Stalin và Tưởng Giới Thạch: Hai chính sách tương phản đối với quân dân chiến bại

Trần Văn Thọ

 

Hôm nay (15/8) đánh dấu 80 năm chấm dứt Thế chiến II. Rất nhiều sự kiện làm ta suy nghĩ. Nhiều bài học có thể rút ra về nỗ lực tránh chiến tranh, về phương thức kết thúc chiến tranh, về chính sách đối xử với quân dân chiến bại, v.v.

Gần đây có dịp đọc nhiều hơn về Tưởng Giới Thạch tôi thấy nhân vật này có thể đối chiếu với Stalin trong việc đối xử với quân dân nước bại trận, cụ thể là đối với Nhật Bản tại Trung Quốc khi Thế chiến II kết thúc.

Sáng sớm ngày 9/8/1945, ngày mà trưa đó quả bom nguyên tử thứ hai của Mỹ thả xuống Nagasaki, Liên Xô tuyên chiến với Nhật. Liên Xô đơn phương phá bỏ Hiệp ước Trung lập Xô Nhật và tuyên chiến khi Nhật đã kiệt quệ, sắp phải đầu hàng đồng minh. Một mặt Liên Xô đưa quân chiếm bốn hòn đảo phía Bắc của Nhật và mặt khác tiến quân vào Mãn Châu, thuộc địa của Nhật tại phía Bắc Trung Quốc. Tại Mãn Châu, Liên Xô bắt 57 vạn quân dân Nhật Bản làm tù binh và đưa về Tây Bá Lợi Á (Siberia). Ở vùng băng giá và thiếu thức ăn, không chịu nổi đói lạnh và lao động khổ sai, gần 6 vạn người đã bỏ mình. Số còn lại phải nhiều năm sau mới được trở về Nhật (những người cuối cùng về Nhật là năm 1956).

Tại Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch đóng vai trò chủ đạo trong kháng chiến chống Nhật và tham gia vào nhiều quyết định trong việc kết thúc chiến tranh ở mặt trận Thái Bình Dương. Trưa ngày 15/8/1945, tại Trùng Khánh, qua radio, Tưởng Giới Thạch đọc diễn văn tuyên bố thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Nhật. Diễn văn này được thế giới đánh giá là “Diễn văn lấy đức báo oán” hoặc “Tuyên ngôn thắng lợi của hòa bình”. Quân đội thua trận của Nhật lo sợ Trung Quốc sẽ trả thù đối với hành động của họ trong thời gian chiếm đóng (1937-1945) khi nghe tuyên bố của Tưởng Giới Thạch họ yên tâm ngay. Tưởng Giới Thạch cho rằng không được lấy oán báo oán mà phải lấy đức báo oán mới chấm dứt hận thù và mở một tương lai mới giữa hai nước, hai dân tộc. Phương châm lớn là như vậy nhưng ấn tượng nhất là hành động cụ thể. Tưởng Giới Thạch ra lệnh cho cán bộ phụ trách giải giới quân đội Nhật không được tỏ thái độ của người chiến thắng, chỉ tước vũ khí, nghiêm cấm chiếm đoạt tư trang, tiền bạc của quân và dân Nhật. Trong vòng chưa tới một năm, khoảng 2 triệu quân và dân Nhật tại Trung Quốc lần lượt trở về nước an toàn.

Ngoài ra Tưởng Giới Thạch không đòi Nhật bồi thường chiến tranh và còn phản đối Liên Xô trong âm mưu chia cắt Nhật Bản khi bàn về phương thức xử lý khi Nhật đầu hàng. Theo nhiều sử gia, điểm này liên quan đến suy nghĩ chiến lược của Tưởng Giới Thạch về viễn ảnh một tương lai mà Trung Quốc sẽ phải cùng với Mỹ và Nhật đối phó với phe cộng sản do Liên Xô lãnh đạo.

Do chính sách của Stalin, sau Thế chiến II, suốt một thời gian dài dư luận nói chung ở Nhật là ghét Liên Xô. Ngược lại, Nhật có cảm tình với Đài Loan, đặc biệt nhiều người tỏ lòng biết ơn đối với Tưởng Giới Thạch. Sau khi ông Tưởng mất (1975), ở tỉnh Chi Ba có lập Bia Dĩ Đức Báo Oán (1985), ở Yokohama có Bia Dĩ Đức Báo Oán Tưởng Công Tụng Đức (1987, kỷ niệm 100 năm ngày sinh Tưởng Giới Thạch), ở tỉnh Aichi có đền thờ Trung Chính (1990, Trung Chính là tên húy của Tưởng Giới Thạch).

Tính nhân văn của lãnh đạo trong những quyết định lớn luôn được người sau trân trọng.

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.