Thơ Mỹ – một thời đáng nhớ (kỳ 34): Stanley H. Barkan

Khế Iêm

clip_image001[4]

AS YET UNBORN

 

Oh to be Adam

again

with all his ribs

yearning for a woman

as yet unborn,

mouth free

of the taste of apples,

ears without

the hiss of snakes,

mindless of

nakedness and shame

in the garden

of gentle creatures

waiting for a name.

 

 

 

ĐẾN BÂY GIỜ CHƯA SINH

 

Ôi để thành Adam

lần nữa

với tất cả những chiếc xương sườn của hắn

khao khát một người đàn bà

đến bây giờ chưa sinh,

miệng không

nếm được vị ngon của táo,

tai không nghe được

tiếng rít của rắn,

không nghĩ tới

sự lõa lồ và xấu hổ

trong khu vườn

những sinh vật hiền hòa

đang chờ một cái tên.

 

JULY

 

Now the summer butterflies have come

like poppies in procession

in the cemetery of youth,

all the long stretch of children’s caskets

laid out in their cerements of innocence.

Around the black granite stones

– etched with finger-touching hands –

the clouds of white wings fluttering.

All the rent garments of wailing mourners,

all the ashes fallen from the still detached sky.

And the milkweed flourishing

along the paths of passing glory.

There in the sun-covered fields of first things,

I sought my way through the glistening questions

hidden in the cobwebs set to trap the seeker.

Now, in the fullness of seeds

grown to fruits of promise,

only pits and pebbles remain to place

upon the markers monumenting memory.

 

THÁNG BẢY

 

Bây giờ những cánh bướm mùa hè đến

như hoa poppy sắp nở

trong nghĩa trang của giới trẻ

tất cả trải dài theo những quan tài của trẻ nhỏ

liệm trong những bộ quần áo liệm vô tội của chúng.

Chung quanh những bia đá granite đen

– khắc với những bàn tay có ngón dài ra –

những đám mây cánh trắng đập.

Tất cả quần áo rách rưới của những người đưa đám rền rĩ,

tất cả tro than rơi từ bầu trời bất động.

Và hoa dại nở

dọc theo những đường mòn của sự lụi tàn.

Ở đó trong những cánh đồng tràn ngập thời tuổi thơ,

Tôi tìm kiếm con đường của tôi qua những câu hỏi lấp lánh

dấu trong mạng nhện dùng để bẫy những kẻ tìm kiếm.

Bây giờ những hạt mầm

Lớn lên thành trái chín,

chỉ còn những thứ vô dụng còn lại

trên mộ bia là vật ghi nhớ ký ức

 

AS STILL AS A BROOM

 

Love as still as a broom

leaning against a fireplace.

 

All the carpets swept,

all the ashes grated.

 

And the candles burned

down to the black wires.

 

And the windows frosted

starless, moonless.

 

No shoes under the bed,

no towel on the floor.

 

Only the crease in the pillow

and a smell I can’t remember.

 

* Stanley H. Barkan, as the editor/publisher of Cross-Cultural Communications, he has produced some 400 titles in 58 differ­ent languages. His own work has been published in 18 collec­tions, several of them bilingual (Bulgarian, Chinese, Italian, Polish, Russian).

 

LẶNG LẼ NHƯ CÁI CHỔI

 

Tình yêu lặng lẽ như cái chổi

dựa vào lò sưởi.

 

Mọi tấm thảm được hút bụi

mọi tàn tro rơi xuống vỉ than

 

Và tất cả đèn cầy lụi

tàn trên những ngọn bấc đen.

 

Mọi cửa sổ đóng băng

không sao không trăng.

 

Không giày dưới giường

không khăn lau trên sàn nhà.

 

Chỉ có nếp gấp trên gối

và mùi tôi không thể nhớ.

 

* Stanley H. Barkan, nhà biên tập và nhà xuất bản Cross-Cul­tural Communications. Ông đã xuất bản 400 đầu sách với 58 ngôn ngữ khác nhau. Tác phẩm của ông được in trong 18 tuyển tập, một số là song ngữ (Bulgarian, Chinese, Italian, Polish, Rus­sian).

 

IMMORTALITY

 

                        (a “footnote” after Donald Lev)

 

I jumped off

the Brooklyn Bridge.

Twice.

But I failed.

I didn’t die.

The Guinness Book of World Records

called me up,

said I should try again:

If I lived,

I’d set a record.

So I jumped a third time

and succeeded.

At last I’ve achieved …

Immortality?

 

BẤT TỬ

 

                        (một ghi chú sau Donald Lev)

 

Tôi nhảy xuống

cầu Brooklyn.

Hai lần.

Nhưng thất bại.

Tôi không chết.

Kỷ lục Thế giới Sách Guinness

gọi tôi lại,

nói tôi nên thử lần nữa:

Nếu tôi sống,

Tôi sẽ đạt kỷ lục.

Vì vậy tôi nhảy lần thứ ba

Và thành công.

Cuối cùng tôi hoàn tất …

Sự bất tử?

 

JUNE

 

No lottery this June,

No corn heavy soon.

No, this summer solstice

harbors no promise

of rich crops.

But June bugs buzz about

the trail where milkweeds flourish,

Monarchs suck at the sap,

their black-and-orange wings fluttering.

Anthills are plentiful,

the rows and rows of black dots

ceaselessly determined missions.

Yes, there are apple blossoms,

clouds of white petals

scattered amidst the silk and lace.

And, yes, there’s laughter in the little leagues.

This time all swings are strikes,

all bets are off.

 

THÁNG SÁU

 

Không có sổ xố tháng Sáu này,

Không có mùa bắp sắp tới.

Không, đây là mùa hạ chí

không mang tới hứa hẹn

đầy đủ bắp.

Nhưng tháng Sáu những con bọ bay vo vo quanh

đường mòn nơi những loài hoa dại mọc tràn lan,

những con bướm Monarch hút nhựa cây,

những cánh màu cam-và-đen của chúng đập.

Những tổ kiến quá nhiều,

hàng hàng dãy dãy những đốm đen

không ngừng xác định mục tiêu.

Vâng, có cây táo nở hoa,

những đám mây cánh hoa

rải rác giữa tơ và mạng nhện.

Và, vâng, có tiếng cười trong liên đoàn bóng chày thiếu niên.

Lúc này mọi cú bạt bóng đều thất bại,

tất cả không thể dự đoán.

 

FIRST BIRTH

 

Covered with leaves

she rises out of the earth –

she first,

not Adam.

How much more likely

(more provable),

he from her pit

than she from his rib.

It was a man

who wrote the myth.

 

SINH RA ĐẦU TIÊN

 

Nàng che thân bằng lá

nhô lên từ mặt đất –

nàng đầu tiên,

không phải Adam.

Bao nhiêu phần chắc đúng

(có thể chứng minh),

hắn từ tử cung nàng

hơn là nàng từ chiếc xương sườn của hắn.

Đó là người đàn ông

đã viết thần thoại.

 

Comments are closed.