Đọc sách Cám dỗ tự do của Nguyễn Hữu Liêm

Đào Văn Bình

Vào ngày 9/11/2025, tại Tu viện Huyền Không, San Jose, tôi đã tham dự  buổi ra mắt sách Thiền trong kinh điển Pali của nhóm Dự án Phật học tinh hoa thế giới do Sư cô Vỹ Nghiêm và Sư cô Như Hiếu ở trong nước phiên dịch từ tác phẩm của Ni sư Sarah Shaw hiện đang giảng dạy Phật học tại Đại học Oxford (Anh Quốc). Sách được thầy Thích Pháp Cẩn trụ trì chùa Phổ Giác (Marina) trang trọng giới thiệu.

Hiện diện trong buổi ra mắt sách có một số cư sĩ uyên thâm Phật học đến từ Sacramento, California và San Jose tỉnh nhà. Nhân dịp này tôi gặp lại Luật sư Nguyễn Hữu Liêm mà lâu lắm anh em không gặp nhau. Sau buổi ra mắt sách, ăn cơm trưa tại chùa, Liêm (kém tôi 14 tuổi) mời tất cả về nhà riêng uống rượu nho và tha hồ mạn đàm (tán dóc). Nhân dịp này Liêm tặng tôi cuốn sách Cám dỗ tự do mới vừa xuất bản.

Nhìn cuốn sách dày cộm 595 trang, tôi giật mình. Thời buổi này người ta chỉ thích vào Facebook, Twitter, YouTube hay e-book để nghe, nhìn chứ chẳng ai có thì giờ đọc sách in. Sách bán chạy nhất ở Hoa Kỳ ngày nay là sách viết về những vụ tai tiếng liên quan tới những nhân vật nổi tiếng đương thời. Viết sách và in sách văn chương, triết học lúc này là điên khùng. Người đọc cuốn sách dày 595 trang để giới thiệu cũng điên khùng. Thế nhưng nhân loại lúc nào cũng có rất nhiều người điên khùng. Có người điên khùng hại người nhưng có những điên khùng lại hữu ích. Đã mang kiếp con tằm thì phải nhả tơ. Đã sống với đầu óc và trí tuệ, bút nghiên thì phải viết sách chứ không thể lên võ đài, đá bóng hay mở tiệm ăn, kinh doanh, bán hàng hay làm nghề quảng cáo. Đó là nghiệp.

Phải nói, kiến thức của Nguyễn Hữu Liêm rất quảng bác và đa dạng bao quát rất nhiều đề tài thường liên quan tới Triết học vì anh giảng dạy Triết tại San Jose City College, Hoa Kỳ. Sách là một tuyển tập sáu chương viết theo dòng thế sự và sự chín muồi của tuổi tác kéo dài từ 2003 tới 2025 – tức hai mươi hai năm. Sách được Lê Giang Trần giới thiệu rất kỹ lưỡng trong phần mở đầu. Hầu hết các bài viết của Liêm đều được đăng trên talawas đã đóng cửa vào năm 2008 sau 9 năm hoạt động

Chương 1. Những tản mạn về văn hóa và nghệ thuật

Trong chương này tác giả cho in lại những bài viết đã gây phản ứng gay gắt của một số nhà văn, nhà báo trong nước cũng như hải ngoại khi Nguyễn Hữu Liêm phê bình cái “dòng âm nhạc bi đát, yếu đuối, trống rỗng và băng hoại” của Miền Nam trước đây và cái õng ẹo, rên rỉ vô hồn của một vài cô ca sĩ hải ngoại nổi tiếng lúc bấy giờ mà tác giả cho rằng chỉ nhai lại những bài hát “tủi thân và bi đát”. Và “Những nhạc phẩm được diễn đạt như thế, là những bài văn tế cho những tâm hồn mất quê hương và mất nước.”. Rồi tác giả nặng nề công kích cái giọng ai oán của nền nhạc Huế, “Từ khi Nhà Nguyễn thấm nhập cái âm nhạc mất nước của dân tộc Chàm bằng những lời ca Huế thì triều đại này chỉ còn đi xuống dốc. Nghe nhạc Huế  thì chỉ còn muốn nhảy xuống Sông Hương mà tự vẫn.”

Thông thường, trong các sách của mình, người ta chỉ cho in các lời tựa hay lời giới thiệu của những cây bút thân quen, thăm tiếng và thường khen ngợi tác giả. Thế nhưng ở đây, Nguyễn Hữu Liêm đã cho in cả những bài viết công kích, lên án ông một cách dữ dội như: Đừng đổ tội oan cho nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam của Trịnh Thanh Thủy. Rồi sự phản đối viết bằng tiếng Đức của Patrick Raszelenberg do Lê An dịch ra tiếng Việt.

Từ việc làm nghịch thường này, tôi thấy, qua những lời văn cay nghiệt, táo bạo, không kiêng nể, Nguyễn Hữu Liêm là một kẻ sĩ ngang tàng, dám nói ra những gì mình suy nghĩ, không phải vì mình mà vì người. Nó như những nhát dao của bác sĩ giải phẫu một con bệnh trầm kha, hậu quả của chiến tranh triền miên, đói nghèo, thù hận và chia rẽ. Chiến tranh và đói nghèo nó tàn phá lương tâm và trí tuệ con người, nói chi đến văn học và nghệ thuật. Đất nước Việt Nam cần có những viên thuốc đắng hay thần dược để con người được sống tự do, chân thật và tươi đẹp hơn.

Rồi trong bài viết Cái tật văn chương tào lao, tác giả lại tạo sóng gió khi nói rằng, “Người Việt ở ngoài Bắc thì ưa viết văn, người Trung thì làm thơ, người Nam thì làm báo. Văn của dân Bắc Hà thì mang cái bệnh đểu, bệnh “sâu sắc” của diễn tả bóng gió, nói cay, nói đắng, lấy cái gia vị của ớt, của gừng làm cái ngon miệng… vì thức ăn chẳng có gì. Thế mà bà con cứ ào lên khen hay. Đọc Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài hay gần đây Nguyễn Quang Lập thì thấy điều đó.” Rồi thì, “Dân Bắc bây giờ bị đồng hóa bởi dân Nam qua cái bệnh nhậu, bệnh làm báo. Cho nên cần đổi tên Sài Gòn thành Thành Phố Nhậu.”

Thế nhưng dù “c” Phạm Thị Hoài, tác giả cũng đưa vào một bài viết của bà Hoài nhan đề Thứ Hai tuần sau của văn chương mà tôi không thể nào hiểu được tác giả muốn nói gì vì tác giả đi miên man và không cô kết được những gì mình viết ra. Rồi bài viết của Nguyễn Hoàng Văn nhan đề Phê bình tào lao vừa khen vừa chê Nguyễn Hữu Liêm. Rồi bài viết Bên bàn “nhậu” văn chương, tác giả Hải Đường như một đồng điệu với Nguyễn Hữu Liêm.

Trong Chương 1 này tác giả còn đưa vào một số bài viết rất “nặng ký” như:

– Từ Kiều đến Nietzsche: Khủng hoảng văn học

– Tân vô sản Việt Ở California: Khi ước mơ chính là lẽ sống

– Trong Hồn Nhiên Thứ Nhất

– Suy tưởng từ Hy Lạp: Hãy biết yêu chiến tranh và sợ hòa bình

– Từ gian khổ đến kịch nghệ: Một kiểm thảo

– Mặt trăng và đầu lâu: Điên loạn bóng đá

– Khi Mộng Ruộng muốn làm Chúa Trời

Hoan hô chiến tranh: Đả đảo hòa bình

– Đôi lời với TBT Nguyễn Phú Trọng về văn hóa Việt Nam hôm nay

– Tưởng niệm Tiến sĩ Lý Khôi Việt

– Dân tộc Việt: Khối nhân quần đang ở tuổi thiếu niên

Của hai mươi lăm năm trước và sau

Trong 12 bài viết  này tôi chú ý tới bài Mặt trăng và đầu lâu: Điên loạn bóng đá. Điên cuồng từ trong nước tới hải ngoại về một môn thể thao vô bổ khi tác giả viết: “Bây giờ ở San Jose suốt tuần qua đi ngang qua các quán cà-phê Việt Nam, tôi nghe tiếng reo hò của những đám thanh niên ngồi xem màn hình chiếu các trận bóng đá. Tôi nhìn lên trời tìm Mặt Trăng đâu đó giữa ban ngày để hình dung Nàng Nguyệt mỉm cười khoái lạc… đang tiếp nhận, háo hức thu hút khối năng lượng và tình cảm điên loạn từ đám nhân loại giống đực điên rồ (ở Việt Nam ngày nay đàn bà con gái cũng điên loạn theo bóng đá còn hơn con trai) đang cống hiến năng lực một cách vô thức và hoan hỷ.”

Và tôi cũng chú ý tới bài viết Đôi lời với TBT Nguyễn Phú Trọng về văn hóa Việt Nam hôm nay năm 2021  khi ông Nguyễn Phú Trọng than phiền đất nước Việt Nam thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn. Giờ đây ông Nguyễn Phú Trọng đã qua đời. Những lời gửi tới ông không thể nào thực hiện được nhưng cũng cần xem Nguyễn Hữu Liêm đã nói gì với ông. Trong bức thư ngỏ, Nguyễn Hữu Liêm đã cô kết thành một đoạn, “Giáo sư Trọng hãy lấy cái Tâm trong sáng của mình để quyết tâm và can đảm kiến tạo và hoàn tất cho dân tộc một tác phẩm văn hóa, một cơ đồ chính trị lớn lao mà dân tộc và lịch sử sẽ phải ghi công. Đó là tác phẩm Tự Do Cho Việt Nam.”

Chương 2. Tôn Giáo

Chương này gồm 14 bài, bàng bạc những điều cấm kỵ, tế nhị mà ít nhà bình luận hay trí thức Việt Nam nào dám bàn tới vì dân Á Châu, Phi Châu và Trung Đông cuồng tín hơn dân Âu Châu. Hễ động tới tôn giáo mình hay giáo chủ của mình là đánh bom tự sát hay xuống đường đâm chém liền, trong khi đối với Tây Phương thì chỉ là chuyện bình thường. Người Âu Châu hiểu được giá trị của tự do tư tưởng và tự do ngôn luận trong tinh thần gọi là “cởi mở” (open minded) tức chấp nhận những gì trái ý mình, nó là nguồn động lực để xã hội tiến lên. Nó giống như hơi thở của con người vậy. Mười bốn bài gồm có:

Của Ananda và Peter: Khi nhân loại trùng tu

– Nhân dịp Lễ Tạ Ơn ở Mỹ: Hướng đến một văn minh lao động mới

– Con người và Thượng đế: Một ý nghĩa về lễ Giáng sinh

– Bước vào hiện tượng con người: Một ý nghĩa cho ngày Phật đản

– Phật giáo va ý chí lập quốc: Trường hợp Tây Tạng

– Tại sao Phật tử Việt Nam nay theo đạo Chúa?

– Tính Không và Thượng đế: Từ thoái trào Phật giáo đến cao trào Tin Lành ở Việt Nam

– Phục sinh chinh trị Công giáo Việt Nam và đế chế Cộng sản

– Một lịch sử đã muộn: Vấn đề lịch sử giữa Phật giáo và Công giáo ở Việt Nam

– Công giáo và Cộng sản: Lý do Giáo hoàng chưa thăm Việt Nam

– Thích Nhất Hạnh: Người đánh khẽ tiếng chuông tỉnh thức cho thế giới

– Tưởng niệm Tuệ Sỹ (1945-2023): Khi cái chết trở nên huyền thoại

– Khủng hoảng Phật giáo Việt Nam và sự suy tàn đế chế chính trị cộng sản

Trong chương này tôi chú ý tới bài Một lịch sử đã muộn: Vấn đề lịch sử giữa Phật giáo và Công giáo ở Việt Nam khi tác giả nhắc lại chiến dịch đòi lại Tòa Khâm Sứ Hà Nội của TGM. Ngô Quang Kiệt năm 2008 vì cho đó là tài sản của Giáo hội Công giáo Việt Nam. Đòi hỏi này khiến quá khứ được khai quật khi sách sử còn ghi  rằng trước năm 1883 toàn bộ khu đất Nhà Thờ Lớn ngày nay và Tòa Khâm Sứ cũ là đất trên Chùa Báo Thiên, có lịch sử từ đời Lý (1057). Năm 1883 Giám mục Puginier dưới sự hỗ trợ của chính quyền thực dân Pháp đã chiếm chùa để xây nhà thờ và Tòa Khâm Sứ. Nhà thờ lớn Hà Nội (còn gọi là nhà thờ Saint Joseph) bắt đầu xây từ năm 1884 và khánh thành ngày 24/12/1886. Rồi Chùa Lá Vàng dưới thời ông Ngô Đình Diệm biến thành Thánh Địa La Vang. Tác giả cũng nhắc lại phản ứng của một số trí thức Phật tử trong đó có những người đã từng là tín đồ Thiên Chúa Giáo chỉ vì “nỗi nhục lịch sử trước vấn nạn Thực Dân Pháp mà đạo Công Giáo nhiều hay ít đã nhờ vào để bành trướng.” (trang 228). Tác giả đã nêu ra trường hợp điển hình như một đề nghị, “Khi những cáo trạng công lý hiện thực từ lịch sử cũ không được giải quyết thì hệ quả lâu dài sẽ có nguy cơ kinh hoàng. Hãy nhìn đến lịch sử nội chiến giữa Tin Lành và Công Giáo ở Ái Nhĩ Lan hay hai phe Hồi Giáo Shiite và Sunni ở Trung Đông khi người đương thời không chịu đối diện vấn đề khi vẫn còn có cơ hội giải quyết.”

Tới đây tôi không rõ thế hệ sau ở Việt Nam sẽ ôn hòa, biết điều hơn hay lại cuồng tín như thế hệ cha anh? Một ngôi đền thờ hay thánh đường hay tòa khâm sứ to hơn, quan trọng hơn sự an lành, đoàn kết, sống chung với nhau trong một quốc gia? Theo tôi nghĩ, nếu thế hệ đi trước còn hận thù thì thế hệ sau sẽ “tiếp nối cha anh” và sẽ lại hận thù. Nghiệp chuyển từ đời này sang đời kia. Ngày nay trong các quốc gia Hồi giáo ôn hòa như Nam Dương, Mã Lai, Thổ Nhĩ Kỳ, Nam Á… cuồng tín là điều từ từ bị loại bỏ.

Chương 3. Chính Trị

Trong chương này có cả thảy 14 bài:

Làm người Cộng sản Việt Nam có dễ không?

– Có phải Tô Lâm là Trần Thủ Độ ngày nay?

– Giữa nơi Đại hội Việt Kiều: Một nỗi bình an

– Logic thương tích gặp trí tuệ nông dân

– AI và ảo vọng toàn năng: Tương lai chinh trị Việt Nam năm 2023

– Khi Hồ Chí Minh bước xuống thánh giá Cộng sản

– Nỗi lòng Ức Trai và Tố Như: Tâm tư TBT. Nguyễn Phú Trọng

– Trung Quốc 75 năm và bài học cho Việt Nam

– Bi hài kịch: Việt Nam hậu Cộng sản

– Khi tượng đài mất linh hồn từ góc độ triết học

– Vẫy tay gọi nhau làm người: Về những bản án chính trị ở Việt Nam

– Ngày 12/12/1974: Trận Phước Long khởi đầu một cứu rỗi mới

– Thập niên 1980-1990 và Phong trào kháng chiến phục quốc hải ngoại

– Chiến tranh là da thịt lịch sử

Trong 14 bài tôi chú ý tới hai bài Logic thương tích gặp trí tuệ nông dân. Trong bài này  tác giả nhắc lại buổi họp ngày 14/10/2022 tại nhà với Ủy ban Người Việt nước ngoài đến từ Hà Nội cùng một số nhân sĩ Việt kiều. Buổi họp diễn ra tương đối thẳng thắn về chính sách đối với kiều bào. Theo Nguyễn Hữu Liêm, nhà nước Việt Nam vẫn chưa sòng phẳng với quá khứ. Nghị Quyết 36 không nói gì “Về những sai lầm lớn lao và ác độc của Đảng CSVN sau 1975 đối với dân Miền Nam, nhất là dân Sài Gòn… Nghị Quyết 36 vẫn còn là sản phẩm của trí tuệ nông dân.” Tuy nhiên tác giả nhận định rằng, “Nghị Quyết là một cách mạng tư duy lớn của Đảng. Từ cáo buộc phản quốc, bắt giam đối với những người vượt biên sau năm 1975, chính thức công nhận kiều bào là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc. Từ việc Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết sang Quận Cam gặp gỡ kiều bào, cho phép cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ, nhạc sĩ Phạm Duy…về sống ở nước nhà cho đến chính sách miễn thị thực, công nhận song tịch, mua bán bất động sản…đã chứng tỏ những thiện chí vượt bực.” (trang 281) Cuối cùng tác giả kết luận, “Cần một nghị quyết kiều bào mới và một lời xin lỗi.” (trang 283) Thế nhưng những nhà chống cộng lại nói rằng Nghị Quyết 36 chỉ nhằm nhuộm đỏ hải ngoại. Và  thật sự họ đã nhuộm đỏ được hải ngoại khi theo thống kê năm 2024, số ngoại tệ gửi về Việt Nam (kiều hối) là 16 tỷ Mỹ Kim và theo báo Tuổi Trẻ, số người Việt về thăm gia đình, mỗi năm là một triệu người. Con người ta cũng giống như loài chim. Đất dữ không có ăn thì bỏ đi. Đất lành thì chim đậu. Cho nên người ta phải bảo vệ những khu vườn nguyên sinh và nhiều khi cho chim ăn để chúng quay về sinh sống và làm tổ.

Chương 4. Triết học

Gồm những bài:

– Suy nghĩ về Trần Đức Thảo

– Đọc và phản biện Kant: Sao sáng trên trời & quy luật đạo đức trong ta

– Cái chết của triết gia tiếng Việt

– Giữa Thực và Ảo: Thực tại núi rừng Khe Sanh và thế giới Internet

– Từ Marx đến Mill: Niềm cám dỗ của tự do

– Freud và huyền thoại vô thức: Một ngữ nghiệp về tham chiếu và biểu đạt

– Hãy cẩn trọng khi đọc triết: Trường hợp Nietzsche và Wittgenstein

Trong bài Giữa Thực và Ảo: Thực tại núi rừng Khe Sanh và thế giới Internet, khi thăm viếng cửa khẩu Lao Bảo biên giới Lào-Việt nằm ở Khe Sanh (căn cứ quân sự lớn nhất của Mỹ năm xưa), giữa “Trang trại trồng trà trên núi, trong căn cốc nhỏ đủ tiện nghi hiện đại, tôi ngồi bên máy vi tính để  bước vào Thư viện Đại học Online.”, thật thoải mái và  sung sướng của một Việt kiều du lịch. Thế nhưng Nguyễn Hữu Liêm bỗng có một cảm nghĩ thật nhân bản của một triết gia, “Thế giới ngày hôm nay chia thành hai cõi, cõi không gian điện toán cyberspace, nơi thực tính chỉ gần như thực (ảo) mà giá trị sinh hiện chỉ là một hệ thống tín hiệu của digital logic. Cõi còn lại là của phần lớn những con người thực hữu đầy khổ đau. Họ là em bé bán bánh mì buổi sáng, bà mẹ bảy mươi tuổi vẫn phải lặn lội giữa nương và cỏ tranh núi rừng đào tìm khoai sắn, hay của anh phu xe đói khát vật vã với cuộc sống cay nghiệt trên phố thị, của cô sinh viên bán thân tủi nhục bên đường biên giới…Chúng ta bước vào không gian điện toán nhưng chúng ta không quên Cái Ta thực tại dính liền với khổ đau của con người Việt Nam hiện nay.”

Chương 5. Điểm sách

Gồm những bài:

Cám dỗ tự do (Giới thiệu bản Việt Ngữ Bàn về tự do của John Stuart Mill, Đặng Đức Hiệp dịch

Đọc và phản biện Tuệ Sỹ: Tổng quan về nghiệp

Chỉ có công lý khi có tự do

Tương lai của tự do Fareed Zakaria

Chương 6.

Gồm các bài viết về Nguyễn Hữu Liêm của các tác giả: Ngô Văn Tao, Dương Ngọc Dũng, Tiêu Dao Bảo Cự, báo VNExpress, Lê Thọ Bình, nhà thơ Inrasara, Trần Tuấn và Lê Giang Trần và một số hình ảnh Nguyễn Hữu Liêm thuyết trình ở một vài câu lạc bộ và một tấm hình Liêm chụp ở A Lưới (Thừa Thiên).

Lời Kết

Trong suốt 38 năm viết văn ở hải ngoại tôi đã từng giới thiệu các tác phẩm Cánh hoa tâm của HT. Thích Tâm Châu, Cội tùng trước gió của HT. Thích Quảng Độ, thơ Cung Trầm Tưởng, Rót rượu cho một dòng sông của Long Ân, Phật giáo và chánh trị Việt Nam ngày nay của Tiến sĩ Hoàng Xuân Hào (người tù 16 năm), Tu tại gia của GS. Lê Thái Ất (Học viện Quốc gia Hành chánh), Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp, các sách của quý thầy Thích Nguyên Siêu (San Diego), Thích Tín Nghĩa (Từ Đàm Hải Ngoại), Thích Nguyên Tạng (Tu viện Quảng Đức, Úc Châu), Hiền như Bụt của Hạ Long Bụt Sĩ Lưu Văn Vịnh và rất nhiều sách thiền của Nguyên Giác Phan Tấn Hải (Việt Báo)…n hưng chưa sách nào làm tôi nhức đầu bằng sách của Nguyễn Hữu Liêm.

Trước đây khi đọc một vài bài của Liêm đăng trên Thư viện Hoa Sen tôi hơi bực mình, không phải vì nội dung mà vì lối hành văn cay nghiệt và đôi khi kết luận quá mạnh. Công tố viên là người buộc tội nhưng kết tội quá lố sẽ tạo ra những tiếng cười thầm trước tòa. Một luật sư cần phải trình bày  một cách nhẹ nhàng nhưng sắc sảo và đầy sức thuyết phục. Cũng chính vì thế mà khi xuất bản sách này ở tuổi 70 khi đã chín muồi, Nguyễn Hữu Liêm đã thú nhận với tôi qua điện thư trao đổi  ngày 14/11/2025, “Đúng rồi thưa anh. Hồi đó hơi hăng máu viết mạnh quá – nên trong Lời Nói Đầu của sách tôi đã nói điều đó, và kèm theo những bài phản biện.”

Thế nhưng tôi vẫn quý Nguyễn Hữu Liêm vì học vấn uyên bác và tính thẳng thắn, bộc trực, không ngại đụng chạm của anh. Thông thường nói chiều lòng người thì dễ nghe, nói thực quá thì mất lòng. Thế nhưng xã hội không có những người bộc trực, dám nói, sẽ ru ngủ nhau trong sai trái và nhiều khi tăm tối. Chỉ có tự do và những lời nói thẳng thắn con người mới tiến lên được. Theo tác giả, sách này không được cấp giấy phép xuất bản ở trong nước vì nội dung không thích hợp. Và đây có thể là cuốn sách cuối cùng của Liêm.

Sau hết, nói cho vui vui thôi. Vì tôi là một nhà văn và cũng thích làm thơ cho nên tôi chú ý tới nhạc điệu hay sự trầm bổng của ngôn ngữ cho nên nếu là sách của tôi thì  tựa đề Cám dỗ tự do sẽ trở thành Cám dỗ của tự do cũng như Liêm thưa trong Lời Nói Đầu, sở dĩ viết say mê như vậy là vì sự cám dỗ của Tự Do. Chính Tự Do thôi thúc anh viết chứ chẳng vì ai, chẳng vì lợi, chẳng vì tăm tiếng gì cả.

Kính thưa quý vị còn yêu sách,

Với cuốn sách dày 595 trang, tôi không thể nào giới thiệu hết ở đây. Nếu quý vị nào muốn “nhức đầu” thì xin tìm đọc. (Sách có bán trên Amazon.com)

Trân trọng,

California ngày 16/11/2025

Những sách Nguyễn Hữu Liêm đã xuất bản:

Dân chủ pháp trị: Luật pháp, công lý, tự do và trật tự xã hội (1992)

-Tự do và đạo lý khai giải triết học pháp quyền của Hegel (1994)

-Thời lý và hiện hữu: Một luận đề siêu hình học (1995)

-Thời tính, hữu thể và hiện hữu (xuất bản trong nước 2018)

-Cám dỗ Việt Nam (bút ký du hành 2020)

-Phác thảo một triết học cho thế giới (2020)

-Lịch sử đã đến hồi chung cuộc (2023 – bản Việt Ngữ của luận án tiến sĩ)

-Sáng lập và biên tập Tạp Chí Triết Học và Tư Tưởng: tapchitriet.com từ 1996 tới nay.

-Cám dỗ tự do (2025)

This entry was posted in Trên kệ sách and tagged . Bookmark the permalink.