Hữu Loan, Xuân Sách … và hai bài thơ “vượt biên” …

Ngô Thị Kim Cúc

Có hai bài thơ phổ nhạc của hai nhà thơ miền Bắc đã “vượt biên” vào Nam và được hát công khai trước 1975: Những đồi hoa sim của Hữu Loan (1916- 2010) và Đường chúng ta đi của Xuân Sách (1932- 2008).

Nhạc sĩ phổ thơ hẳn có biết về tác giả, nhưng người nghe nhạc ở miền Nam thời đó thì hầu như không biết mấy về họ.

Khi còn rất nhỏ, từ thập niên 1960, tôi đã nghe ca sĩ Phương Dung hát Những đồi hoa sim của Dzũng Chinh. Ca sĩ Phương Dung có giọng cao và trong, được mệnh danh là “Nhạn trắng Gò Công”. Là người Nam Kỳ nhưng khi hát bà phát âm giọng chuẩn-Bắc, nên người nghe dễ nghĩ bà là người gốc Bắc.

Bài hát viết theo điệu slow rumba, âm giai rê thứ, như rất nhiều nhạc phẩm dòng boléro, luôn lồng trong đó một câu chuyện kể. Đó là tâm trạng buồn đau của người-chồng-chiến sĩ mới sống với vợ được hai tuần sau khi cưới, và ba tháng sau đã nghe tin vợ mất ở quê nhà. Người vợ ấy tóc còn xanh, thích hoa sim tím, và không đòi may áo cưới trong ngày hợp hôn:

“… Từ dạo hợp hôn nàng không may áo cưới

Thoáng buồn trên nét mi

Khói buốt bên hương tàn nghi ngút

Trên mộ đầy cỏ vàng

Mà đường về thênh thang

Đồi sim vẫn còn trong lối cũ

Giờ thiếu người xưa ấy đồi hoang mới tiêu điều…”.

Chuyện người vợ ở hậu phương bị chết trong khi chồng vẫn sống ở chiến trường có thể là chuyện của bất kỳ người lính nào ở bất cứ đâu. Có phải vì vậy mà bài hát không bị cấm, dù những cơ quan chủ quản văn hóa của miền nam thời đó hẳn biết rõ nó được lấy từ ý thơ của một nhà thơ Bắc Việt.

Dĩa nhựa Asia Sóng Nhạc với bài hát Những đồi hoa sim và giọng hát Phương Dung trở thành dĩa bán chạy nhất của hãng vào thời điểm đó và khiến bà nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Bài hát cũng là tác phẩm thành công nhứt của nhạc sĩ Dzũng Chinh, người đã mất sớm, khi mới 28 tuổi.

Bài thơ của Hữu Loan, có tên ban đầu là 1946, khóc vợ Lê Đỗ Thị Ninh để bày tỏ niềm tiếc thương người vợ trẻ vắn số của mình.

Ban đầu, đó là bản viết tay, được mọi người truyền khẩu và lan rộng, sau đó mới được Nguyễn Bính cho in trên tờ Trăm Hoa.

“Ba tháng sau, tôi nhận được tin dữ: vợ tôi qua đời! Em chết thật thảm thương: Hôm đó là ngày 25 tháng 5 âm lịch năm 1948, em đưa quần áo ra giặt ngoài sông Chuồng (thuộc ấp Thị Long, Nông Cống), vì muốn chụp lại tấm áo bị nước cuốn trôi nên trượt chân chết đuối! Con nước lớn đã cuốn em vào lòng nó, cướp đi của tôi người bạn lòng tri kỷ, để lại nơi tôi nỗi đau không gì bù đắp nổi….”.

Sau năm 1975, qua báo chí và những kết nối văn nghệ, tôi biết thêm nhiều sự thật đời thường về tác giả. Rằng Hữu Loan có hai người vợ, và bài thơ Màu tím hoa sim là ông viết cho người vợ thứ nhứt.

Khi Hữu Loan lần đầu ra Hà Nội và thi đỗ thành chung, ông đã được phu nhân của vị tổng thanh tra canh nông Đông Dương thuê làm gia sư cho hai con trai, rồi sau đó bà gả luôn con gái cho ông. Nhờ việc ông thường ghé cửa hàng bán vải và sách báo của bà, để xem, mua sách và được bà để ý chọn.

Khi họ cưới nhau, bà Lê Đỗ Thị Ninh chỉ mới 16 tuổi, thua Hữu Loan 14 tuổi.

Qua hoạt động nghề nghiệp, và cả sự truyền tụng trong giới cầm bút, tôi biết rằng Hũu Loan là nhà thơ hết sức cang cường, có gan từ bỏ tất cả: bỏ đơn vị, bỏ đảng, bỏ những kết nối đã có với giới cầm bút, tuyệt giao với quá khứ để về sống cuộc đời của một người lao động bình thường.

Đó là năm 1956, sau cải cách ruộng đất đẫm máu và vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm khốc liệt.

Hữu Loan, từng là chủ bút báo Chiến sĩ của Sư đoàn 304 ở Liên khu IV và biên tập viên tạp chí Văn nghệ, khi vứt bỏ mọi thứ để về vùng đồi Thanh Hóa, đã “… Ngày ngày đào đá núi đem đi bán, túi giắt theo vài cuốn sách cũ tiếng Pháp, tiếng Việt đọc cho giải sầu…”, “… Tôi phải đi cày đi bừa, đi đốn củi, đi xe đá để bán. Bọn họ bắt giữ xe tôi, đến nỗi tôi phải đi xe cút kít, loại xe đóng bằng gỗ, có một bánh xe cũng bằng gỗ ở phía trước, có hai cái càng ở phía sau để đủn hay kéo. Xe cút kít họ cũng không cho, tôi phải gánh bộ. Gánh bằng vai, tôi cũng cứ gánh, không bao giờ tôi bị khuất phục. Họ theo dõi, ngăn cản, đi đến đâu cũng có công an theo dõi, cho người hại tôi …”.

Bài thơ Màu tím hoa sim có một số phận thật oái oăm. Trước 1975 ca khúc phổ thơ của người lính Bắc Việt được hát tự do ở miền Nam nhưng sau 1975 lại bị cấm bởi chính nhà cầm quyền cộng sản.

Khi mới ra đời ở miền Bắc, nó đã bị đánh giá là “ủy mị tiểu tư sản, làm nhụt nhuệ khí người lính nơi chiến trận”, thì sau 1975, ca khúc phổ thơ lại bị xếp vào thành phần “văn-hóa-phẩm-đồi-trụy” của miền Nam.

Phải đến năm 2020, nó mới được cấp phép cho trình diễn tự do, cùng lúc với nhiều tác phẩm âm nhạc khác của Việt Nam Cộng Hòa.

Sau năm 1988, nhờ “đổi mới”, Hữu Loan được “giải oan”, trở lại văn đàn, nhưng ông đã từ chối lời mời gia nhập Hội Nhà văn.

Năm 2012, hai năm sau khi ông mất, bài thơ Màu tím hoa sim đã được trao Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.

***

”… Dặm đường xa, ta đi giữa mùa xuân,

Ta đi giữa tình thương của Đảng,

Tiếng Bác Hồ rung động mãi trong tim.

Đường ta đi ánh lửa soi đêm dài,

Đường ta về trong nắng ấm ban mai.

Việt Nam, Việt Nam, qua từng bước gian nan,

Lớn lên rồi đẹp những mùa xuân…”.

Lúc đó, tôi vừa vào năm thứ nhứt đại học, thập niên 1970. Tất cả hãy còn quá mới mẻ, xa lạ với cô sinh viên mười tám tuổi lần đầu rời gia đình, từ Đà Nẵng vào Sài Gòn trọ học.

Lần đầu xem chương trình biểu diễn văn nghệ của nhóm sinh viên phong trào tranh đấu tại trường, tôi rất có ấn tượng về một bài hát được đồng ca trên sân khấu. Ca từ rất đẹp và giai điệu thì tuyệt vời, hết sức hùng tráng.

Chỉ nghe một lần duy nhứt và tôi vẫn đinh ninh đó là một bài nhạc-phong-trào, do các nhạc sĩ sinh viên sáng tác.

Sau 1975, tôi mới biết đó là ca khúc Đường chúng ta đi rất nổi tiếng do nhạc sĩ Huy Du (1926-2007) phổ nhạc từ một bài thơ của nhà thơ Xuân Sách (1932-2008).

Bài hát được hoàn thiện vào cuối năm 1968 và được thu thanh đầu năm 1969, tối giao thừa Tết Âm lịch đã được nghệ sĩ Kim Oanh đơn ca.

Đó là thời điểm chiến tranh Việt Nam đang diễn ra rất ác liệt.

Khi đọc đến đoạn “… Ta đi giữa mùa xuân/Ta đi giữa tình thương của Đảng/Tiếng Bác Hồ rung động mãi trong tim…”, tôi tự hỏi: Hồi đó, không rõ các bạn sinh viên đã đổi lời những câu này thế nào để có thể ngang nhiên đứng hát giữa Đại Giảng đường 1 của Đại học Khoa Học, trong khi ngay bên ngoài cánh cổng, sang bên kia đường của đại lộ Cộng Hòa là Tổng Nha Cảnh sát Sài Gòn.

Trong một lần gặp mặt ở Sài Gòn, anh Xuân Sách đã kể một câu chuyện cho chị Ý Nhi. Rằng một hôm, anh vào một quán cà phê và nghe bài hát Đường chúng ta đi đang vang lên từ giàn loa. Anh nói, dù không ai biết mình là tác giả bài thơ nhưng anh vẫn đỏ mặt vì thấy ngượng.

Tôi không nghĩ anh đỏ mặt vì chính mình. Anh đã viết bài thơ đó một cách tự nhiên khi đang là lính trong thời chiến.

Nhưng sau mấy chục năm hòa bình, nhứt là sau khi kinh tế thị trường làm thay đổi hoàn toàn đời sống vật chất và tinh thần của mọi người, trong xã hội đã hình thành một tầng lớp cơ hội chủ nghĩa xấu xa.

Những kẻ này mồm luôn hô thật to các loại khẩu hiệu trong khi hành động chỉ nhăm nhăm thực hiện cho kỳ được những hợp-đồng-kinh-tế có lợi nhứt cho bản thân và phe nhóm. Những kẻ ấy đã khiến xã hội bị vẩn đục/ô nhiễm bởi một lũ nịnh-thần trơ tráo.

Anh đỏ mặt, xấu hổ vì nghĩ rằng mình có thể cũng đang bị xếp chung hàng với chúng.

Dẫu sao, bài hát rất hay ấy đã vang lên giữa lòng thành phố Sài Gòn trong thời chiến, và đã để lại một ký ức đẹp trong trái tim một tân sinh viên mới gia nhập môi trường đại học là tôi.

Cho tới hôm nay, nghe lại, tôi vẫn thấy bài hát ấy rất hay, và với tâm thế của một công dân Việt bình thường, yêu nước, tôi hiểu nó đã thuộc về quá khứ, là một mảnh nhỏ của lịch sử, không thể xóa bỏ.

Và anh, người viết ra những dòng thơ ấy, đã không dừng lại ở đó. Anh đã tiếp tục trách-nhiệm-nhà-văn của mình, không phải bằng những lời ngợi ca, mà bằng những Chân dung nhà văn rất sống động, sắc sảo, độc đáo.

Và qua những chân dung đó, độc giả/hậu thế có thể nhìn rõ chân dung của giới cầm bút Việt Nam ở một giai đoạn lịch sử của dân tộc …

……………..

Ca từ trọn vẹn của bài hát Đường chúng ta đi:

Việt Nam, trên đường chúng ta đi,

Nghe gió thổi đồng xanh quê ta đó,

Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân trời,

Nghe ấm lòng những khi đang dồn bước,

Mà vui sao ta chẳng nói nên lời.

Dặm đường xa, ta đi giữa mùa xuân,

Ta đi giữa tình thương của Đảng,

Tiếng Bác Hồ rung động mãi trong tim.

Đường ta đi ánh lửa soi đêm dài,

Đường ta về trong nắng ấm ban mai.

Việt Nam, Việt Nam, qua từng bước gian nan,

Lớn lên rồi đẹp những mùa xuân.

Ta đi qua phố qua làng,

Ngọn đèn sáng giục lòng ta đó.

Lời mẹ nói ấm lành ngọn gió,

Đàn em vui ríu rít mái trường.

Ta đi đường rợp bóng hàng dương,

Đất bom đào đã lên màu cỏ mới.

Những cặp mắt đêm đêm trông đợi,

Chiến trường xa dồn dập những chiến công.

Miền Nam ơi, miền Nam,

Ơi những dòng sông soi bóng dừa xanh,

Những đỉnh núi khuất mây mờ xa tắp,

Ta sẽ đến nơi đâu còn giặc,

Ta chưa về khi Tổ quốc chưa yên,

Việt Nam, Việt Nam, ôi Tổ quốc vinh quang!”.

Những đồi hoa sim – Phương Dung | Nhạc sĩ: Dzũng Chinh (ASIA 13)

Tháng 10.2025. Niệm hương trước bàn thờ nhà thơ Hữu Loan. Trên tường là bức trướng Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thanh Hóa mừng thọ nhà thơ Hữu Loan tuổi 95.

Tháng 10.2025. Ngôi nhà cũ của gia đình nhà thơ Hữu Loan thời gian ông sống bằng việc phá núi lấy đá đổi cơm. Chỉ còn lại vài mảnh tường rêu mốc, sứt sẹo.

Tháng 10.2025. Niệm hương trước ngôi mộ (chưa xong) của nhà thơ Hữu Loan trên phần đồi sẽ là nghĩa trang gia tộc.

Tháng 10.2025. Trước mộ nhà văn Xuân Sách.

Tháng 1.1995. Bên ngoài hành lang Đại hội V Hội Nhà văn Việt Nam. Nhà văn Vũ Bão, nhà thơ Xuân Sách, Ngô Thị Kim Cúc.

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.