cách giải thích toàn bộ nghệ thuật. Ông chỉ muốn xác lập một tiêu chí để nhận ra nghệ thuật khi nó xuất hiện trong hình thức tinh khiết nhất. Tiêu chí đó là sự trung thực của ý thức khi đối diện với cảm xúc. Nó gạt bỏ mọi hình thức mô phỏng trống rỗng và mọi hiệu ứng cảm xúc thấp kém. Nó đòi hỏi người sáng tạo lẫn người tiếp nhận phải làm việc với năng lực tưởng tượng của chính mình chứ không phải với những công thức sẵn có. Trong một thế giới mà hình ảnh bị sản xuất vô hạn, cảm xúc bị tiêu chuẩn hóa và nghệ thuật nhiều khi trở thành hàng hóa, tư tưởng của Collingwood là một cảnh báo rằng chiều sâu tinh thần không thể được thay thế bằng bất kì dạng xúc tác kích thích nào.
Nhân đây, tôi muốn nhắc tới tin vui về bản dịch tiếng Việt sắp ra mắt của Outlines of a Philosophy of Art (1925), tác phẩm đặt nền móng cho hệ thống mĩ học của Collingwood và chuẩn bị cho sự hoàn thiện về mặt lí luận của cuốn The Principles of Art mười ba năm sau. Bản dịch này, do Nhà Xuất bản Phụ nữ Việt Nam dự kiến ấn hành với tựa sách Triết học nghệ thuật, nếu được thực hiện với độ chính xác học thuật cần thiết, sẽ góp phần hình thành một không gian lí luận, nơi nghệ thuật không còn bị nhìn nhận một cách dung tục như phương tiện truyền đạt nội dung hoặc minh họa chính trị, mà sẽ được hiểu đúng trong sứ mệnh riêng của chính nó là một phương thức khám phá con người. Trong bối cảnh tư duy và thị hiếu thẩm mĩ ở Việt Nam vẫn còn nhiều biểu hiện lệch chuẩn, từ việc coi nghệ thuật như sản phẩm giải trí thuần túy đến xu hướng tôn vinh những kích thích bề mặt thay cho chiều sâu tư tưởng, sự xuất hiện của phiên bản tiếng Việt cuốn sách này càng mang ý nghĩa đặc biệt.

Tác phẩm của Collingwood, khi được đọc đúng trong hoàn cảnh hiện nay, có khả năng thiết lập những cuộc trao đổi nghiêm cẩn với nhiều truyền thống mĩ học khác nhau, đồng thời cho thấy một hướng tiếp cận quan trọng nhằm nâng cao khả năng tiếp nhận và suy tưởng về nghệ thuật trong đời sống văn hóa đương đại. Từ hình thức luận, nghệ thuật khái niệm, cấu trúc luận đến triết học hiện sinh và phân tâm học, mỗi hướng tiếp cận đều có thể tìm thấy ở Collingwood một điểm tựa để suy xét lại cơ sở tư tưởng của chính nó và đo lường những gì nó không thể bao quát. Nhờ vậy, cuốn sách không chỉ khơi gợi các cuộc tranh luận nghệ thuật như nó đã từng mà còn cung cấp cho người sáng tác một tiêu chuẩn để tự thẩm định công việc của mình, giúp họ phân biệt giữa biểu đạt nội tâm và những hình thức chạy theo cảm xúc dễ dãi của một pseudo-art chỉ mang dáng vẻ nghệ thuật mà không hàm chứa bản chất của nghệ thuật. Với công chúng, hệ thống khái niệm của Collingwood hoạt động như một chìa khóa để đi sâu vào đời sống tinh thần của tác phẩm, thay vì dừng lại ở những kích thích bề mặt. Trong một môi trường nghệ thuật ngày càng bị chi phối bởi tốc độ và sự hời hợt, một khung tư duy nghiêm cẩn như vậy giúp cả người sáng tạo lẫn người thưởng thức thoát khỏi tác động của thị hiếu chợ búa, đồng thời nuôi dưỡng những đối thoại học thuật giữa thuyết biểu đạt và các quan niệm cạnh tranh về hình thức, cấu trúc và chức năng xã hội của sáng tạo.
Điều quan trọng nhất Collingwood để lại không phải một định nghĩa toàn diện mà là lòng tin rằng nghệ thuật là hành động minh triết diễn giải những vùng tối của cảm xúc và rằng hành động ấy có giá trị không gì thay thế được trong đời sống tinh thần. Chính nhờ niềm tin ấy, The Principles of Art luôn vẫn có thể được đọc như một văn bản dẫn đề cho những cuộc tranh luận tiếp theo chứ không phải như một chân lí đã bị đóng khung phong kín.