Tiền Giang, nguyên Phó Tổng Biên tập Nhật báo Nhân dân của Trung Quốc
Nguồn: “周恩来与日内瓦会议”,第 27 章 “关键的柳州会议” 钱江著
中共党史出版社 2005.1
Nguyễn Hải Hoành, biên dịch và chú thích
Cuối năm 1953, tại Việt Bắc, Hồ Chủ tịch và các đồng chí lãnh đạo Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Nguồn: Tư liệu TTXVN
Lời giới thiệu của người dịch: Nhiều bạn đọc biết hội nghị Liễu Châu (3-5/7/1954) có tác động quan trọng làm cho phái đoàn Việt Nam dự hội nghị Geneva nhượng bộ nhiều hơn trong việc vạch giới tuyến tạm thời chia cắt hai miền Nam-Bắc nước ta. Cụ thể là, ban đầu ta yêu cầu giới tuyến này lấy theo vĩ tuyến 13 hoặc 14, nhưng cuối cùng ta phải chấp nhận lấy theo vĩ tuyến 17, tức lùi về phía bắc 3 đến 4 vĩ tuyến, tương đương lùi ranh giới hai miền Nam Bắc khoảng 330 đến 440 km về phía Bắc, thu hẹp đáng kể diện tích miền Bắc. Có người nói ta phải nhượng bộ như vậy là do chịu sức ép của các nước lớn. Đáng tiếc là hầu như chưa thấy có tư liệu do người Việt Nam viết về hội nghị Liễu Châu. Dưới đây xin giới thiệu một tài liệu trình bày khá chi tiết về chủ đề này, do nhà báo Trung Quốc Tiền Giang, nguyên Phó Tổng Biên tập Nhật báo Nhân dân của Trung Quốc (bản Hải ngoại) biên soạn và công bố năm 2005.
Đúng vào thời gian thành phố Liễu Châu đang trải qua những ngày hè nóng bức nhất, các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Việt Nam đã họp với nhau 8 buổi trong 3 ngày, đưa ra những quyết định quan trọng đối với vận mệnh Việt Nam, phối hợp điều hòa lập trường hai bên Trung – Việt tại hội nghị Geneva đạt được sự nhất trí. Chu Ân Lai là người xác định giọng điệu của hội nghị Liễu Châu. Sự hiểu biết và ủng hộ của Hồ Chí Minh cũng có tác dụng then chốt. Hội nghị đã thực hiện toàn bộ ý định dự kiến của Chu Ân Lai. Hội nghị Liễu Châu đã dọn đường đưa hội nghị Geneva đạt được kết quả giải quyết sau chót vấn đề Đông Dương.
Ngày 30 tháng 6 năm 1954, Chu Ân Lai đáp chiếc chuyên cơ “Công chúa Bengal” [Bengal Princess] do Ấn Độ cung cấp bay về Quảng Châu. Tại đây ông lập tức tập trung công sức chuẩn bị cho cuộc hội đàm với Hồ Chí Minh nhằm điều phối lập trường của hai nước Trung Quốc – Việt Nam tại hội nghị Geneva. Đó là do tại hội nghị Geneva, đại biểu Việt Nam là Phạm Văn Đồng có ý kiến không thống nhất với Ngoại trưởng hai nước Trung Quốc và Liên Xô.
Tìm hiểu nguồn ngọn vấn đề cho thấy, ngay từ lúc chuẩn bị tham gia hội nghị Geneva, ba phía Trung Quốc, Liên Xô và Việt Nam chưa có ý kiến hoàn toàn nhất trí về dự án đàm phán vấn đề Việt Nam: Rốt cuộc là nên vạch một đường phân giới Nam Bắc hay là nên xác định khu vực tập kết quân sự hai bên Việt – Pháp, phương án nào là tốt? — vấn đề này còn đang đàm phán. Chu Ân Lai có xu hướng muốn vạch đường phân giới Nam Bắc, cho rằng lấy vĩ tuyến 16 vạch đường phân giới là thích hợp. Lúc đó chiến dịch Điện Biên Phủ đang diễn ra ác liệt chưa phân thắng bại, vì thế phe phương Đông [tức phe Trung – Xô – Việt] quyết định sau khi đến Geneva sẽ căn cứ theo kết cục của chiến dịch Điện Biên Phủ mà xác định phương án đàm phán.
Tại Geneva, phương án phân giới Nam Bắc dần dần hiện rõ nét. Ngày 7 tháng 5, quân đội Việt Nam toàn thắng trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Thái độ của Phạm Văn Đồng nhanh chóng trở nên cứng rắn, ông đề xuất ý tưởng mạnh bạo vạch đường phân giới tại vĩ tuyến 13; như vậy Việt Minh sẽ kiểm soát hai phần ba lãnh thổ cả nước. Các nước phương Tây mạnh mẽ phản đối phương án này.
Phạm Văn Đồng cương quyết phản đối việc rút quân Việt Nam ra khỏi Campuchia và Lào. Đương sự Việt Nam có thái độ như vậy làm cho Chu Ân Lai, Molotov cảm thấy rất khó xử, không tiện phát biểu ý kiến. Sau khi Chu Ân Lai nhiều lần khuyến cáo, Phạm Văn Đồng mới đồng ý rút quân đội Việt Nam ra khỏi Campuchia và Lào. Nhưng trên vấn đề vạch đường phân giới, Phạm Văn Đồng chỉ đồng ý lùi có hạn chế. Cho dù ngày 19 tháng 6, hội nghị Geneva thông qua nghị quyết trước tiên ngừng bắn tại Campuchia và Lào, nhưng sau hội nghị, Phạm Văn Đồng vẫn nói với đại biểu Trung Quốc và Liên Xô là Việt Nam có bảo lưu về vấn đề này.
Do xuất hiện sự bất đồng giữa phái đoàn Việt Nam với phái đoàn Trung Quốc và Liên Xô, ngày 19 tháng 6 Chu Ân Lai điện cho Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, vạch ra vấn đề nếu đã có nhượng bộ trên vấn đề Campuchia và Lào thì trên vấn đề Việt Nam [ta] có thể yêu cầu thu được nhiều [kết quả] hơn, “Tình thế hiện nay là trong hội đàm về quân sự, nếu ta đưa ra phương án cụ thể hợp lý thì có thể tranh thủ nhanh chóng giải quyết vấn đề với Pháp, đạt được ngừng bắn. Như vậy có thể thúc đẩy Chính phủ mới của Pháp chống lại sự can thiệp của Mỹ, lại có thể trì hoãn [việc thành lập] quân đội châu Âu. Điều đó có lợi cho phe phương Đông [tức phe Liên Xô -Trung Quốc-Việt Nam]. Cho nên [chúng ta] cần phải bàn cho rõ những vấn đề quan trọng này.” Vì vậy tôi “trên đường về nước sau khi thăm Ấn Độ, cần phải đi Nam Ninh, Quảng Tây một chuyến, mời vài đồng chí phụ trách Trung ương Đảng Lao động Việt Nam [đến đó] nghe tôi báo cáo tình hình, nói rõ phương châm của việc chia vùng [tập kết lực lượng hai bên Việt – Pháp].”[1]
Ngày 20 tháng 6, Chu Ân Lai gửi điện cho Đặng Tiểu Bình nhờ chuyển đến Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Bức điện cho biết, đã thương lượng được Molotov và Phạm Văn Đồng đồng ý là Chu Ân Lai sau khi đi thăm Ấn Độ về nước sẽ đến Nam Ninh hội đàm cùng Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, và La Quý Ba, Vi Quốc Thanh, để giới thiệu “các vấn đề tình hình đàm phán [ở hội nghị Geneva] và vấn đề phân chia vùng [tập kết lực lượng hai bên Việt – Pháp], tìm kiếm sự nhất trí ý kiến [của hai bên Trung Quốc – Việt Nam], nhằm làm cho cuộc đàm phán tại hội nghị Geneva có tiến triển.” Ngay hôm ấy, dự định nói trên của Chu Ân Lai được [Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc] phê chuẩn.
Lúc đó phía Trung Quốc đã chuẩn bị xong địa điểm hội đàm cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc – Việt Nam, nhưng sau khi về đến Quảng Châu, Chu Ân Lai lại thận trọng suy nghĩ, cho rằng Nam Ninh cách biên giới Trung – Việt quá gần, thành phố này lại đông người, khó giữ được bí mật, tốt nhất nên chuyển địa điểm họp lên phía bắc. Rốt cuộc, theo ý kiến của Chu Ân Lai, địa điểm họp lãnh đạo Trung Quốc – Việt Nam đã chuyển từ Nam Ninh lên Liễu Châu [cách Nam Ninh 270 km về phía bắc].
Các nhà lãnh đạo Việt Nam đồng ý với đề nghị nói trên của phía Trung Quốc; Hồ Chí Minh cùng Võ Nguyên Giáp lên đường đi Liễu Châu. Phía Trung Quốc cử hai Cố vấn chủ yếu trong Đoàn Cố vấn Trung Quốc công tác tại Việt Nam là La Quý Ba và Vi Quốc Thanh đi dự hội nghị Liễu Châu, ngoài ra còn cử Giải Phương, nguyên Tham mưu trưởng Quân Chí nguyện Trung Quốc ở Triều Tiên. Trước đó ít lâu, Giải Phương vừa sang Việt Nam giúp nhà lãnh đạo quân đội Việt Nam tổ chức Hội nghị Quân sự Trung Giã [giữa hai bên Việt – Pháp]. Đến dự hội nghị Liễu Châu còn có Mã Mục Minh là quan chức Bộ Ngoại giao Trung Quốc, từng tham gia cuộc đàm phán đình chiến Triều Tiên.
Giải Phương là Tham mưu trưởng được Bành Đức Hoài Tư lệnh Quân Chí nguyện Trung Quốc tại Triều Tiên tín nhiệm. Giải Phương sinh năm 1908, tên cũ là Giải Bái Nhiên, còn trẻ đã tham gia Quân đoàn Đông Bắc, có quan hệ thân thiết với anh em Trương Học Lương, Trương Học Minh. Sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông, Giải Phương được anh em họ Trương bảo lãnh đưa đi học Trường Sĩ quan Lục quân Nhật Bản, sau khi tốt nghiệp về Quân đoàn Đông Bắc nhanh chóng được thăng cấp Thiếu tướng. Năm 1936, Giải Phương bí mật gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc, thuộc lớp đảng viên cộng sản bí mật đầu tiên của Quân đoàn này. Khi cuộc Kháng chiến chống Nhật bùng nổ, Giải Phương gia nhập Bát Lộ Quân, từng làm việc tại Bộ Tham mưu Quân ủy Diên An rồi ra chiến đấu tại mặt trận. Trong chiến dịch vượt biển giải phóng đảo Hải Nam, Giải Phương là Phó Quân đoàn trưởng kiêm Tham mưu trưởng Quân đoàn 40 của Dã Chiến Quân số 4, hiệp trợ Quân đoàn trưởng Hàn Tiên Sở chỉ huy quân đội giải phóng đảo Hải Nam. Khi chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Giải Phương làm Tham mưu trưởng Quân Chí nguyện Trung Quốc, giúp việc cho Bành Đức Hoài. Tư lệnh kiêu dũng thiện chiến họ Bành gọi Giải Phương là “Gia Cát Lượng của quân đội”.
Sau khi tham gia chỉ huy cả “5 chiến dịch” trên chiến trường Triều Tiên, Giải Phương nhận nhiệm vụ làm Đại biểu đàm phán của phía Trung Quốc – Triều Tiên. Nhờ thông thạo tiếng Nhật và biết qua tiếng Anh, lại có đầu óc khôn ngoan, trí tuệ hơn người, Giải Phương tỏ ra ngoan cường, kiên định trên bàn đàm phán, khiến cho các đại biểu đàm phán phía Mỹ ngạc nhiên trước sự sắc sảo của ông. Khi chiến trường Triều Tiên tạm thời yên lặng, Bành Đức Hoài từng nhiều lần nói “Sau khi về nước tôi sẽ giới thiệu Giải Phương cho Chu Ân Lai, để đồng chí ấy làm ngoại giao; nhân tài ngoại giao như vậy không nhiều!”
Vì thế mà sau khi về nước, trong thời gian trước khi Triều Tiên đình chiến, Giải Phương chưa xác định đi ở thế nào trước hai khả năng ở lại quân đội hoặc sang làm ngoại giao. Khi hội nghị Geneva quyết định tổ chức cuộc hội đàm giữa Tư lệnh quân đội hai bên Việt – Pháp tại mặt trận Việt Nam [tức Hội nghị Trung Giã] để bàn các vấn đề cụ thể trong đình chiến, Hồ Chí Minh bèn đề nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cử cán bộ có kinh nghiệm đàm phán quân sự sang giúp Việt Nam, lẽ tự nhiên Giải Phương là nhân vật được chọn đầu tiên trong danh sách này. Nhưng mới đầu lãnh đạo Quân ủy Trung ương Trung Quốc có chút luyến tiếc chưa muốn để Giải Phương vừa rời chiến trường Triều Tiên lại sang ngay chiến trường Việt Nam, cho nên đã từ chối đề nghị trên. Chu Ân Lai đang ở Geneva phải điện về nước, nói nếu không thể cử các tướng lĩnh quan trọng có kinh nghiệm đàm phán quân sự tại Triều Tiên như Đặng Hoa, Đỗ Bình, Giải Phương đi Việt Nam thì “nếu cần, chỉ có thể điều đồng chí Mã Mục Minh tương đối có kinh nghiệm đàm phán tại Triều Tiên đi Việt Nam công tác vậy.”[2]
Lưu Thiếu Kỳ chuẩn y cho Mã Mục Minh đi Việt Nam. Không ngờ phía Việt Nam vẫn khăng khăng mời Giải Phương. Kết quả là tháng 6 năm 1954, Giải Phương và Mã Mục Minh cùng đi Việt Nam rồi lại cùng về nước dự hội nghị Liễu Châu.
Mã Mục Minh nhớ rất rõ chuyện này. Mã là người Thiên Tân, sinh năm 1913, tốt nghiệp Đại học Bắc Kinh khoa tiếng Anh, trong Kháng chiến chống Nhật từng công tác tại Diên An, sau ngày thành lập nước CHND Trung Hoa, Mã làm việc tại Phòng Ngoại vụ Thiên Tân, về sau có tham gia cuộc đàm phán Bản Môn Điếm giữa phe Trung-Triều với phe Mỹ. Sau đình chiến Triều Tiên, Mã Mục Minh công tác tại Bàn Môn Điếm, phụ trách giải quyết vấn đề tù binh.
Tháng 6 năm 1954, Mã Mục Minh và Giải Phương đến Việt Nam. Hồ Chí Minh gặp hai người, tỏ ý nhiệt liệt hoan nghênh. Ông nói, Việt Nam đánh giặc bao năm nay, học được chiến đấu nhưng còn chưa biết ngừng chiến, cho nên mời các đồng chí đến giúp.
Trong ấn tượng của Mã Mục Minh, Tham mưu trưởng Giải Phương chỉ quan tâm quân sự, tự cho mình là ngoại đạo với công tác ngoại giao. Thế nhưng Giải Phương lại có hiểu biết rất sâu sắc về các vấn đề mà công cuộc đình chiến ở Việt Nam sẽ phải giải quyết. Trên chuyến tàu đi Liễu Châu, Giải Phương bảo Mã Mục Minh: “Các đồng chí Việt Nam có chút thái độ miễn cưỡng đối với việc đình chiến.”
Trên chuyến tàu đi Liễu Châu, Hồ Chí Minh thường ngồi cùng các cố vấn Trung Quốc. Dọc đường, các địa phương chiêu đãi nhiều món ăn làm từ thịt gà. Võ Nguyên Giáp thường hay gắp thức ăn cho Hồ Chí Minh; qua đó đủ thấy hai người có mối quan hệ thân mật với nhau.[3]
Chu Ân Lai sau khi đến Quảng Châu do trời nóng nên ăn uống kém, không được khỏe, phải nghỉ một ngày, đến sáng mùng 2 tháng 7 đáp máy bay rời Quảng Châu, giữa trưa đến Liễu Châu. Đến nơi, ông không nghỉ ngơi mà lập tức đi thăm Hồ Chí Minh đến đây trước, sơ bộ trao đổi ý kiến.
Lần này Chu Ân Lai mang theo các trợ thủ chủ yếu là Kiều Quán Hoa, Trương Văn Tấn. Phiên dịch viên chính tại hội nghị Liễu Châu là Trương Dịch. Bí thư Ngoại vụ của Chu Ân Lai là Mã Liệt cũng dự họp. Mã Liệt từng tham gia công tác trong Tổ Quân sự tại hội nghị Geneva, nắm được tình hình. Cộng thêm các cố vấn Trung Quốc từ Việt Nam trở về và Trần Mạn Viễn Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Tây phụ trách công tác viện trợ Việt Nam… Hội nghị Liễu Châu tập hợp nhiều người tài tham dự.
Cuộc họp lần thứ nhất bắt đầu vào 9 giờ sáng ngày 3 tháng 7 năm 1954. Tham dự hội nghị, phía Trung Quốc có Chu Ân Lai, Vi Quốc Thanh, La Quý Ba, Giải Phương, Trần Mạn Viễn, Kiều Quán Hoa. Phía Việt Nam có Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan. Mã Mục Minh làm nhiệm vụ thư ký hội nghị.
Trước tiên Hồ Chí Minh mời Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình chiến trường Đông Dương. Võ Nguyên Giáp lấy ra một bản đồ hình thái hai bên giao chiến tại Đông Dương, rồi bắt đầu thuyết trình. Bản báo cáo chia 4 phần: – Tổng thể tình thế chiến tranh; – So sánh lực lượng địch ta; – Tình hình Việt Nam; – Tình hình Campuchia và Lào.
Võ Nguyên Giáp nói, từ sau chiến dịch Điện Biên Phủ, tình thế rất có lợi [cho ta]. Hiện nay vùng Tây Bắc Việt Nam đã hoàn toàn giải phóng và đang được củng cố, chiến trường Lào có biến đổi lớn. Tại Liên khu 5 ở phía nam Trung bộ Việt Nam, lực lượng quân đội Việt Nam trước đây khá yếu nhưng nay địch đã rút khỏi nhiều vùng; quân đội Việt Nam đã giành được quyền chủ động chiến tranh.
Trên toàn bộ xứ Đông Dương, tổng binh lực quân Pháp và quân Bảo Đại có khoảng hơn 400 nghìn lính, kể cả lính Hương dũng địa phương. Pháp đã tăng thêm binh lực lấy từ Pháp sang để bổ sung binh lực bị tiêu hao trong chiến tranh. Trong tổng binh lực 190 nghìn quân viễn chinh Pháp có khoảng 120 nghìn lính Âu-Phi. Quân Bảo Đại có chừng 240 nghìn lính. Quân đội vương quốc Lào có khoảng 17 nghìn người. Số binh lực nói trên gồm cả quân chính quy và quân bổ sung và hậu cần, hải quân, không quân. Quân đội Pháp bị phân tán cao độ, binh lực cơ động không quá 110 nghìn lính. Tổng binh lực quân địch tại Tam giác châu thổ sông Hồng có thể là 180 nghìn lính.
Võ Nguyên Giáp nói, tổng binh lực của chúng tôi vào khoảng 300 nghìn người (kể cả bộ đội địa phương và quân du kích). Trong đó 295 nghìn là bộ đội Việt Nam; lực lượng do Bộ Tổng Tư lệnh chỉ huy có 6 sư đoàn bộ binh, 2 sư đoàn pháo binh. Ngoài ra còn có 4000 bộ đội Lào và khoảng 3000 bộ đội Khmer. Chiến trường Việt Nam là chiến trường chính tại Đông Dương; đối thủ có 90% lực lượng đóng tại Việt Nam. Hiện nay các trung tâm kinh tế quan trọng đều do Pháp kiểm soát, như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Đà Nẵng. Một phần ba lực lượng kinh tế là ở Bắc Bộ, chủ yếu là công nghiệp than, xi măng. Thực lực kinh tế Nam Bộ chiếm hai phần ba.
Nước Lào đất rộng người thưa, vùng dọc sông Mê Kông sản xuất nhiều thóc lúa. Hiện nay Liên quân Việt-Lào kiểm soát một vùng rộng 130 nghìn ki-lô mét vuông, miền Bắc đã được củng cố, nhưng miền Nam và vùng mới kiểm soát còn chưa nối liền với nhau. Bộ đội Việt Nam đã vào đất Lào có 14 nghìn người, cộng với vài nghìn bộ đội Lào Souphanouvong, tạo ra hình thế quân sự tương đối có lợi. Tuy nhiên, nếu rút bộ đội Việt Nam ra khỏi Lào thì bộ đội Souphanouvong sẽ gặp khó khăn. Hiện nay ở Lào có khoảng 220 người trước đây tham gia Đảng Cộng sản Đông Dương, số người này có cơ quan lãnh đạo.
Võ Nguyên Giáp cho rằng Quốc vương Sihanouk vẫn có ảnh hưởng tại Campuchia. Trong lịch sử, giữa Việt Nam và Campuchia thường xảy ra chiến tranh và Pháp hay lấy chuyện đó ra để khiêu khích mối quan hệ giữa hai nước. Hiện có khoảng 1000 bộ đội Việt Nam đã vào Campuchia. Số người Campuchia trước đây gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương có chừng hơn 100 người.
Do phải phiên dịch nên báo cáo của Võ Nguyên Giáp nói hết buổi sáng vẫn chưa xong, phải làm thêm vào buổi chiều. Sau đó Vi Quốc Thanh, Trưởng đoàn Cố vấn Trung Quốc, phát biểu. Ông nói các số liệu trong báo cáo của Võ Nguyên Giáp tương đối mới, có thể thấy quân Pháp đã bổ sung thêm binh lực, cho nên tổng số không giảm nhưng chất lượng kém đi. Vì quân Pháp co cụm nhiều vào đồng bằng sông Hồng cho nên hiện nay sẽ khó tấn công vào nơi đó. Khi Vi Quốc Thanh đang nói, Chu Ân Lai xen vào hỏi: Nếu Mỹ không can thiệp, Pháp vẫn cứ tăng binh lực, tiếp tục đánh thì bao lâu nữa ta mới giành được toàn bộ Đông Dương?
Vi Quốc Thanh cho rằng nếu sửa xong đường xá thì cần 2 đến 3 năm, nhưng cũng chưa tuyệt đối cầm chắc. Ông cho biết La Quý Ba cũng đồng ý với quan điểm này.
Hồ Chí Minh cũng tán thành, ông nói trong các điều kiện như trên, phía Việt Nam đánh tiếp 3 đến 5 năm nữa có thể giành được thắng lợi.
Khi buổi họp ban chiều sắp kết thúc, Chu Ân Lai trình bày sơ lược quan điểm về tình hình quốc tế hiện nay. Ông cho biết, vấn đề Đông Dương đã quốc tế hóa; Mỹ và Liên Xô không cuốn vào cuộc chiến tranh Đông Dương, đều muốn cục bộ hóa vấn đề này. Vấn đề Đông Dương cũng ảnh hưởng tới toàn bộ Đông Nam Á, ảnh hưởng tới tình hình châu Âu và thế giới. Hội nghị Geneva có ảnh hưởng tới Chính phủ Pháp, làm cho nước Pháp phải thay Chính phủ, có thể thấy địa vị của Pháp tại châu Âu thì có quan hệ với mâu thuẫn trong nước. Vấn đề Đông Dương cũng ảnh hưởng tới Anh Quốc. Nước này có quan hệ với 7 vùng: Pakistan, Ấn Độ, Tích Lan [Ceylon, nay là SriLanka], Malaysia, Hong Kong, Australia và New Zealand. Vấn đề Đông Dương cũng ảnh hưởng tới Mỹ. Nước này tạo ra một tuyến phong tỏa trên toàn thế giới mà Đông Dương là một mắt xích quan trọng. Đông Dương đã trở thành khâu nối liền 3 châu Á – Phi – Âu.
Chu Ân Lai nói chúng ta nên tranh thủ giành hòa bình, tăng cường lực lượng hòa bình. Cần phải phát triển hòa bình để cho Mỹ không thể kiếm cớ gây chiến tranh. Phải ngăn chặn Mỹ can thiệp vào 3 nước Đông Dương. Ông nói, vấn đề Triều Tiên trở nên phức tạp là do Mỹ tăng viện nhanh chóng, bất ngờ. Nhân cơ hội Liên Xô không ở trong Hội đồng Bảo an [trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 8/1950 Liên Xô tẩy chay Hội đồng Bảo an với lý do Hội đồng không tiếp nhận CHND Trung Hoa], Liên Hợp Quốc đã tiến hành can thiệp [vào chiến tranh Triều Tiên]. Nếu Mỹ không tăng viện thì phía Triều Tiên đã đuổi Lý Thừa Vãn xuống biển từ lâu rồi. Hiện nay Đông Dương lại trở thành một vấn đề như vậy. Kẻ đương sự thường hay bị hạn chế cục bộ. Gần đây nhất, Anh Mỹ tổ chức họp ở Washington, Mỹ cũng chuẩn bị hai con đường. Nếu Đông Dương không hòa bình thì Mỹ sẽ can thiệp. Nhìn từ điểm này thì chúng ta còn chưa thể nhanh chóng giành được toàn bộ xứ Đông Dương.
Chu Ân Lai đề xuất: Nếu tại Việt Nam lấy vĩ tuyến 16 làm đường phân giới [chia vùng tập kết] và Lào cùng Campuchia trung lập, cô lập Bảo Đại, hai năm sau đó tiến hành tổng tuyển cử do Liên Hợp Quốc giám sát, Đảng Lao động [Việt Nam] có khả năng tuyển cử thành công. Nếu làm tốt công tác thì có khả năng giành được toàn bộ Việt Nam, xu thế này là có thể khẳng định. Vì thế hiện nay chỉ có một nhiệm vụ là giành hòa bình cho Đông Dương, dùng phương thức hòa bình giành lấy toàn bộ Việt Nam, tiến hành thi đua hòa bình, làm cho tình hình thế giới phát sinh sự thay đổi có lợi cho chúng ta.
Phiên họp thứ ba bắt đầu vào 8 giờ tối hôm đó. Chu Ân Lai phát biểu một bài dài với chủ đề “Vấn đề chiến tranh và hòa bình”. Tư tưởng trung tâm của bài nói là phải dốc toàn lực tranh thủ hòa bình giải quyết vấn đề Đông Dương. Nếu không làm được điều đó thì cuộc chiến tranh Đông Dương có nguy cơ bị mở rộng. Nếu thế thì sẽ nguy hiểm, sẽ phải trả giá nặng nề.
Ông nói, trên vấn đề Việt Nam [ta phải] áp dụng mô hình Triều Tiên, vạch một đường phân giới tạm thời; xem ra có lẽ [phải] cắt Nam Bộ ra, tạm thời Nam Bộ bất lợi. Nhưng có thể đợi đến tổng tuyển cử, ta có thể giành thắng lợi trong tổng tuyển cử. Vấn đề này phải nhìn từ lâu dài, nếu Mỹ tiến hành can thiệp thì có thể tất cả sẽ mất hết. Nếu Mỹ lập căn cứ tại Xiêng Khoảng (Lào), nếu Bảo Đại ngả vào lòng Mỹ thì Nam Bộ Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng, thậm chí bị tàn phá. Cho nên phải nhìn vấn đề theo quan điểm biến đổi và phát triển. Dẫu rằng không thay đổi, cứ đánh tiếp thì cũng phải 3 năm. Nếu Mỹ can thiệp thì vùng đỏ sẽ biến thành vùng trắng. Trung Quốc đã có quá nhiều kinh nghiệm về mặt này. Hồi Hồng quân Công nông Trung Quốc tiến hành cuộc trường chinh, từng để lại mấy nghìn người địa phương (tại khu Xô-viết Giang Tây), sau này số người ấy đều mất cả [bị địch tiêu diệt].
Nếu làm theo phương châm của Đảng Cộng sản Liên Xô và Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tranh thủ giành hòa bình cho Đông Dương, vạch đường phân giới, như vậy đối với Việt Nam mà nói, sẽ có thể lấy được một vùng đất để củng cố, khu giải phóng có số dân 12 – 13 triệu người, nhiều dân hơn cả Bắc Triều Tiên, còn có cảng đường biển, có thể hình thành một hình thế ở Đông Nam Á. Sau này Trung Quốc và Việt Nam làm đường sắt nối thông nhau, dù Nam Bộ Việt Nam nhất thời chưa thể tổng tuyển cử thì ta vẫn có thể gây ảnh hưởng tới Nam Bộ. Cao Miên, Khmer dù có lạc hậu chút ít thì cũng còn tốt hơn trở thành căn cứ địa của Mỹ.
Trong tình hình ngược lại thì trước tiên sẽ bất lợi cho Đông Dương. Nếu Mỹ can thiệp thì trước hết Đông Dương sẽ bị thiệt hại. Có trường hợp một địa phương này chậm được giải quyết nhưng lại có lợi cho toàn cục, cho nên có lúc phải đợi một chút. Cần phải căn cứ theo khả năng mà hành sự. Cần nói rõ điểm này. Trung Quốc từng có ví dụ như sau: Chúng tôi rút ra khỏi vùng đã chiếm lĩnh, như vùng Đại Biệt Sơn, vùng Đông Giang ở Quảng Đông. Chúng tôi đi rồi, giữa chừng cách một, hai năm hoặc 4 năm chúng tôi lại trở về. Cần nói rõ cho các cán bộ biết, việc rút đi phần lớn cán bộ, để lại một phần cán bộ là tốt cho tương lai. Nên nói rõ cho dân chúng biết, sau này chớ có oán trách. Nên nói rõ cho các Ủy viên Trung ương Đảng, các cán bộ trung, cao cấp, giải thích cho họ thấy nếu tiếp tục đánh thì trên mặt quân sự sẽ không thể giành được toàn bộ Việt Nam, và cũng có thể không giữ được các lợi ích trước mắt. Nếu áp dụng phương thức hòa bình thì có thể giành được toàn bộ Việt Nam, nhưng chỉ là “có thể” chứ không phải là nói nhất định giành được [toàn bộ Việt Nam]; phải xem sự vật phát triển ra sao.
Chiến dịch Điện Biên Phủ chứng tỏ chúng ta đã có thay đổi về chất lượng, tuy rằng còn chưa thể nói chúng ta đã có khả năng giành được thắng lợi trên toàn Việt Nam. Tuy nhiên chiến dịch này làm kẻ địch tỉnh người ra, thúc đẩy chúng hạ quyết tâm tiến hành can thiệp. Kẻ địch gặp khó khăn về phương pháp can thiệp, chúng sợ Trung Quốc “khuếch trương” cho nên không để cho Việt Nam giành được thắng lợi lớn hơn. Vì vậy, xét từ bất cứ mặt nào, xem ra muốn dựa vào chiến thắng quân sự để giành được toàn bộ Việt Nam là không thể được. Tuy thế lại tồn tại khả năng [dùng phương thức] hòa bình giành được toàn cõi Việt Nam; nhưng bao giờ mới giành được thắng lợi ấy thì phải thực hiện từng bước. Hiện giờ xem ra đường số 9 hầu như không có vấn đề, ta có thể giữ vững. Về Đà Nẵng, có thể xem xét tiếp tục để Pháp chiếm đóng một hai năm nữa, có thể coi đó là một biện pháp. Phía bắc vĩ tuyến 16 là nơi Việt Nam dựng nước, có 13 triệu dân, có thể xây dựng, có cảng biển, lại có thể làm đường sắt, có thể đưa cán bộ ra nước ngoài tiếp thu huấn luyện quân sự, ít nhất cũng có thể tăng cường lực lượng vũ trang hiện có, sau này [các cán bộ] giữ lại ở vùng du kích cần làm tốt công tác địa phương.
Việc giải quyết vấn đề Đông Dương cần tham khảo tình hình Triều Tiên. Cuộc tổng tuyển cử tại Triều Tiên phải được hai bên hiệp thương bàn bạc, ấn định biện pháp bầu cử. Nếu cuộc hiệp thương giữa hai bên Triều Tiên làm không tốt thì Việt Nam cũng sẽ không làm được, nhất định phải có một hai năm phát triển.
Chu Ân Lai nói tiếp, hòa bình có thể làm tăng mâu thuẫn giữa Pháp với Mỹ. Thậm chí Mendès-France cũng từng nói, nếu không thể hòa bình thì chỉ có thể quốc tế hóa [cuộc chiến tranh Đông Dương]. Nếu Mendès-France thất bại, Đảng Cộng hòa nhân dân hoặc Đảng Xã hội lên nắm chính quyền ở Pháp, như thế đều không có lợi cho việc giải quyết vấn đề Đông Dương.
Về điều kiện ngừng bắn ở Việt Nam, Chu Ân Lai cho biết Mendès-France sau khi nhậm chức Thủ tướng muốn giành lấy Hải Phòng [làm nơi tạm thời tập kết quân đội Pháp]. Về điều kiện ngừng bắn, vấn đề này dễ giải quyết, sau cùng có thể lấy vĩ tuyến 16 làm đường phân giới. Nhỡ ra không giải quyết được thì có thể xem xét lấy đường số 9 làm đường phân giới. Với cảng Đà Nẵng và Huế, có thể đặc biệt quy định cho Pháp chiếm đóng một, hai năm, như thế ta có thể giành lấy các điều kiện khác.
Điều kiện ngừng bắn ở Đông Dương là: 1- Đồng thời ngừng bắn; 2- Chia vùng lãnh thổ; 3- Không đưa thêm quân đội và vũ khí đạn dược vào. Như thế có thể bịt đường Mỹ vào. Trước khi đình chiến, quân đội Việt Nam cần bao nhiêu vũ khí đạn dược, chúng tôi [Trung Quốc] có thể vận chuyển vào từ trước, sau đó trong vòng nửa năm sẽ không chở vũ khí đạn dược vào Việt Nam nữa. Đề nghị các đồng chí lập kế hoạch để chúng tôi vận chuyển. Có thể chở vào Việt Nam các thứ cần dùng cho 10 sư đoàn bộ binh.
Về vấn đề tổng tuyển cử. Khi giải thích cho cán bộ và quần chúng, không được nói tổng tuyển cử là việc dễ làm, vấn đề này phải trải qua đấu tranh lâu dài. Dĩ nhiên, Đông Dương cũng không thể chia để trị lâu dài.
Cuộc họp hôm đó chia làm 3 phiên sáng, chiều và tối. Giữa hè nóng bức, hồi ấy còn chưa có máy điều hòa, ngồi trong nhà cũng đổ mồ hôi như mưa. Vì khó chịu được cái nóng, Hồ Chí Minh phải quấn một chiếc khăn ướt trên đầu để hạ nhiệt, Chu Ân Lai vẫn đóng bộ chỉnh tề.
Để phục vụ hội nghị Liễu Châu, Phòng Lễ tân của Tỉnh ủy Quảng Tây đã cử đến đây những cán bộ thạo việc. Bà Khương Chấn Kiệt phụ trách chỗ ăn nghỉ của phái đoàn Việt Nam vốn là cán bộ đi theo đại quân của Dã Chiến Quân số 4 đánh từ Đông Bắc đến Quảng Tây, sau khi vào thành phố được cử làm công tác tiếp đón, nay đã là một cán bộ tiếp đón giàu kinh nghiệm. Hôm ấy Hồ Chí Minh đi họp, bà Khương vào phòng ông kiểm tra vệ sinh, thấy trên sàn nhà có một sợi dây vải, chẳng rõ dùng làm gì, có lẽ Hồ Chí Minh dùng để buộc thứ gì đó, thế là bà bỏ nó vào thùng giấy. Chẳng ngờ Hồ Chí Minh họp xong về phòng vội hỏi nhân viên phục vụ: “Cái thắt lưng của tôi đâu rồi?” Người này nói không nhìn thấy và lập tức báo cáo bà Khương. Bà vội đến phòng Hồ Chí Minh ở, lấy chiếc dây vải từ thùng giấy ra hỏi: “Có phải là chiếc dây này không ạ?” Hồ Chí Minh gật đầu nói có lẽ tôi để trên thành ghế rơi xuống, và nói ông đang dùng nó. Bà Khương cảm động nói: “Hồ Chủ tịch thật là giản dị!”.[4]
(Còn tiếp Phần 2)
————-
[1] Phòng Nghiên cứu văn hiến của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc biên soạn: “Niên phổ Chu Ân Lai. 1949 – 1976”. Nhà xuất bản Văn hiến Trung ương xuất bản năm 1997, quyển Thượng, trang 386.
[2] Phòng Nghiên cứu văn hiến của Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc biên soạn: “Niên phổ Chu Ân Lai. 1949 – 1976”. Nhà xuất bản Văn hiến Trung ương xuất bản năm 1997, quyển Thượng, trang 384.
[3] Ghi chép phỏng vấn Mã Mục Minh, do tác giả thực hiện tại Bắc Kinh ngày 28/9/1995. Trong hội nghị Liễu Châu, Mã Mục Minh là người ghi chép của nhiều phiên họp. Ông đặc biệt giải thích với tác giả sách này: “Tôi ghi chép cực nhanh, ghi được tất cả mọi sự việc lớn nhỏ trong hội nghị. Sau khi đọc bản ghi chép của tôi, Chu Ân Lai nói không cần ghi chép chi tiết thế, rồi ông lấy bút xóa đi rất nhiều chỗ, phần nhiều chỗ bị xóa bỏ là các điểm bất đồng giữa hai bên [Trung Quốc-Việt Nam]. Vì thế hồ sơ lưu trữ tại Phòng Lưu trữ hồ sơ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc có một số điểm không khớp với bản ghi chép của tôi. Chủ yếu là trong văn bản hiện lưu trữ rõ ràng thiếu mất những ý kiến bất đồng.”
[4] Ghi chép phỏng vấn Hứa Kỳ Thiên, do tác giả thực hiện tại Bắc Kinh ngày 9/6/2004.