[Rút từ bộ tư liệu ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI do Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình tổ chức sưu tầm, bản đánh máy do Trung tâm VH-NN Đông Tây thực hiện]
CUỐN TIỂU THUYẾT VỀ MỘT CUỐN TIỂU THUYẾT[1]
NGUYÊN NGỌC
Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh là một cuốn tiểu thuyết về một cuốn tiểu thuyết. Hoặc nói cho chặt chẽ hơn: là một cuốn tiểu thuyết về một người đang viết một cuốn tiểu thuyết. Một người lính từ chiến tranh sống sót trở về; anh trở thành nhà văn và ngồi viết cuốn tiểu thuyết về cuộc chiến tranh ấy của anh.
Như vậy trong cuốn sách có đến hai cuốn tiểu thuyết chồng lấp lên nhau, đan chéo vào nhau.
Thủ pháp nghệ thuật này không hoàn toàn lạ. Ngay từ Bọn làm bạc giả của A. Gide ngày xưa cho đến Dì Hulia và nhà văn quèn của M. V. Llosa, v.v… gần đây đã thấy không ít cách viết tương tự. Đương nhiên nhà văn nhằm một hiệu quả nghệ thuật nào đó: hoặc anh muốn đan chéo vào nhau quá khứ và thực tại, có khi cả tương lai nữa; hoặc anh mở cửa cho các nhân vật trong các nhân vật trong các trang sách của mình lưu thông tự do, bước ra và đi lại trong cái đời thường rất đời thường, rất hôm nay ngổn ngang hỗn độn. (Ở Moskva có lần tôi được xem vở Ba chị em của Chékhov do nhà đạo diễn tài năng Liubimov dựng. Khi vở bắt đầu, tất cả các tường của nhà hát hóa ra vốn là các cánh cửa bỗng được mở toang ra, thông hẳn với quảng trường Taganka náo nhiệt bên ngoài, và bỗng diễn ra một hiệu quả nghệ thuật lạ thường: Liubimov đã đưa tấn bi kịch cổ điển oi bức của Chékhov vào ngay giữa lòng xã hội Xô-viết ồn ào hôm nay)…
Bảo Ninh nhằm hiệu quả nghệ thuật gì trong cách viết của anh ở Nỗi buồn chiến tranh?
Có lẽ ở đây mà nói đến “thủ pháp nghệ thuật” đến “cách viết” – tức là chừng nào đó, những “xảo thuật nghề nghiệp” – e có thể sẽ là phần thô bạo, thô thiển chăng. Ở đây còn có điều gì khác nữa, sâu hơn, căn bản hơn. Đây là chính “chủ đề” của cuốn sách, như người ta thường nói. Hoặc chính xác thấu đáo hơn: đây là nỗi đau (Bảo Ninh gọi là “nỗi buồn”) thống thiết của người cầm bút trào ra, như máu, trên mấy trăm trang giấy.
Trong văn học ta vài ba chục năm trở lại đây đã có hàng ngàn cuốn sách viết về mấy cuộc chiến tranh vừa qua. Hầu hết các tác giả những cuốn sách ấy đề là những người đã tự mình ở ngay trong mấy cuộc chiến tranh ấy mà ra. Đó là một trong những chỗ mạnh độc đáo của văn học về đề tài chiến tranh cách mạng ở ta… Song, nhìn cho kỹ hơn một chút, sẽ thấy điều này: họ, các tác giả ấy, dầu sao cũng tham gia chiến tranh ở những vị trí tương đối gián tiếp. Thời ấy họ đã là nhà văn cầm bút mà đi ra chiến trường, hoặc họ là phóng viên chiến trường của một tờ báo nào đó, cấp trung ương hay địa phương; hoặc họ là cán bộ tuyên huấn, thông tin tuyên truyền…, những nghề ít nhiều gần gũi với văn chương… Họ đi ra chiến trường tham gia chiến trận, để ghi chép, trên tay cầm một quản bút và trong túi sẵn một cuốn sổ tay… Bây giờ họ ngồi viết lại những điều họ từng chứng kiến hay từng trải qua… Đương nhiên mấy cuộc chiến tranh vừa rồi của chúng ta, nhất là cuộc chống Mỹ cực kỳ ác liệt, không đặt bất cứ ai từng ở chiến trường ra ngoài vòng thử thách khắc nghiệt của nó.
Tuy nhiên, chiến tranh cũng lại có cái luật riêng dứt khoát: chiến tranh là do các cấp chỉ đạo, chỉ huy định liệu (có thể đến bạc trắng đầu vì những định liệu ghê gớm này) và sau đó chiến tranh là do người lính làm. Trực tiếp thực hiện, trực tiếp làm chiến tranh là những con người ở cấp thấp nhất của bộ máy chiến trận, là người lính trận, là người binh nhì, người chỉ có độc mỗi một ngôi sao trơ trụi trên cái nền đỏ trống trơn của cấp hiệu.
Trong chiến tranh tôi có nhận xét: người cuối cùng không được lựa chọn gì hết đó là người lính trần. Quyền lựa chọn là của các cấp chỉ đạo, chỉ huy: hôm nay trong trận huyết chiến này, sử dụng đại đội A hay đại đội B? Trung đội 1 hay trung đội 2 sẽ là lực lượng xung kích? Tiểu đội nào lên trước tiểu đội nào lên sau?.. Sự lựa chọn đó là của cấp trên là số phận của người lính. Nó rơi xuống trên đầu người lính trần. Và lúc đó người lính trần chỉ còn mỗi một quyền lựa chọn: hoặc là chiến thắng hoặc là cái chết.
Đó là sự thật của chiến tranh, trần trụi, logic, khắc nghiệt.
Bảo Ninh nói với chúng ta: trong cuộc chiến tranh chống Mỹ có một thế hệ của dân tộc đã được lựa chọn để hy sinh cho nghĩa lớn của đất nước. Hàng triệu người binh nhì đã ra trận những năm tháng ấy và không trở về. Cả một thế hệ, hàng triệu con người mạnh khỏe, trẻ trung, tốt đẹp, ưu tú.
Đó là thế hệ của anh. Anh là người sống sót của thế hệ ấy trở về, một cách ngẫu nhiên, một cách kỳ quặc, không thể hiểu được, đến vô lý, “gần như là một sự phản bội vậy”.
Hãy nghe anh nói:
“Bây giờ thì đã qua cả rồi, tiếng ồn ào của xung đột đã im bặt. Gió lặng cây dừng, và vì chúng ta đã chiến thắng nên đương nhiên là chính nghĩa đã thắng. Tuy nhiên, cứ nghĩ mà xem, cứ nhìn vào sự sống sót của bản thân mình, cứ nhìn kỹ nền hòa bình thản nhiên kia và nhìn cái đất nước đã chiến thắng này mà xem: đau xót chua chát và nhất là buồn xiết bao.
Một người ngã xuống để những người khác sống, điều đó chẳng có gì mới, thật thế. Nhưng khi mà tôi và anh thì còn sống mà tất cả những người ưu tú nhất, tốt đẹp nhất, những người xứng đáng hơn ai hết sống trên cõi đời này đều gục ngã, bị nghiền nát, bị xô đẩy, bị cỗ máy đẫm máu của chiến trận chà đạp, đày đọa, bị bạo lực tăm tối hành hạ, làm nhục rồi giết chết, bị chôn vùi, bị quét sạch, bị tuyệt diệt thì sự bình yên này, cuộc sống này, cảnh trời yên biển lặng này là cả một nghịch lý quái gở, một sự trống rỗng thê thảm, một sự vô lý đến tột cùng, oái oăm và điên đảo gần giống như là một sự phản bội vậy…”.
Nhưng “vô lý đến tột cùng, oái oăm và điên đảo…” vậy, mà anh, anh đã trở về!
Vậy thì anh phải viết. Anh phải trở thành nhà văn và anh phải viết. Cuốn sách đã ra đời như thế đó. Như một thiên chức. Không phải cái thứ thiên chức văn chương gì gì đó, như người ta thường to tiếng. Thiên chức làm người.
Đây là tiếng nói của một thế hệ đã được chọn để hy sinh vì nghĩa lớn của dân tộc. chiến tranh đã bỏ sót và gửi lại trên cõi dương này một người trong số họ, hằng hà sa số họ, để nói với hôm nay tiếng nói của họ.
Bảo Ninh viết: “Ôi, năm tháng của tôi, thời đại của tôi, thế hệ của tôi…”
Cuốn sách này là thế đó. Hãy lắng nghe nó.
Anh đã trở về, và anh phải sống.
Anh sẽ sống thế nào đây? Có một chỗ Bảo Ninh đã dùng mấy chữ nặng trĩu: “Con đường cứu rỗi của anh”. Con đường cứu rỗi của anh là ở đâu?
Anh quằn quại, anh mò tìm. Và anh nói: “… Có vẻ như anh đã tìm ra cuộc đời mới của mình, đấy chính là cuộc đời đã qua, là tuổi trẻ đã mất đi trong nỗi đau buồn chiến tranh. Đối với tôi, tương lai đã nằm lại ở phía sau xa kia rồi… trong những cánh rừng nguyên thủy của chiến tranh”, trong “một sự nghiệp vừa được ghi nhớ vĩnh hằng vừa không bị lãng quên…”
Đối với anh hôm nay, đi tới tức là trở lại. Là nghĩ và ngẫm lại, sống lại, khám phá lại.
Tôi đã nói ở đầu bài viết này: ở đây có hai cuốn tiểu thuyết lồng vào nhau. Nhưng thật đúng ra thì chỉ có một: cuốn tiểu thuyết về một con người trăn trở tìm lẽ sống của mình hôm nay. Tìm ở đâu?
Anh nói: “… và cứ thế, nửa điên rồ, (anh) lao vào chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình… một cách đơn độc, một cách phản hiện thực, cay đắng và tuyệt vọng, đầy rẫy va vấp và lầm lạc…”. “… Có lẽ từ nay, (anh) thầm nghĩ, cuộc đời mình sẽ luôn luôn là thế này đây: tối tăm, đau khổ và rạng ngời hạnh phúc. Và cứ giữa mơ và tỉnh mà mình sẽ đi tiếp đoạn đời còn lại”.
Thế đấy, đây là cuốn tiểu thuyết về một cuộc chiến đấu của một con người tìm lẽ sống hôm nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình.
Đây là một cuộc đi tìm. Đi tìm lại, mà cũng là tìm tới, một cách quằn quại, “nửa điên rồ”, “một cách đơn độc, một cách phản hiện thực, cay đắng và tuyệt vọng, đầy rẫy va vấp và lầm lạc”.
Cho nên – tôi tha thiết muốn nói điều này – đừng có ý đi tìm ở đây điều anh khẳng định hay phủ định ở chỗ này hay chỗ khác qua từng trang sách. Quyển sách đầy rẫy mâu thuẫn. Chính anh đang đau khổ đi tìm kia mà. Và anh đề nghị ta tìm cùng anh.
Còn về điều này nữa: đừng nên nghĩ đây là một cuốn sách viết về chiến tranh. Chiến tranh là một hiện thực đã đi qua, nhưng chưa dứt. Đúng ra thì đây là cuốn sách về “hậu chiến”. Một người lính trở về, và thấy khó tìm lẽ sống hôm nay quá. Không còn dễ dàng như trước chiến tranh, thậm chí như trong chính chiến tranh. Bởi vì đối với mỗi người đã đi qua chiến tranh rồi, – lại là người lính trần ở cấp thấp nhất từng gánh chịu trên đôi vai mình, số kiếp mình tất cả gánh nặng khủng khiếp của chiến trận – thì ý nghĩa, lý do sự tồn tại trên đời này sẽ là khác hẳn. Ý nghĩa hơn mà cũng nặng nề hơn, khó nhọc hơn, nghiêm khắc hơn… trong khi chính anh và cái xã hội anh đang sống hôm nay lại đã bị tổn thương lớn quá vì chính cuộc chiến tranh vừa lớn lao cần thiết vừa ác nghiệt rùng rợn ấy.
Nên nhớ: càng hiểu rằng cuộc sống là có ý nghĩa hơn, thì sống sẽ càng khó hơn.
Cuốn sách này không mô tả chiến tranh. Nó “mô tả” một cuộc kiếm tìm nặng nhọc chính hôm nay. Hiện thực ở đây là hiện thực bên trong của một tâm hồn quằn quại và đầy trách nhiệm, quằn quại vì đầy trách nhiệm. Trách nhiệm lương tâm.
Có lần Bảo Ninh nói với tôi: “… Sau tất cả những điều ghê gớm như vậy, sao hôm nay lại thế này?”. Đó là anh hỏi về xã hội và về chính anh.
Cuốn sách nặng nề này không bi quan. Vẫn thấm sâu ở đâu đó trong từng kẽ chữ của nó một âm hưởng hy vọng tiềm tàng, chính là vì thế; anh đi tìm, nghĩa là anh còn hy vọng.
Cuốn sách, anh viết: “nhưng… tôi tin rằng anh vô cùng hạnh phúc trên con đường hướng mãi về quá khứ. Không bị sự lãng quên xói mòn, tâm hồn anh sẽ mãi mãi được sống trong mùa xuân cũ những tình cảm mà ngày nay đã bị mai một hoặc đã già cỗi và biến tướng. Anh sẽ được trở lại với tình yêu, tình bạn, tình đồng chí, những tình cảm đã giúp chúng ta vượt qua muôn ngàn đau khổ của chiến tranh… Anh sẽ vĩnh viễn được sống trong những ngày đau thương nhưng huy hoàng, những ngày bất hạnh nhưng chan chứa tình người, những ngày mà chúng ta biết rõ vì sao chúng ta phải bước vào chiến tranh, chúng ta cần phải chịu đựng tất cả và hy sinh tất cả. Ngày mà tất cả đều còn rất son trẻ, trong trắng và chân thành”.
Sau tất cả những điều ghê gớm mà Bảo Ninh đã nói ở mấy trăm trang sách, thì lời đề nghị cuối cùng này của anh, tôi nghĩ, là đáng trân trọng, như tiếng nói vọng lại của một thế hệ của một dân tộc đã đau khổ nhiều nhất, mất mát lớn nhất, đã bị hy sinh.
Cách đây mấy chục năm tức là lúc ở Liên Xô đã đi khá sâu vào thời kỳ cải tổ, tại Moskva tôi có may mắn gặp một nhà phê bình Xô viết nổi tiếng hiện nay, ông Vlađimia Laksin. Ông từng là trợ thủ gần gũi và đắc lực của Tvacdovski, một trong những nhà thơ lớn nhất và có nhân cách nhất của văn học Xô viết, thời Tvacdovski làm Tổng biên tập tạp chí nổi tiếng Thế giới mới lần thứ hai (trước đó Tvacdovski đã bị cách chức Tổng biên tập tạp chí này một lần). Khi Tvacdovski bị cách chức lần thứ hai, Laksin cũng bị nạn được đưa về “ngồi chơi xơi nước” ở tạp chí Văn học nước ngoài 16 năm liền. Bây giờ ông trở lại làm Phó tổng biên tập tạp chí Lá cờ mà G. Baklanov là Tổng biên tập. Ông tiếp tôi ngay tại phòng làm việc của ông ở tạp chí Lá cờ, lúc bấy giờ còn đóng ngay cạnh học viện văn học M.Gorki. Buổi tối nói chuyện đầm ấm. Khi tôi hỏi ông về những tác phẩm “thời thượng” hiện nay ở Liên Xô (kiểu những tác phẩm “chống tiêu cực” hiện nay ở ta) và triển vọng sắp tới của văn học Xô viết, ông ngồi lặng hồi lâu, đôi mắt sắc và rất hóm đăm đăm nhìn ra cửa phòng, hai hàng râu mép rất Nga hơi rung khẽ, rồi ông nói, nhỏ, hồi hộp:
– … Anh biết không, tôi ngồi làm việc ở đây, nhiều hôm tôi chợt có ý nghĩ: một lúc nào đó bỗng nghe có tiếng gõ cửa rụt rè, và sau đó cửa mở, trên ngưỡng cửa hiện ra một người thanh niên hơi gầy, dong dỏng cao, khuôn mặt tai tái và buồn, tay ôm một bản thảo dày. Anh ấy nói: Tôi mang đến một bản thảo… xin lỗi, xin phép tự giới thiệu…, tôi là F. Dostoevski…
Khi nói như vậy, khuôn mặt Laksin cũng hơi tái đi và buồn, duy có đôi mắt hơi nheo lại thì sáng rực lên kỳ lạ.
Tôi biết Laksin muốn nhắc lại trường hợp nổi tiếng Bielinski và Nekrasov “phát hiện” ra Dostoevski hồi thế kỷ trước. Tôi cũng hiểu không phải ông muốn nói rằng văn học Xô viết hiện nay đang sắp có một Dostoevski mới – một đỉnh núi như vậy cả lịch sử chỉ có một lần. Điều ông muốn nói là nền văn học này đang tha thiết chờ đợi và dường như đang cảm thấy đâu đó sự vượt qua cái thượng thời tất yếu và cần thiết hôm nay và sự xuất hiện những tác phẩm văn học đích thực của thời cải tổ. Một cái gì đó không trực tiếp dính dấp bề ngoài với cải tổ hiện nay nhưng lại chỉ có cải tổ mới có, một cái gì đó thật sự đẻ ra từ máu thịt của thời đại mới…
Tôi cũng không điên rồ so sánh Dostoevski với bất cứ ai hôm nay. Tôi chỉ muốn nói rằng điều Laksin nói với tôi năm nọ ở Moskva, dường như ở ta bây giờ, ta cũng đang cảm thấy. Ta cũng chờ đợi một cái gì đó vượt qua cái thời thượng – tôi xin nhắc lại một lần nữa: tất yếu là cần thiết – đang có, đi đến một cái gì đó dường như không trực tiếp dính dáng đến những xao động của Đổi mới hôm nay, song lại chỉ có thể do Đổi mới mới có được, là con đẻ thực sự của cuộc vận động xã hội và con người sâu sắc và cách mạng này.
Đổi mới đã đem đến những gì đó cho văn học? Nhiều lắm. Sức sống mới, không khí dân chủ, sự đa dạng… Song có lẽ đáng nói nhất là điều này: đã thực sự có tự do sáng tác. Chưa phải là tất cả, nhưng đã có. Và hết sức quan trọng là đã có ở chỗ chính yếu nhất: ở trong chính người sáng tác. Một thứ tự do nội tại, một sự giải phóng bên trong, cơ bản và sâu sắc, được tạo nên một kết quả tốt đẹp của những quá trình xã hội sôi động mấy năm nay. Và bởi vì đó lạ sự giải phóng bên trong, nội tại ở chính người cầm bút, cho nên nó là không thể đảo ngược được nữa, bất chấp cả những ràng buộc, lúng túng thật ra là còn không ít trong chỉ đạo và quản lý.
Tự do thật sự và chân chính ở người cầm bút đồng nghĩa với nhân cách và trách nhiệm. Nhân cách đàng hoàng, xứng đáng, độc lập của nhà văn đứng trước xã hội và con người. Trách nhiệm của người cầm bút trước lịch sử và nhân dân, quá khứ, hiện tại và ngày mai, trong cuộc đi tìm lẽ sống xứng đáng của mọi người, và từng người.
Đổi mới đã đem đến tự do cho sáng tạo nghệ thuật. Và tác phẩm nghệ thuật chân chính chỉ có thể đẻ ra trong tự do, trước hết là tự do nội tại của nhà văn.
Tôi muốn nghĩ rằng cuốn sách nặng đầy suy nghĩ trằn trọc và trách nhiệm, tâm huyết của Bảo Ninh đã được hình thành trong chính không khí đã có phần trong lành lại đó, trong sự vận động còn gian nan nhưng không gì cưỡng lại được của xã hội và văn học hiện nay.
Nguồn: Cửa Việt, Quảng Trị, số 7 (tháng 4-1991)
***
THÂN PHẬN CỦA TÌNH YÊU
ĐÀO HIẾU
Thân phận của tình yêu, tôi ngờ rằng tác giả không đặt tên sách ấy cho mình mà đặt cho thị trường, bởi trong tác phẩm này tình yêu chỉ là một phần bi kịch chiến tranh, một phần của thân phận con người.
Tình yêu giữa Kiên và Phương là một mối tình rực rỡ, tàn nhẫn và xót xa nhưng vẫn chưa phải là yếu tố duy nhất và quyết định của bi kịch trong tác phẩm. Tình yêu ấy là ánh chớp của lửa chiến tranh nhưng rất nhiều khi bị chìm khuất trong nỗi buồn mênh mông mà chiến tranh – sau khi bị phá phách và tàn lụi – để lại trong đời Kiên như một hoàng hôn vĩnh cửu, tàn tạ và mỏi mệt.
Cho nên Thân phận của tình yêu đúng ra là nỗi buồn của kẻ sống sót. Kẻ sống sót không vui, không tung mũ nón, không vẫy cờ mà ngồi một mình trong căn phòng sang trọng ở phi cảng Tân Sơn Nhất, chân gác lên bàn, uống rượu bên cạnh những tử thi để chờ sáng.
Đây là một trong những tác phẩm viết về chiến tranh dữ dội, bi thương và lẫm liệt nhất mà tôi được đọc. Bảo Ninh, một tên tuổi mới, một tác giả trẻ, một người đi sau nhưng đã bứt lên, qua mặt nhiều người dù tiếng vỗ tay trên khán đài còn lác đác…
Có người nói: Nếu sau chiến tranh, Kiên trở về Hà Nội gặp lại Phương xinh đẹp, trong trắng, chờ đợi mình thì có lẽ không có những bi kịch ấy, không có nỗi buồn của kẻ sống sót, không có những giằng xé tê dại kia…
Tôi không nghĩ như thế. Vì sau chiến tranh, Kiên trở về như kẻ bị ma ám. Ma là đồng đội của anh, là Thịnh, là Cừ, là Hòa, là Quảng. Quảng quằn quại vì vết thương và muốn kết thúc sớm sự đau đớn ấy. Anh bảo Kiên: “Bắn em đi anh. Bắn! Bắn! Mẹ mày chứ. Bắn đi!” Nhưng Kiên đã không nỡ và Quảng đã phải tự rút chốt quả lựu đạn.
Hồn ma ấy cũng là Hòa, cô giao liên nhỏ bé bị một toán lính da đen cưỡng hiếp đến chết giữa rừng. Hồn ma ấy là Can, đào ngũ và chết bên bờ suối. “Cái xác lở loét ốm o như xác nhái vì dòng lũ tấp lên một bãi lau lầy lụa. Mặt của xác chết bị quạ rỉa, miệng nhét đầy bùn và lá mục” (tr.25)
Hồn ma còn là những người bên kia chiến tuyến: “Dòng lính áo xanh bị xe tăng dồn tới, dồn tới để chết chồng chất vì tay Kiên. Không phải là bắn nữa, mà là tàn sát” (tr.131).
Sự ám ảnh của những hồn ma cộng với bi kịch xót xa đến cuồng điên trên chuyến tàu hỏa, đi với Phương, cộng với kết thúc ê chề của mối tình đã đẩy Kiên vào cơn điên thống khổ, kiêu hãnh và hoan lạc. Đó là nỗi hoan lạc man rợ, là niềm kiêu hãnh bùng cháy trong tuyệt vọng. Ngần ấy những giằng xé, mâu thuẫn đã tạo nên tính cách anh “nhà văn của phường tôi” ấy.
Bảo Ninh tạo một cấu trúc truyện “không cần cấu trúc”. Với một nhà văn ít vốn sống thì việc phá bỏ cấu trúc như thế đòi hỏi nhiều kinh nghiệm. Nhưng với Bảo Ninh, kẻ thừa mứa vốn sống chiến tranh thì chỉ cần cảm xúc. Chính cảm xúc đã thay anh dẫn dắt câu chuyện, dẫn dắt kết cấu, bố cục và tạo được cho nó cái vẻ “phi cấu trúc” một cách tương đối tự nhiên và “có nghề”. Thực ra Bảo Ninh không cố gắng mấy trong nghệ thuật “phi cấu trúc” này. Lợi thế của anh là vốn sống. Anh như một gã triệu phú có trong tay nhiều kho vàng bạc châu báu. Tự mỗi món đã đẹp rồi, đã lấp lánh sáng rồi thì dù ném vung vãi chúng trên sàn nhà, chồng lên nhau, cạnh nhau, dày đặc hay rải rác, xám hồng tím lẫn lộn, bất chấp quy luật phối cảnh, bất chấp sự hài hòa về sắc độ… nó vẫn đẹp, vẫn rực rỡ. Tên triệu phú cả cười, tung hê những vòng ngọc, lá vàng, lá bạc lên… bay lả tả. Hắn biết thế của mình và tiếp tục trò chơi ấy trong suốt tác phẩm.
Họ yêu nhau từ năm 13 tuổi, chơi trò ú tim, trò vợ chồng trong xó nhà. Ngay lúc ấy, Phương đã là một cô gái độc đáo.
16, 17 tuổi, hai người trốn học, trốn những buổi thảo luận nhàm chán, bơi qua Hồ Tây. Họ hôn nhau trên cỏ, Kiên rụt rè chưa dám làm tình. Nhưng lúc ấy, Phương tỏ ra bản lĩnh hơn bạn trai của mình rất nhiều. Đến lúc Kiên vào lính với những suy nghĩ khuôn sáo về một sứ mệnh cao cả nào đó thì Phương đã nghĩ đến nỗi đau của chiến tranh, của chia lìa, của phi lý và nghiệt ngã. Cô là “bà chị” của Kiên. Trải qua một cuộc chiến tranh dài, khốc liệt, Kiên trở về gặp lại Phương “sa đọa” thì Phương vẫn cứ lớn hơn Kiên, trưởng thành hơn Kiên như thường, nàng trân trọng mối tình đến mức phải kiêu hãnh mà gạt bỏ nó. Nàng sa đọa cũng vì kiêu hãnh. Và Kiên, dù đã là một con người từng trải, dày dạn, vẫn không hiểu điều ấy.
Vẻ đẹp đó của Phương còn lộng lẫy hơn vẻ đẹp của thân xác nàng.
Kiên lớ ngớ ở tuổi 13, lý tưởng vặt ở tuổi 17, dũng mãnh, tàn bạo ở tuổi 20, 25 và bị ma ám ở tuổi 40, cũng không theo kịp được tầm vóc của Phương.
Thật hạnh phúc khi xây dựng được một nhân vật như Phương. Những đoạn kể về Phương trên chuyến tàu hỏa tiễn Kiên đi B là những đoạn tả hay nhất trong tác phẩm. Đó là những trang diễm tình, cay đắng, mãnh liệt và tàn bạo nhất. Đó là thời điểm vô cùng rực rỡ của nhan sắc Phương.
Bảo Ninh rất thành công trong cách mô tả tình yêu và chiến tranh. Ở cả hai mảng anh đều dữ dội và trữ tình một cách khốc liệt. Phần còn lại của tác phẩm ít thành công hơn. Những đoạn anh phân tích về tâm trạng nhà văn, về cấu trúc truyện, về “lối kể kỳ lạ” thật ra không đặc sắc và không cần thiết lắm. Vì tự bản thân truyện, bản thân các chi tiết, bản thân nhân vật đã nói thay cho anh rồi.
Đoạn đời về sau này, lang thang vô định ở Hà Nội là cần thiết và sẽ là rất hay nếu anh biết lược bỏ đi một số đoạn triết lý và nhất là biết kiềm chế cái ước muốn “bi kịch hóa” thái quá nhân vật Kiên. Ý muốn đó vô tình kéo tác phẩm rấp ranh trở lại cấu trúc cổ điển: một tình sử, một cuộc tình ngang trái sau chiến tranh. Hành động “đốt tác phẩm” của người họa sĩ già (cha Kiên) và hành động định “đốt bản thảo” của Kiên là một sự lăm le trở về với mô típ cổ điển ấy. Sự sa đọa của Phương có lẽ cũng hơi quá tay, rõ ràng phảng phất hơi hướng của tình sử… nhưng chỉ rải rác, chút đỉnh. Tài năng của Bảo Ninh, vẫn chiếm ưu thế, vẫn lấn át được tất cả.
Vực dậy cả một quá khứ khốc liệt, một mối tình lớn không phải chỉ cần vốn sống và tư duy. Nó còn phụ thuộc rất nhiều vào ngôn ngữ và bút pháp. Ngoài những lúc chuyển đoạn hơi hấp tấp, hơi khập khiễng như ở trang 137, 138, 236… thì bút pháp của Bảo Ninh đã truyền sức mạnh cho ngôn ngữ. Bút pháp của anh khi lạnh lùng, khi cháy bỏng, lúc uể oải, lúc dồn dập, câu ngắn xen lẫn câu dài, lối dẫn chuyện lấp lửng, hé một chút rồi đóng lại, lửng lơ… đã dẫn dụ được người đọc. Bảo Ninh chiếm ưu thế dùng các thuộc từ (attribut). Ngôn ngữ của anh nóng bỏng, gào thét, và đầy hình tượng.
“Anh chiếm đoạt chị một cách cuồng bạo, khốc liệt, dằn xé, đâm vào chị nỗi đơn độc bí ẩn, sắc như dao, đầy hiểm nghèo của anh” (tr.124).
… “Khổ sở vì đói, vì sốt rét triền miên. Thối hết cả máu” (tr.17)… “Mặt mày ai nấy lêu rêu. Ủ dột. Yếm thế. Đời sống mục ra” (tr.18).
“Bọn chúng dồn cục lại nhưng chỉ còn vài tên đang còn đứng và đều xoay lưng lại phía Kiên. Chúng không hò hét, không rống cười, không quát tháo. Sự thể ghê rợn bày ra, quằn quại trong yên tĩnh, man rợ” (tr.225).
“Nàng xinh đẹp, mê dại và bất kham, hấp dẫn đến lịm người bởi một sắc đẹp kỳ ảo và khôn lường, đẹp như một sắc đẹp bị chấn thương, như thể một sắc đẹp bị lâm nguy, mấp mé bên bờ vực” (tr.275).
Trong từng trang sách ta thấy không những vốn sống ứ tràn trong anh chỉ chực trào ra là ngôn ngữ của anh cũng vậy, ngôn ngữ được sinh sôi từ chất liệu sống đầy ắp ấy nên cũng ứ đọng, cũng chực trào ra. Ta bắt gặp mỗi động tác, mỗi sự vật anh mô tả đều được kèm theo bốn năm thuộc từ và hình như vẫn chưa thỏa, vẫn muốn ném vào thêm dãy một nữa, một chuỗi nữa.
Ngôn ngữ Bảo Ninh cũng quằn quại như binh lửa, như cái chết và phận người.
Nguồn:Văn học và dư luận, Tp.HCM, số 9 (1991)
***
XIN GỌI ĐÚNG TÊN
HOÀNG HƯNG
Xin gọi đúng tên. Nó là Nỗi buồn chiến tranh. Xin đừng có sợ ở đây một cái nhìn đen tối, một mưu toan lật ngược, cũng chẳng có gì dính dáng đến cái gọi là văn học “sám hối”. Càng không có nhã ý ôm lấy kẻ thù hôm qua mà thanh minh: phải bắn vào anh tôi đau khổ lắm, hoặc tôi chỉ bắn lên trời. Người lính trung thực và tự trọng này chỉ có nhu cầu bức bách “sống ngược trở lại cuộc chiến tranh, chiến đấu lại cuộc chiến đấu”. Và một nỗi đau buồn lớn lao thấm vào từng câu chữ của cuộc sống lại lớn lao ấy. Nếu như cần đặt câu hỏi: Vì sao nỗi buồn? “Chính nhờ nỗi buồn mà chúng tôi đã thoát khỏi chiến tranh, thoát khỏi bị chôn vùi trong cảnh chém giết triền miên, trong cảnh khốn khổ của những tay súng, những đầu lê, trong ám ảnh bạo lực và bạo hành để bước trở lại con đường riêng của mỗi cuộc đời, những cuộc đời có lẽ chẳng sung sướng gì và cũng đầy tội lỗi, nhưng vẫn là cuộc đời đẹp đẽ nhất mà chúng tôi có thể hy vọng, bởi vì đấy là cuộc sống hòa bình!” (Thân phận của tình yêu – trang 282). Xin thêm một câu: chính nỗi buồn phân biệt con người cầm súng với con thú hoặc cỗ máy giết chóc, Kiên bước vào cuộc chiến với niềm háo hức và ra khỏi đó với nỗi buồn đó là cái được của anh trong cuộc chiến để làm người.
Xin gọi đúng tên. Nó là ký ức tự hành của kẻ mộng du. Nghĩa là một ký ức rối loạn thời gian và không gian. Sự rối loạn giúp con người vụt nhận ra những điều bị che khuất trong một thời gian tuyến tính, một không gian phẳng. Nghĩa là một hòa hợp thực + ảo, sự kiện + tâm trạng, tỉnh + mê, khách quan + chủ quan, ý thức + tiềm thức. Những thành phần thứ hai lâu nay bị lấp liếm, hóa ra có sức phát giác không thể xem thường, và quan trọng nhất là phát giác đời sống bên trong con người – điều người ta thật sự cần ở văn học nghệ thuật.
Xin gọi đúng tên. Nó là chân dung tập thể ghép từ trăm mảnh vỡ của một thế hệ mất mát. Một thứ hội chứng tâm thần mà chỉ có cách gọi đúng nguyên nhân, dựng sống lại sự chấn thương chìm trong quên lãng, như Kiên đã làm bằng cách giãi bày trên 300 trang in, mới mong giải thoát.
Xin gọi đúng tên. Một thứ văn xuôi vươn thành thơ. Những đoạn, những trang đặc quánh ấn tượng, cảm xúc, dồn nén từ ngữ, đầy tiết tấu và nhạc điệu, nóng bỏng và khẩn thiết, trực tiếp vọt ra từ tâm tưởng, có những chỗ đạt đến trạng thái tự vận động ngoài ý thức của ngôn từ. Hình như Bảo Ninh dợm đặt chân trên con đường siêu việt của William Faulkner, của Henry Miller.
Gọi đúng tên. Đó là văn học của tuổi trưởng thành.
Nguồn: Văn học và dư luận, Tp.HCM, số 9 (1991)
[1] Thân phận tình yêu – tiểu thuyết Bảo Ninh – Nhà xuất bản Hội nhà văn – 1990.
Cuốn tiểu thuyết vốn có tên là Nỗi buồn chiến tranh nhưng rồi vì “sức ép của thị trường sách” hỗn hợp hiện nay, nó buộc bị đổi tên một cách oan uổng và buồn cười, ngoài ý muốn của tác giả. Riêng tôi, tôi vẫn muốn gọi tên quai nôi của nó: Nỗi buồn chiến tranh.
***
NHỮNG NGHỊCH LÝ CỦA CHIẾN TRANH
(đọc Thân phận của tình yêu)
HOÀNG NGỌC HIẾN
Trong cuốn tiểu thuyết với nhan đề hết sức vớ vẩn này, Bảo Ninh viết về những nghịch lý của chiến tranh, của tình yêu, của một thân phận lính đeo đuổi nghiệp văn chương để sống lại ký ức chiến tranh và ký ức tình yêu. “Nghịch lý là bạn của thiên tài” (Pushkin). Cách tiếp cận đề tài của Bảo Ninh giống như một sự liều lĩnh. Có thể tác giả sẽ phải trả giá. Nhưng trong khi không ít người viết còn thiên về cách nghĩ bằng những “thuận lý” “một nghĩa” “bảo đảm an toàn” thì cuốn tiểu thuyết khác thường của Bảo Ninh là cái “được” cho văn chương.
Trong cảm thức của Kiên và những nhân vật khác trong truyện gần gũi với tác giả chiến tranh là “những ngày tháng đau thương nhưng huy hoàng”, “những ngày bất hạnh nhưng chan chứa tình người”…
Nói đến chiến tranh, Kiên nhớ đến “biết bao đồng đội thân yêu ruột thịt… những người lính thường, những liệt sĩ của lòng nhân, đã làm sáng danh đất nước này và đã làm nên vẻ đẹp tinh thần, cho cuộc kháng chiến” nhưng Kiên cũng không thể nào quên “bộ mặt gớm guốc” của chiến tranh “với những móng vuốt của nó, những sự thật trần trụi bất nhân nhất của nó… bất kỳ ai đã phải trải qua, đều mãi mãi bị ám ảnh, mãi mãi mất khả năng sống bình thường, mãi mãi không thể tự tha thứ cho mình” (tr.227).
Chiến tranh là “sự che chở đùm bọc, được cứu rỗi trong tình đồng đội bác ái” đồng thời cũng là “gánh nặng bạo lực mà thân phận con sâu cái kiến của người lính phải cõng trên lưng đời đời kiếp kiếp” (tr.227).
Trong chiến tranh, “chính nghĩa thắng, lòng nhân thắng nhưng cái ác, sự chết chóc và bạo lực phi nhân cũng thắng” (tr.228).
“Thời buổi chiến tranh, thời buổi ngược đời…” (xem tr.33). Trong lời văn cuốn tiểu thuyết nhan nhản những “lời nói ngược”, và những “lối nói ngược”, “những niềm vui buồn thảm”, “nhà tiên tri những năm tháng đã qua”, sắc diện “đau đớn, say cuồng, tột cùng hạnh phúc”, tâm trạng “vì sợ mà chẳng sợ gì nữa”, “sự nghiệp thiêng liêng đau khổ của người lính chống Mỹ”, “vừa được ghi nhớ vĩnh hằng vừa không ngừng bị lãng quên”, “trở nên hoàn toàn khác” mà vẫn “không thay đổi”…
Cách nhìn nghịch lý càng trở nên phức tạp khi vươn tới “cõi xa xăm bên ngoài biên giới của tư duy, đạt đến cõi hòa đồng người sống và người chết, hạnh phúc và khổ đau, hồi ức và ước mơ” (tr.91). Có thể gọi đó là cõi “siêu thức”, rất khác với “trạng thái ù lì, mụ mị, đánh đồng người khôn kẻ dại, người gan kẻ nhát, đánh đồng lính với quan, thậm chí đánh đồng thù bạn…”, trạng thái khiến con người cảm nhận chiến tranh “là cõi không nhà không cửa, lang thang khốn khổ và phiêu bạt vĩ đại, là cõi không đàn ông, không đàn bà, là thế giới thảm sầu vô cảm và tuyệt tự khủng khiếp nhất của dòng giống con người!” (tr.33). Thể hiện đời sống nội tâm của Kiên trong những ngày liên miên của chiến tranh, ngòi bút của Bảo Ninh khá tinh tế trong sự miêu tả dòng ý thức mấp mé cõi “siêu thức” hoặc trạng thái ê chề đến mụ mị, như thể mất hồn, “như thể bị nhồi bông vào óc, không phấn chấn, không vui, không buồn, chẳng thiết gì, chẳng lo cũng chẳng mong gì”.. (tr.225).
“Chiến tranh” và “chiến thắng” đã được một nhà thơ biểu tượng bằng hình ảnh “máu và hoa”. Trong cuốn tiểu thuyết về chiến tranh của Bảo Ninh có những trang “ngập máu”, “máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét”, “máu nóng hổi rưới đẫm bờ dốc thoải”, “vết thương không ngừng nhểu máu”, “bãi chiến trường biến thành đầm lầy, mặt nước màu nâu thẫm nổi váng đỏ lòm”… (tr.7). Có những trang nặng mùi tử thi. Bộ mặt gớm guốc và tàn bạo của chiến tranh được Bảo Ninh miêu tả rất hiện thực nhưng không phải không có sự thăng hoa. Trước thi thể một người chiến sĩ vô danh ở dưới một ngôi mộ kết Kiên và mọi người sững lặng… “Không ai bảo ai tất cả đều quỳ xuống, đưa cao lên với theo bóng hồn thiêng người đồng đội đã về thần…” (tr.96). Trong truyện của Bảo Ninh, những ngày tháng sau hòa bình không có “hoa”, chỉ có “nỗi buồn chiến tranh”. Đó là “nỗi buồn được sống sót” (tr.227). Đó là “ngọn gió buồn vô hạn của tình yêu và tự do” từ chân trời dĩ vãng thổi tới, cứ “thổi mãi thổi hoài” như một niềm tiếc nuối khôn nguôi… Đó là tình thương vô hạn với tất cả những người đã nằm xuống không phân biệt “người vinh kẻ nhục”, “người hùng kẻ nhát”, “người đáng sống kẻ đáng chết”… với cả “những người anh em khốn khổ, bạc phước ra đi trong nhục nhã chẳng được ai đoái hoài”… Nỗi buồn chiến tranh – “một nỗi buồn cao cả, cao hơn hạnh phúc và vượt trên đau khổ” (tr.282).
Về những nghịch lý của tình yêu – một đề tài dễ sáo mòn – Bảo Ninh khó mà đưa ra được điều gì thực sự mới mẻ và sâu sắc. Đóng góp của tác giả là sáng tạo được một cặp trai gái thực sự là tình nhân: Kiên và Phương. Bất chấp chiến tranh kinh khủng (và đời thường trong hòa bình còn kinh khủng hơn), bất chấp bạo tàn và ô nhục, “bất chấp sự rơm rác của những định kiến và những giáo điều gò khuôn cuộc sống của con người”, họ sống cũng như yêu tự do và thanh sạch. Con người của họ cũng đầy tội lỗi và không thiếu khuyết tật. Tuy nhiên, trong cách ứng xử của họ với bố mẹ và xóm giềng, với người thân người sơ, với người tình và bè bạn, với đồng đội và cả với địch thủ nữa không có điều gì “bẩn”. Trong khi khắp nơi đâu cũng than vãn con người “xuống cấp”, Phương và Kiên là một kiểu nhân cách đáng chú ý. Vì khuyết tật đáng lo ngại hơn cả ở con người ngày hôm nay là mất giác quan cảm thấy “bẩn”. Giác quan này bị tê liệt sẽ ngự trị các thói “ăn bẩn”, “nghĩ bẩn”, “nói tục tĩu” “chơi không đẹp”… Mài sắc giác quan này là một tác động quan trọng không gì thay thế được của văn học nghệ thuật. Kiên và Phương là một cặp tình nhân lãng mạn (có tình yêu nào mà không lãng mạn?). Trong văn học cổ điển, riêng Truyện Kiều có ba cặp tình nhân hấp dẫn. Tự Lực văn đoàn ít ra có đôi bạn Loan và Dũng, với Kiên và Phương văn xuôi đương đại có “Romeo và Juliet”.
Một câu văn của Bảo Ninh: “Biết bao kỷ niệm bi thảm, bao nhiêu là nỗi đau mà từ lâu lòng đã nhủ lòng là phải gắng cho qua đi, rút cục đều dễ dàng bị lay thức bởi những mối liên tưởng tuồng như là không đâu nảy sinh một cách khôn lường từ muôn vàn những chi tiết tầm thường, rời rạc và vô vị nhất có thể có trong chuỗi bất tận ngày qua ngày nhạt thếch, buồn tẻ và êm đềm đến phát ốm này” (tr.47 – tôi gạch ở dưới H.N.H.). Giống như một câu văn Tự Lực văn đoàn: từ ngữ tao nhã, có âm điệu (gia công hơi lộ liễu). Nhưng khác câu văn Tự Lực văn đoàn ở kết cấu câu phức tạp hơn, bác học hơn và những từ khẩu ngữ: tuồng như là không đâu, êm đềm đến phát ốm. Văn của Bảo Ninh có chất khẩu ngữ nhưng chưa mạnh mẽ, dồi dào. Viết được cho hay như Tự Lực văn đoàn không dễ nhưng văn học và ngôn ngữ văn học ngày nay đòi hỏi câu văn thông tuệ hơn, bác học hơn, đồng thời “dân dã”, “khẩu ngữ” hơn, dĩ nhiên vẫn phải có tiết tấu âm điệu, miễn là không dễ dãi. Trong Thân phận của tình yêu có những trang vừa thừa “văn chương”, thiếu “khẩu ngữ”, đọc những trang này giống như đứng trước một người con gái đẹp “thiếu máu”.
Trong truyện của Bảo Ninh, ba đề tài về chiến tranh, tình yêu và đam mê sáng tạo nghệ thuật thực chất níu vào nhau. Trong cả ba cõi này luôn có sự chập chờn giữa được và mất, tin và ngờ, hạnh phúc và đau khổ, hy vọng và tuyệt vọng… một sự chập chờn đầy rẫy bất trắc và phi lý khiến người trong cuộc không thể không tin ở “một thiên mệnh thiêng liêng, cao cả, vô danh và tuyệt đối được bí ẩn”. Không ai cấm nhà tiểu thuyết làm siêu hình học, và đây là một lĩnh vực mới mẻ đối với tiểu thuyết Việt Nam hiện đại mà Bảo Ninh đã mạnh dạn bước vào. Cuốn tiểu thuyết sẽ như thế nào nếu như tác giả chỉ viết về đề tài chiến tranh? Sự đóng ghép với đề tài tình yêu và đề tài sáng tạo nghệ thuật chí ít đã tránh cho tác giả khỏi đóng vai trò đơn thuần kể và tả, một vai trò dễ tẻ nhạt trong văn xuôi hiện đại.
Cảm hứng sáng tác của Kiên – người “lính về hưu” đam mê văn chương – là cả một nghịch lý. Để vượt qua cơn khủng hoảng “hậu chiến” để có lại lòng tin và tình yêu cuộc sống, Kiên không hướng về tương lai mà anh lần trở về với quá khứ. Với Kiên, viết là “sống ngược trở lại, lần tìm trở lại con đường của mối tình xưa, chiến đấu lại cuộc chiến đấu”. Với Kiên “ký ức tình yêu và ký ức chiến tranh kết thành sinh lực và thành thi hứng, giúp anh thoát khỏi cái tầm thường bi đát của số phận anh sau chiến tranh” (tr. 183). Kiên viết để “tâm hồn anh mãi mãi được sống trong mùa xuân của những tình cảm mà ngày nay đã mai một hoặc đã già cỗi và biến tướng” (tr. 182). Tác giả tin rằng Kiên “vô cùng hạnh phúc trên con đường trở về với quá khứ”, tức là “trở về với cõi cực lạc của những ngày tháng xa xưa, với tuổi thơ, với cô bạn gái nhỏ, với niềm tin ngây thơ trong trắng thuở trước chiến tranh” (tr. 280).
Chiến tranh “có sức mạnh hủy diệt, sức mạnh biến tất cả thành tro bụi của nó” (tr. 275), nhưng cuối cùng thì chiến tranh “không tiêu diệt được gì hết”. Có thể hiểu được nghịch lý này. Chiến tranh (cũng như đời thường hậu chiến) “không tiêu diệt được gì hết”, miễn là không bị hủy diệt những giấc mơ. Đam mê văn chương của Kiên bắt nguồn từ nhu cầu “làm bừng sáng lại những giấc mộng xưa”. Những nghịch lý làm vật vã nhân vật đáng thương của Bảo Ninh thực ra cũng gần gũi với lẽ sống thông thường nhất của con người, với kinh nghiệm sinh tồn sơ đẳng và vĩnh cửu của loài người.
Dầu thế nào đi nữa, chúng ta vẫn mơ,
Dầu thế nào đi nữa, chúng ta vẫn sống.
(Quoi qu’il arive, nous revons,
Quoi qu’il arive, nous vivrons
(Paul Eluard)).
Nguồn: Văn nghệ, Hà Nội, số 15 (13-4-1991)
(Còn nữa…)