[Rút từ bộ tư liệu ĐỜI SỐNG VĂN NGHỆ THỜI ĐẦU ĐỔI MỚI do Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Bình tổ chức sưu tầm, bản đánh máy do Trung tâm VH-NN Đông Tây thực hiện]
NGHĨ GÌ KHI ĐỌC TIỂU THUYẾT THÂN PHẬN CỦA TÌNH YÊU
ĐỖ VĂN KHANG
Phải thừa nhận là Bảo Ninh khéo viết nên đã làm đôi bạn đọc dễ bị lầm về ý đồ tiểu thuyết của anh. Vì anh đã tiếp thu thủ pháp quen thuộc của nghệ thuật thế giới và đã dựng được cuốn “tiểu thuyết của tiểu thuyết”. Viết theo cách này tác giả đã lẩn đi tới hai lần.
Nói rõ hơn: truyện của Bảo Ninh là do anh chàng Kiên viết trong lúc mất ngủ và uống quá nhiều rượu. Viết gần xong, Kiên phát chán đem đốt. May có cô câm giằng lấy cất một xó làm chuột gặm, mối xông lam nham. Một nhân vật “tôi” đem lượm lấy sắp xếp nó từ những mảnh vụn đứt gẫy chắp vá lại, còn tác giả Bảo Ninh thì nhòa giữa Kiên và anh chàng đi nhặt nhạnh sắp xếp các đoạn đứt gẫy ấy.
Để đánh giá đúng tiểu thuyết hiện đại, chúng ta có cách là dùng hệ quy chiếu để xét sự hội tụ của mọi chi tiết, mọi biến cố, mọi lời giao đãi, mọi hình tượng rải rác từ đầu chí cuối của tác phẩm vào ba thành tố “nghiệm chứng” quan trọng nhất: a) Cảm hứng chủ đạo; b) Tư tưởng cơ bản của tác phẩm; c) Cái lực lượng đã đè bẹp hoặc nâng đỡ số phận con người. Qua đó để xem xét tác phẩm ấy muốn chuyển tải cái gì, có chân thật hay không chân thật. Có nhân văn hay thiếu nhân văn.
Trước hết xét về cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết Thân phận của tình yêu. Không rõ sơ ý thế nào mà Bảo Ninh viết sẵn, làm chúng ta đỡ phải tìm tòi: “Đây là một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời. Tôi không muốn nói là điên rồ” (tr.279).
Theo mạch đó, quả là trong truyện có nhiều chỗ rối bời và hơn cả “rối bời”. Những trang văn như sau chắc chắn đã được viết ra bằng tâm thần bất định: “Cũng là một đội trinh sát đó thôi nhưng bạn thử tưởng tượng xem, ở trang này họ là những người lính thiện chiến nhất nhưng trang sau, hỡi ôi, không tin được, họ lại biến thành những nhân vật rã rời, u ám, ngợp ngọng yếu đuối và lờ phờ nhất, thậm chí tác giả còn biến họ thành những hồn ma, những âm binh ảo não trôi dạt trong những bụi bờ, trong các góc tối cầu thang, đến với nhau trong những cơn ác mộng. Tất cả họ đã bị giết, mỗi người một cách, vậy mà rồi lại thấy họ kéo lê bước chân trên hè phố, nhếch nhác sống cuộc đời mạt vận của những gã tiểu thị dân thời hậu chiến” (tr.279).
Xác định được cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết, ta dễ nắm được ý đồ chính của tác giả mà không bị lầm lẫn, ngộ nhận.
Lại nữa, nhờ xác định được cảm hứng chủ đạo mà người đọc, có thể biết rõ cả cách viết nữa. Cách viết của Bảo Ninh dựa trên “cảm hứng chủ đạo của sự rối bời”. Tôi không muốn nói là “điên rồ” thì cách viết sẽ là “cách mượn chén”, nghĩa là thật giả lẫn lộn; đen tối và ánh sáng nhập nhòe, chính nghĩa và phi nghĩa chẳng ra sao cả. Cách viết này chỉ phát huy tác dụng ở những cây bút có vốn sống và vốn văn hóa cực kỳ, biết chọn đúng đối tượng, biết lấy ra những vấn đề triết luận – nhân sinh sâu sắc, còn không nó là con dao hai lưỡi. Người viết văn phải là say đắm, say đắm đến tột cùng của khát khao tìm tòi cái đẹp. Nhưng viết văn mà “sa đà” thì gay đấy. Chẳng hạn trong sách của Bảo Ninh, nhân vật Kiên viết đến hóa “cuồng bạo, khốc liệt, thẳng thừng tàn phá” (tr.124), đến hóa “nói sai cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc thành cuộc chiến tranh Việt Mỹ” (tr.281), đến mô tả anh giải phóng quân cũng tàn bạo chẳng khác anh lính Mỹ thì có “chếnh choáng” không nhỉ?
Bây giờ xin nói đến tư tưởng cơ bản của tác phẩm. Ở đây, phương pháp là dùng hệ luận. Nó thế này, khi cảm hứng chủ đạo là “rối bời”, “bất định” thì tư tưởng rõ ràng là hoang mang, không tin vào chính mình, vào chính lời của mình, dễ rơi vào phủ định.
Chúng ta hãy xét kỹ những dòng sau:
– Cuộc chiến này là một “gánh nặng chém giết, gánh nặng bạo lực mà thân phận con sâu cái kiến của người lính phải cõng trên lưng đời đời kiếp kiếp” (tr.227).
– “Không thể không rùng mình cảm thấy rằng ra đi cùng với 30 năm trường chiến trận là cả một thời, cả một thế giới với biết bao nhiêu là cuộc đời và số phận, là sự sụp đổ của cả một góc trời cùng đất đai và sông núi” (tr.144).
Còn đây là thời hậu chiến: “Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình, để chừa lại có chút xương” (tr.44).
– “Quanh ta có khác gì hơn ngoài cuộc sống tầm thường và thô bạo của thời hậu chiến”.
– “Mùi hôi hám pha tạp của đường phố nồng lên thành mùi thối rữa” (tr.49).
Không chỉ có những lời lẽ gay gắt, mà còn cả những hình tượng. Thật không thể tưởng tượng nổi khi anh giải phóng quân đã từng được cả dân tộc và thế giới “chào anh, con người đẹp nhất” mà ngay trong ngày chiến thắng đã bị Bảo Ninh vẽ thành những tên lính lê dương ô hợp tràn vào sân bay Tân Sơn Nhất lục lọi, chỉ trỏ và ném cả cái nhìn dã thú lên xác lõa thể trắng bệch của cô gái (tr.107). Lại còn cảnh các “chú bộ đội” cạo lông bụng béo xệ của người đàn bà sống trong rừng thì hết chỗ nói về cái chủ nghĩa tự nhiên trong văn học (tr.9). Còn nữa, còn nữa, nào cảnh đóng quân, ém quân trong rừng và ở điểm trú quân Thanh Hóa, khắc họa thế nào mà Bảo Ninh khiến họ giống những tên thất trận, những lũ thổ phỉ chứ không phải những người “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”.
Về vấn đề này, một bậc thầy của tiểu thuyết thế giới đã nói: “Nghệ thuật có quy luật của nó. Và nếu tôi là nghệ sĩ, và nếu có Kutuzov được tôi miêu tả hoàn hảo thì điều đó không phải do tôi muốn (thời bấy giờ tôi không có mặt ở đó), mà bởi hình tượng này có những đặc trưng nghệ thuật như thế thì không thể rút ra từ bộ mặt lố bịch của Rastovsin và Miloradovich” (xin xem L. Tolstoi bàn về văn học).
Như vậy, xu hướng “lố bịch hóa” (được hiểu theo nghĩa rộng kiểu người Pháp) là xu hướng chính trong tiểu thuyết của Bảo Ninh. Và như thế, anh đã vi phạm quy luật của nghệ thuật mà anh không biết.
Chúng ta không phản đối việc nhận thức sâu hơn cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc mà người ta buộc dân tộc này phải tiến hành. Nhưng sở dĩ “Lời kêu gọi thức tỉnh” của Bảo Ninh không làm chúng ta hiểu lịch sử sâu hơn, toàn diện hơn, cho phải lẽ hơn, nhân đạo hơn, vì anh đã phủ lên hiện tượng lịch sử mang “đặc điểm Kutuzov” một bóng tối: “Bóng tối của giời đất khẳng định bóng tối trong tâm hồn” Kiên, khi Kiên viết tiểu thuyết này (trang 126). Cuối cùng, xin nói đến cái lực lượng đã đè bẹp số phận của nhân vật Kiên:
Có người bảo nhân vật Kiên là nhân vật kiếm tìm “một cuộc kiếm tìm nặng nhọc chính hôm nay” (Tạp chí Cửa Việt, 7-1991). Điều này cần phải bàn kỹ xem có đúng thế không. Theo kiểu tư duy hiện đại thì nói gì cũng phải có “luận chứng kỹ thuật mỹ học”, không có thì rất dễ không đúng.
Trước hết chúng ta thấy, trong văn học, một nhân vật được xếp vào nhân vật kiếm tìm (dù có nặng nhọc đi nữa) thì anh ta phải có mục đích nhân văn. (Còn những kẻ tìm cách móc của công, gây nhiễu xã hội, tìm cách biến phải thành trái, đổi trắng thay đen, chính thành tà, rõ là không đáng gọi “nhân vật kiếm tìm”).
Bảo Ninh có lẽ cũng muốn xây dựng nhân vật Kiên thành người “kiếm tìm nặng nhọc chính hôm nay”. Song có lẽ chưa chú ý đầy đủ đến cơ sở thẩm mỹ – nhân văn nên anh đã thiết kế sai nhân vật. Anh đã vẽ Kiên của anh thành nhà văn để dễ bộc lộ tính cách của “người kiếm tìm”. Nhưng nhà văn Kiên lại là anh nhà văn “chẳng có một ý tưởng nào cả, hoặc giả có thì ý tưởng ấy vẫn là một cái gì hoàn toàn mờ mịt” (tr.510). “Kiên viết về chiến tranh một cách rất tùy ý như thể đấy là một cuộc chiến tranh chưa từng được biết tới… Và như thế nửa điên rồ Kiên lao vào cuộc chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình, một cách đơn độc, phi hiện thực, một cách cay đắng, đầy rẫy va vấp và lầm lạc” (tr.53). Với cách viết “hoàn toàn mờ mịt“, Kiên đã biến thứ văn của mình thành thứ “Văn chương nửa nhà đòn, nửa nhà thương vôi!” (tr.116).
Chúng ta rất hiểu tâm trạng của Bảo Ninh trước những đảo lộn không dễ giải thích của cuộc sống. Nhưng về việc xây dựng một nhân vật băn khoăn, trăn trở đến đau đớn để kiếm tìm điểm tựa cho giá trị sống thì không đạt. Bởi vì kiếm tìm gì mà lại tìm đến chỗ “đưa đám” đến “chứng tâm thần”.
Hơn thế, người kiếm tìm phải luôn thiết lập được mối tương giao với thực tại và với con người. Nhân vật Kiên của Bảo Ninh không có cả tương giao với cội nguồn: Kiên sinh ra thuộc “một dòng họ quẫn trí” (tr.134); ấn tượng ngày mẹ bỏ cha ra đi mờ nhạt một cách thảm hại. “Kiên hoàn toàn hờ hững” (trang134). “Trong Kiên rõ ràng có mầm bẩm sinh của độc ác, của thói nhẫn tâm khô rắn, lạnh lùng. Một sự trống rỗng bất hạnh và tệ mạt” (tr.135). “Lâu rồi anh chẳng còn trò chuyện tâm tình được với ai khác ngoài người đàn bà bị câm sống ẩn trên tầng áp mái, mà cũng chỉ họa hoằn, những đêm say khướt, đầu óc hoàn toàn mụ mị anh mới tìm được đường lên với chị” (tr.230).
Với tính chất bất tương giao đó Bảo Ninh đã biến nhân vật của mình giống nhân vật “L’Étranger” (Kẻ xa lạ). “Kẻ xa lạ” không chỉ xa lạ với mọi người mà còn xa lạ với chính bản thân. Anh ta đang còn nhưng coi như đã hết sống: “Có thể nói rằng thực ra thì (Kiên) đã chết rồi dù chỉ trong trong một thời gian không dài, nhưng mà đã chết” (tr.127).
Trong lịch sử văn học, nhân vật “kẻ xa lạ” chắc chắn không phải là mới. “Kẻ xa lạ” thường xuất hiện sau những cuộc chiến tranh ác liệt. Đó là một kẻ chiến bại, tìm cách chạy trốn vào quá khứ để khư khư ôm lấy tâm trạng đổ vỡ mà không dám nhìn thẳng vào khó khăn để dồn sức làm một cái gì đó cho ngày mai.
Trở lại vấn đề cái lực lượng nào đã đè bẹp số phận nhân vật Kiên? Vấn đề này trở thành hai phương diện:
Phương diện chiến tranh cứu nước ư? Thật buồn cho Bảo Ninh, ở đây anh đã lầm lẫn quá lớn về phương pháp lịch sử và phương pháp nghệ thuật (như đại văn hào L. Tolstoi đã chỉ rõ): ở chỗ khi viết cuốn tiểu thuyết này như người viết đã đã tự nhận rằng anh đã bị bóng tối phủ lên tâm hồn (tr.126). Và như vậy, tâm hồn đen tối làm sao soi sáng được cho các tâm hồn.
Phương diện thứ hai còn buồn hơn: toàn bộ sự bế tắc của Kiên, toàn bộ sự lụi tàn tình yêu với mọi người, với xã hội, với cả Phương – người yêu duy nhất của Kiên là lỗi ở như chính Kiên. Anh đã để tuột tất tần tật. Anh là người không đến nỗi tệ, thậm chí còn có tâm trạng riêng, nhưng anh lại bạc nhược, bạc nhược đến mức tự thiêu mình mà biến thành “kẻ xa lạ” mang một tâm lý chiến bại đến thảm hại.
Chúng tôi nghe nói Tvacdovxki là một nhà văn lớn của nước ngoài. Thời ông còn làm chủ một nhà xuất bản, ông đã không nhẹ tay, thậm chí khá kịch liệt sửa chữa cho các cây bút trẻ có triển vọng. Giá nhà xuất bản kịch liệt sửa cho Thân phận của tình yêu có khi Bảo Ninh cắm ngay được cái mốc văn học bằng tiểu thuyết này.
Thật đáng tiếc, lẽ ra không nên in vội Thân phận của tình yêu.
Nguồn: Văn nghệ, Hà Nội, số 43 (26-10-1991)
***
NGHĨ GÌ KHI ĐỌC “NGHĨ GÌ KHI ĐỌC THÂN PHẬN CỦA TÌNH YÊU“
PHẠM XUÂN NGUYÊN
Ý nghĩ 1: Trong văn học nghệ thuật lắm khi cái nói ra là gì chưa quan trọng bằng cách nói ra như thế nào. Điều này tưởng như ai cũng biết. Rasul Gamzatov nhắc lại lời ông bố dạy: “Dù bài thơ thể hiện ý tứ độc đáo đến đâu, nó cũng nhất thiết phải đẹp. Không chỉ đơn giản là đẹp mà còn đẹp một cách riêng. Đối với nhà thơ, tìm cho ra bút pháp của mình và thấy được mình – nghĩa là trở thành nhà thơ”. Bảo Ninh với cuốn tiểu thuyết Thân phận của tình yêu đã đạt được điều đó. Anh khai thác chiến tranh ở vỉa tầng khác đã đành. Anh còn biết cách khai thác để cho người ngoài nhìn thấy rõ vỉa tầng đó qua từng nhát đào của mình. Cuốn tiểu thuyết này là “tiểu thuyết của tiểu thuyết”. Nội dung tác phẩm là cuộc đời của Kiên – người lính do Kiên – nhà văn viết lại. Tác giả quan sát, theo dõi Kiên trong cuộc vật lộn để sống lại quá khứ của mình trên trang viết. Tạo được một cấu trúc tự sự như vậy, chọn được một hình thức thể hiện như vậy là thành công nổi bật của Bảo Ninh. Khác đi thì những điều anh nói dù có thật có đúng cũng có nguy cơ không chân thực và không có sức thuyết phục. Với Bảo Ninh hình thức ở đây đã trở thành nội dung. Hegel nói gì nhỉ? “Nội dung không phải là cái gì khác là sự chuyển hóa của hình thức thành nội dung”. Nếu bỏ Kiên đi, hay vẫn có Kiên nhưng bỏ vai trò nhà văn của nhân vật đi và tác giả Bảo Ninh trực tiếp kể về những biến cố trong đời Kiên ở ngôi thứ ba, như vậy cuốn tiểu thuyết được giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 này còn lại gì? Chỉ còn là một cuốn sách như bao cuốn sách nhan nhản hiện nay có mặt có tên mà không có người.
Ấy vậy, công phu nghệ thuật của nhà văn đáng được trân trọng tìm hiểu và khảo sát kỹ càng, thấu đáo để ghi nhận một dấu hiệu mới của tư duy văn học hiện đại Việt Nam, thế mà ông Đỗ Văn Khang đã xổ toẹt một cách dễ dàng, không chút hồn nhiên. Theo ông, viết như thế “tác giả được lẩn đi tới hai lần” và do khéo viết nên “đã làm đôi bạn đọc dễ hiểu lầm về ý đồ tiểu thuyết của anh”. Ô hay, khéo viết là đáng khen chứ! Đó chẳng phải là một dấu hiệu cơ bản phân biệt người biết viết văn và kẻ không biết viết văn là gì? “Còn như đôi bạn đọc dễ bị lầm” đây chắc có ông Khang ở trong cùng một vài người nữa thôi. Tuyệt đại đa số bạn đọc khác đều biết ơn tài năng viết khéo của Bảo Ninh đã giúp họ nhận chân ra một miền sự thật, miền tình cảm lâu nay còn khép kín, phong bế. Mà này, giáo sư văn học phương Tây, Phùng Văn Tửu vừa có cuốn chuyện luận rất hay là Tiểu thuyết Pháp hiện đại. Những tìm tòi đổi mới, trong đó có chương ba bắt đầu từ trang 114 nhan đề “Tiểu thuyết là đề tài của tiểu thuyết”. Ông Khang có thể tham khảo sách đó chương đó để thấy Bảo Ninh cùng văn học ta đang cố hòa nhập vào văn học thế giới như thế nào, mặc dù là đến sau đi chậm.
Ý nghĩ 2: Học sinh phổ thông trước đây học văn là phải tóm tắt nội dung và nêu đại ý tác phẩm được đem ra phản ánh. Chẳng hạn tóm tắt truyện Chí Phèo thằng Chí con hoang bỏ rơi, thằng Chí lưu manh say rượu, thằng Chí rạch mặt ăn vạ, thằng Chí cưỡng bức Thị Nở, thằng Chí đâm chết Bá Kiến đòi lương thiện. Học trò chưa biết gì trình độ còn thấp thì thầy cô phải bắt làm thế để hiểu dần lên, tuy cách làm đó là thô bạo với văn chương. Ngờ đâu ông Đỗ Văn Khang, người có hai bằng ông nghè mỹ học và văn học, để đọc được cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh cũng lại vỡ lòng từ đại ý trở đi. Xin mách cho các giáo viên nên lấy đoạn từ “Nói rõ hơn…” đến “… đứt gẫy ấy” của ông Khang làm mẫu hình minh họa cho sự thô thiển, sự giản lược, sự xuyên tạc nội dung tác phẩm mà phương pháp tóm tắt, đại ý gây nên. Ở đây có hai khả năng: – Một là ông Khang không có cách đọc nào khác đối với tác phẩm văn học ngoài cách đọc đại ý, tóm tắt (mà thường là sai lệch) – Hai là ông Khang chê độc giả kém không biết đọc, tự cho mình cái quyền làm thầy độc giả đi từ ABC. Cả hai khả năng này đều có ở ông Khang. Do đó có những điều sơ đẳng ông đã nhầm nghiêm trọng.
Học chuyện Chí Phèo học sinh có thể hỏi: thưa thầy Nam Cao là Chí Phèo ạ? Ông thầy phải nói ngay: không, đừng nhầm thế Chí Phèo là nhân vật, Nam Cao là nhà văn. Chí Phèo là Chí Phèo, Nam Cao là Nam Cao. Chí Phèo không phải là Nam Cao. Nam Cao không phải là Chí Phèo. Điều sơ đẳng ấy học trò biết một lần rồi thì nhớ, nhớ rồi thì hiểu, hiểu rồi thì đọc văn thích thú mà không còn bị lẩn quẩn, loanh quanh với cái sự Trang Chu hay Hồ Điệp, Hồ Điệp hay là Trang Chu (xin nói ngay đây là mượn hình thức của điển này chứ không bàn đến nội dung triết học của nó). Ông Khang thì chắc đã lâu quá nên cái nhớ cái quên. Tóm tắt đại ý thì ông nhớ. Tác giả và nhân vật là khác nhau thì ông quên. Thế là toàn bộ cảm xúc, suy nghĩ của Kiên ông gán hết cho Bảo Ninh. Trong nghiên cứu văn học đồng nhất nguyên mẫu với nhân vật đã là một điều kỵ. Đồng nhất tác giả với nhân vật lại càng kỵ hơn. Lý luận văn học nói: Nhà văn tạo ra nhân vật nhưng nhân vật có logic nội tại riêng của nó, lắm khi nó phát triển cưỡng lại ý đồ của nhà văn. Ông Khang nhớ thí dụ kinh điển về trường hợp nhân vật Tachiana của Puskin. Nếu cứ thực hiện ánh xạ một đối một từ hành vi cử chỉ, nói năng, suy nghĩ của nhân vật sang tác giả thì còn ai dám viết văn và ai cần đọc văn? Thời Nam Cao chỉ vì có những kẻ tự nhận mình là con chó, thằng say trong truyện của ông mà ông đã quá khổ rồi. Nam Cao mà sống lại thời nay thì không biết ông còn khổ đến mức nào khi ông bị buộc phải nhận lấy những hành vi của Chí Phèo, Trương Rự… là của mình chiếu theo kết quả nghiên cứu của Đỗ Văn Khang.
Mà lạ, sao ông Khang không thấy những câu ông trích của Kiên để gán tội cho Bảo Ninh – đó là lời nhận xét, phân tích, đánh giá của nhà văn trong hệ thống, vị trí và giọng điệu của nhân vật ở trong tác phẩm. Giọng điệu của Nam Cao khi ẩn đi cho giọng điệu của Chí Phèo trội lên, khi tách ra thành giọng điệu tác giả, khi sóng đôi cùng giọng điệu nhân vật. Bảo Ninh trong tác phẩm của mình, như đã nói trên, chọn vị trí người quan sát, theo dõi nhân vật và anh chọn giọng điệu luận giải về Kiên và về những điều Kiên viết ra. Cái câu ở trang 279: “Đây vẫn là một sáng tác dựa trên cảm hứng chủ đạo của sự rối bời. Tôi không muốn nói là điên rồ” – Câu này là Bảo Ninh nói về cuốn tiểu thuyết Kiên đang viết. Ông Khang muốn lấy câu đó để nói về cảm hứng chủ đạo của tác phẩm chưa có tên gọi của Kiên thì tùy, nhưng hoàn toàn không thể dựa vào đó mà nói về cảm hứng chủ đạo của cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh. Trong cuốn sách này có sự xê dịch điểm nhìn giữa tác giả và nhân vật, các góc nhìn của họ không phải lúc nào cũng trùng nhau. Toàn bộ đoạn mở đầu kể lại cảnh đi gom nhặt xác đồng đội ở truông Gọi Hồn cùng những hồi ức về những cuộc chiến đấu ở đây, thoạt mới đọc thấy là kể ở ngôi thứ ba, nhưng đọc đến mấy chục trang sau thì mới hay đó là những trang Kiên viết về mình ở ngôi thứ nhất. Và khi đó tác giả mới luận giải cho người đọc biết vì sao Kiên lại mở đầu cuốn tiểu thuyết của mình bằng những cảnh tượng chết chóc đẫm máu như thế. Viết như vậy là khéo viết khiến ông lúng túng, lầm lẫn không dò ra được các mạch nối cấu trúc của tác phẩm nên ông hiểu sai ý đồ của nó, phải không, thưa ông Khang?
Cũng dễ hiểu vì sao ông Khang lại đâm vào tình thế khó xử này. Ngay từ đầu ông đã vứt bỏ cái kiến trúc “tiểu thuyết của tiểu thuyết” dù là còn chưa hoàn chỉnh mà Bảo Ninh phải tốn bao công sức mới dựng nên được. Ông muốn đi vào một mê cung nhưng lại khinh suất quẳng mất sợi chỉ Arian, đã thế lại còn đòi mê cung phải như đại lộ phẳng một chiều và thẳng một hướng. Cho nên ông lạc đường và quẩn quanh là đúng, và đối với ông cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh là một mê cung bí ẩn.
Ý nghĩ 3: Trong phê bình văn học ông Khang có hệ đo riêng của mình – hệ K. Cái hệ này chỉ riêng ông có và chỉ mình ông đo. Tùy từng trường hợp cụ thể hệ K. sẽ được phân ra các cấp độ khác nhau nhưng có một điểm chung không thay đổi là: đo bằng hệ K.: thì chỉ ông đốc Khang mới biết. Nguyễn Huy Thiệp nhờ ông mà có ba độ K. (xem báo Văn hóa nghệ thuật, số 15-1990), chuyện đó thôi không nói nữa. Bây giờ Bảo Ninh cũng bị ba K. Không những thế ông Khang còn cho biết tác giả này bị K. nặng – Phép đo hệ K. của ông như sau:

Cái hệ K. là vậy đấy! Xin nhớ: đây không phải là hệ thống (có hệ thống nào ở đây?), mà là “hệ quy chiếu”, tức là một hệ đo. Theo khoa học hiện đại: người đo là một thành phần của hệ đo. Phải nói thẳng ra rằng cái hệ gọi tên trong nháy nháy của ông Khang này chỉ vừa kích tấc của ông và chỉ dùng để đo riêng ông thôi. Tham vọng dùng nó “để đánh giá đúng tiểu thuyết hiện đại” là một sự tự phụ quá mức đến mức thành ra lố bịch.
Bảo Ninh nói: Tôi thấy có cái truyện như vậy cần viết ra thế là tôi viết ra cái truyện ấy, vậy thôi. Không luận đề không tư tưởng đặt trước nào cả. Ông Khang muốn tìm cảm hứng chủ đạo, thì đây: Nỗi buồn (tác giả thành thật bộc lộ ra qua cái tên quai nôi của tác phẩm). Tư tưởng cơ bản: con người phải biết buồn cho mình để sống cho ra người. Lực lượng tác động ở đây là chiến tranh – nó vừa đè bẹp con người vừa thử thách con người, làm cho ai sống qua nó đều phải đập vỡ mình ra mà làm lại. Như vậy tác phẩm “có chân thật hay không chân thật”, “có nhân văn hay không nhân văn”? Ông Khang cho rằng Bảo Ninh đã “chếnh choáng”, “sa đà” nên phản ánh sai lệch cuộc chiến tranh của dân tộc. Hệ K. phát tín hiệu phản ứng: sao lại nói cuộc chiến tranh chống Mỹ của dân tộc thành “cuộc chiến tranh Việt-Mỹ”? Sao lại khắc họa bộ đội ta như lũ thất trận chứ không phải những người “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”? Sự thật, thưa ông. Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh góp thêm một mảng sự thật của người lính, bên cạnh những mảng sự thật khác của những người lính khác đắp vào khối tượng đài hoành tráng bi thảm của dân tộc một thời trận mạc. Chiến tranh có những sự thật và quy luật nghiệt ngã của nó cần phải được gọi ra đúng tên. Văn học viết về chiến tranh, về con người đi qua chiến tranh không thể lảng tránh điều đó.
Xin chép tặng ông Khang hai câu danh ngôn về sự thật. Bertolt Brecht (Đức) nói: “Kẻ nào không biết sự thật, kẻ đó là một thằng ngốc. Nhưng kẻ nào biết sự thật mà lại gọi nó là giả dối, kẻ đó là một tên tội phạm”.
Jame Laren (Mỹ) nói: “Người nghiêm túc không bao giờ lấy chiếc lá nhỏ để che đậy sự thật trần trụi”.
Ý nghĩ 4: Mấy điểm đính chính cần thiết.
– Ông Khang đã không có một cái nhìn toàn cảnh trong một toàn cảnh do nhà văn tạo ra. Cảnh ở sân bay Tân Sơn Nhất thuộc vào số những trang viết thấm đậm nhất trong cuốn sách của Bảo Ninh. Dựng cảnh sống động, thể hiện tâm lý sâu, từ đó toát lên gay gắt vấn đề nhân tính hay không nhân tính trong con người từ cuộc chiến bước ra. Xin ông Khang hãy đọc lại đi. Kiên đã phản ứng ra sao trước hành động dã man của một đồng đội mình đối với cái xác của cô gái. Anh không thể chịu đựng được sự nhẫn tâm, tàn bạo phi nhân ấy, dù là nhân danh người chiến thắng. Suýt nữa thì vì một cái xác chết anh dám bắn chết một người của mình để giữ cho tính người được sống. Và ông Khang có thấy cuối cùng những người lính của chúng ta đã nhận ra lỗi lầm của mình và lo khâm liệm chu đáo cho cô gái xấu số ấy không?
– Thật đến là không hiểu nổi cái cách đọc truyện của ông Khang. Trong chuyện của Bảo Ninh làm gì có chuyện cạo lông bụng béo xệ của người đàn bà sống trong rừng, mà đó là chuyện mấy người lính trinh sát bắt được con vượn định về cải thiện nhưng khi cạo lông thì thấy hiện nguyên một người đàn bà liền hoảng quá bỏ luôn. Chi tiết có thể không thực, tác giả nói là nghe đâu kia mà, cũng như chi tiết về loại hoa hồng ma, nhưng nó giúp thể hiện sự khốc liệt đẫm máu của một góc chiến trường. Tác giả đã không ngại ngần mô tả một bãi chiến trường đẫm máu thì một chi tiết như thế là không đặt nhầm, không lạc điệu. Còn bảo đó là chủ nghĩa tự nhiên trong văn học thì oan quá cho Zola.
Kiên vinh dự được Dr. Khang đặt ngang hàng với L’Étranger trên ghế bị cáo để nghe lời kết tội sau: “Đó là một kẻ chiến bại, tìm cách chạy trốn vào quá khứ để khư khư ôm lấy tâm trạng đổ vỡ mà không dám nhìn thẳng vào những khó khăn để dồn sức làm được một cái gì đó cho ngày mai”. Xin thưa cùng ông Khang, cái mối dây bất tương giao mà ông đem dùng để cột hai nhân vật này với nhau kèm theo bản án ghê rợn kia lại tỏ ra đúng ở một hướng ông không thể ngờ. Đấy là sự tương hợp giữa Albert Camus và Bảo Ninh trong việc nắm bắt và diễn tả tâm trạng con người thời gian sau chiến tranh.
L’Étranger là ai? Đó là con người ở trong thế giới của “huyền thoại Xi-dip”. Đó là con người biết số phận mình để làm chủ số phận. Ông ngạc nhiên lắm phải không? Thì đây lời của André Moroa: “Camus đề nghị gì với chúng ta? Là đứa con của mặt trời, ông không chấp nhận sự tuyệt vọng. Tương lai không tồn tại ư? Hẵng cứ cho là như vậy, chúng ta hãy tận hưởng hiện tại. Xi-dip ý thức được số phận nặng nề của mình và điều đó là sự giáo đầu cho sự thắng lợi của nó. Ở đây Camus tương đồng với Pascal. Sự vĩ đại của con người là ở chỗ biết rằng có hữu hạn sống. Sự vĩ đại của Xi-dip là ở chỗ biết rằng hòn đá tất yếu sẽ lại lăn xuống dưới. Và sự hiểu biết đó biến số phận thành công việc của bàn tay con người mà mọi người phải cùng nhau thu xếp lấy”. Nhân vật của Bảo Ninh cũng cần được hiểu theo nghĩa này. Tác giả viết: “Và có lẽ để nhận lấy đau khổ mà người ta được sinh ra trên đời này, cũng vì đau khổ mà người ta phải sống, phải mưu cầu hạnh phúc, phải đến với tình yêu, với nghệ thuật, phải tận hưởng, phải chịu đựng đến cùng cuộc sống” (tr.181).
(Xích ma) Các ý nghĩ 1, 2, 3 và 4: Kể ra còn có thể nghĩ nhiều nữa về “nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận của tình yêu. Nhưng mà thôi, nghĩ thế cũng đã nhiều, vì lẽ ra không cần phải nghĩ nhiều thế. Cái giỏi của ông Khang là ở như cái hệ K. ấy. Mỗi lần ông tung cái hệ ấy ra thì không ai ngồi yên được, ai cũng thấy mình bị dính độ K. Và dù có nói bao nhiêu thì hệ K. vẫn chỉ có một chiều đo là đo theo chiều xấu. Đành vậy, không nghĩ nữa.
Nhưng phải có kết luận các ý nghĩ chứ? May sao ông Khang đã cho sẵn rồi, đỡ phải tìm tòi. Cái câu “Giá mà…” cuối bài của ông xin lấy nửa sau: “Bảo Ninh cắm ngay được cái mốc văn học bằng tiểu thuyết này”. Và cái câu ông kết bài ông xin sửa hai chữ thành câu kết bài này là: “Thật đáng tiếc, lẽ ra không nên bôi vôi “Thân phận của tình yêu”.
Nguồn: Cửa Việt, Quảng Trị, số 13 (tháng 4-1992)
(Còn nữa…)