Đĩ thúi & phần còn lại ở đời sau (kỳ 2)

Nguyễn Viện

5.

Mã Kiều Nhi nói với tôi: “Em tuổi gà và cũng như gà, em đi tìm giun, không thấy giun mà chỉ thấy dây thun. Biết là dây thun nhưng vẫn nuốt”.

Tôi nói: “Anh cũng chỉ là một thứ dây thun thôi. Nuốt vào thắt ruột chết đấy”.

Kiều Nhi bảo cũng chả sao. Nàng khoe vú: “Hàng chuẩn”.

Tôi nhìn-cười-bảo: “Tuyệt”.

Kiều Nhi nói: “Cho hôn đấy”.

Thúy Kiều bất ngờ xuất hiện: “Hàng của nó chỉ là thứ phẩm thôi. Đây mới là hàng xịn”. Rồi nàng cũng vạch vú ra.

Tôi bảo: “Siêu phẩm”.

Nhưng khi Đạm Tiên khoe hàng, ngôn ngữ bỗng trở nên ú ớ. Đạm Tiên dịu dàng: “Nếu anh không đủ đức tin thì cứ bóp thử”.

Tôi không phải Tô-Ma của Chúa Giêsu, nên tôi tin. Đây là thứ ảo tượng ma quái, nó chỉ tùy thuộc vào cái cảm thức tiên thiên về bản chất của hiện tượng. Vì thế, bóp hay không bóp cũng không khác gì nhau.

Tôi nói: “Anh chỉ bóp khi biết chính xác nó là thật. Và vì anh biết nó là thật nên không cần bóp thử”.

Đạm Tiên hỏi: “Vậy thì anh muốn gì?”

Tôi nói như một người đàn ông chân chính: “Anh muốn nó là của riêng anh”.

Đạm Tiên cười: “Không bao giờ. Nó là của riêng em và em muốn phân phát nó một cách rộng rãi nhất. Nếu anh muốn, anh cũng có phần”.

Tôi lắc đầu: “Anh ăn bánh trả tiền”.

Đạm Tiên lại cười: “Anh là đồ dây thun. Nhưng em không xài tiền âm phủ”.

Bất ngờ, Thúy Kiều xen vào: “Em biết anh hợp với tuổi gà. Em cũng tuổi gà đấy”.

Đạm Tiên nói: “Em cũng là gà thích nuốt dây thun”.

Cái dây thun của tôi bị kéo căng ra. Ba con gà mái dầu mỏ mổ tôi gãy xương sườn.

Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm dưới đất trong một căn nhà trống trơn. Nhưng tôi lại nghe thấy những âm thanh kỳ lạ phát ra từ bốn bức tường, trên trần và dưới nền nhà. Đó là tạp âm không thể phân biệt giữa những tiếng rên sung sướng và đau khổ. Tôi cũng ngửi thấy mùi hiu hắt của đất thó, mùi tanh tưởi của tinh trùng, mùi nếp chín nồng nồng của âm hộ. Tôi có cảm giác như trong âm ty, nhưng ánh sáng bình minh đang rực rỡ chiếu qua khung cửa. Tôi đã qua một đêm hay nhiều đêm cũng không thể kiểm chứng. Tôi thử cử động chân tay. Rồi tôi xoay người ngồi dậy. Đây là thực tại. Những bức tường trắng vẫn rầm rì những âm thanh của thống khoái và đọa đày. Và tôi nhìn thấy những bức tường oằn oại. Không phải ảo giác.

Mã Kiều Nhi hỏi: “Anh nuôi em được không?”

Tôi nói: “Nếu em độ cho anh trúng số”.

Kiều Nhi nói: “Em chỉ có thể độ cho anh giải thoát thôi”.

Tôi bảo: “Nhưng anh còn muốn tục lụy”.

Kiều Nhi nói: “Vậy thì anh nên sống với Thúy Kiều”.

Tôi bảo: “Anh không thích tính cách của Thúy Kiều. Mặc dù Thúy Kiều là một mẫu đàn bà nhân hậu”.

Thúy Kiều bước ra khỏi bức tường. Tôi không còn nghe thấy những âm thanh rầm rì nữa. Thúy Kiều nói: “Em vẫn luôn là một người yếu đuối”.

Tôi nhìn Kiều. Giống như lúc Kiều ngồi ở lầu Ngưng Bích. Mặt nàng nhợt nhạt. Sương khói. Tôi cảm thấy ái ngại. Nhưng tôi có thể làm gì? Tôi không phải Thúc Sinh, Sở Khanh hay Từ Hải. Tôi không thể đeo mang số phận người khác. Tôi là kẻ nhìn ngắm. Kẻ chơi chạy. Kẻ phá hủy.

Đạm Tiên ở dưới đất chui lên. Nàng như lửa. Tôi nói: “Em biến anh thành kẻ tham lam”.

Nhưng Đạm Tiên cười: “Anh không biết lượng sức mình”.

Ừ, có lẽ tôi chỉ nói cho sướng miệng. Tuy thế, Đạm Tiên vẫn đốt tôi bừng bừng cháy. Đạm Tiên là ân huệ, nàng đẩy tôi tới một cảnh giới trừu tượng mê hoặc. Không còn biết mơ hay thực. Và tôi không phân biệt được ai là Mã Kiều Nhi, ai là Vương Thúy Kiều, ai là Đạm Tiên. Tôi bơi trong một không gian lỏng. Mất trọng lực.

Thúc Sinh bảo sân khấu chính trị bây giờ chỉ toàn bọn sâu bọ và ngu dốt, thằng nào có tư cách một chút thì lại mê gái.

Mã Kiều Nhi bảo: “Đàn ông mê gái mới là người có tư cách”.

Thúc Sinh nói thêm: “Thế nhưng, những người đàn ông đích thực ấy lại bị bọn âm binh biến thành nhơ bẩn”.

Đạm Tiên hỏi: “Anh không phải là phù thủy của bọn âm binh sao?”

Thúc Sinh nói: “Anh về hưu rồi”.

Đạm Tiên bảo: “Các bác về hưu đều rách chuyện”.

Thúc Sinh cười trừ: “Đấy là vấn đề thuộc về cơ chế em ạ”.

Đạm Tiên nói: “Em là ma nên em đi guốc trong bụng tất cả các anh. Các anh chỉ khác nhau ở chỗ thật hay giả”.

Thúy Kiều xen vào: “Em không quan tâm chuyện thật hay giả. Em tin tất cả những ai đến với em, cho dù họ cứng hay mềm”.

Tôi thường xuyên mất trọng lực.

Thúc Sinh quàng tay ôm vai Thúy Kiều, nói: “Nếu như có thể bắt đầu lại, chắc chắn tôi sẽ làm khác, sống khác”.

Từ Hải hỏi: “Anh biết sai từ bao giờ?”

Thúc Sinh đáp: “Ngay sau khi vào Đảng”.

Từ Hải lại hỏi: “Đảng sai từ bao giờ?”

Thúc Sinh đáp: “Ngay sau khi thành lập Đảng”.

Từ Hải hỏi tiếp: “Người thành lập Đảng sai từ bao giờ?”

Thúc Sinh im lặng một lúc rồi nói: “Từ Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp tại Tours tháng 12.1920, gia nhập Cộng sản Quốc tế thứ ba và trở thành một trong những sáng lập viên của Đảng Cộng sản Pháp”.

Từ Hải nói: “Đáng lẽ chúng ta chỉ nên vui chơi”.

Thúc Sinh nói: “Cách mạng cũng là một cuộc chơi”.

Từ Hải bảo: “Chúng ta mất quá nhiều”.

Vương Thúy Kiều nói: “Cả hai anh đều không còn giống như hồi mới gặp em”.

Đạm Tiên nói: “Nếu không có Mao Trạch Đông thì các anh vẫn phong kiến”.

Thúc Sinh cười: “Thời đại Mao Trạch Đông chỉ là bình mới rượu cũ. Vẫn là một thứ ‘trung quân ái quốc’ vô điều kiện. Chuyên chính hơn vì thế cũng ít nhân tính hơn”.

Mã Kiều Nhi nói với tôi: “Từ Hải đã biến thái. Thúc Sinh cũng biến thái”.

Tôi bảo: “Anh cũng biến dạng”.

Mã Kiều Nhi cười: “Anh từ xấu giai đến xấu lão”.

Tôi cũng cười: “Lẽ ra, đàn ông khi về già thường đẹp hơn nhờ từng trải và tự tại”.

Mã Kiều Nhi nói: “Anh xấu vì lúc nào cũng thảng thốt”.

Tôi bảo: “Anh tưởng mình nham nhở”.

Mã Kiều Nhi xoa đầu tôi: “Thực ra, anh rất dở hơi”.

Tôi ngả đầu vào lòng Mã Kiều Nhi: “Đó là những vết thương. Những cơn đau bất chợt. Và ám ảnh bởi cái chết”.

Mã Kiều Nhi hỏi: “Tại sao lại có những vết thương. Chiến tranh ư?”

Tôi nói: “Không. Nạn nhân của hòa bình”.

Mã Kiều Nhi nói: “Em không hiểu”.

Tôi bảo: “Giết người hay phủ nhận người khác trong hòa bình bao giờ cũng tàn nhẫn hơn thời chiến, bởi nó vô lý và vô nhân tính. Chúng ta bị giết mỗi ngày. Điều này không phải ai cũng nhận ra”.

Mã Kiều Nhi lắc đầu: “Em không quan tâm. Nhưng em lo nghĩ về anh”. Nàng nói thêm: “Anh cần được thoải mái”.

Tôi không nói nữa. Và tôi nằm xuống.

Bốn bức tường xung quanh tôi lại rầm rì.

Tôi nghe những tiếng đàn ông huyên thuyên. Đè lên nhau. Đan xéo nhau. Mỗi lúc một dày hơn. Và rồi không còn những bức tường xi măng nữa, chỉ là những tiếng nói dựng lên, bao kín. Những bức tường tiếng nói che khuất tôi, hay che khuất chung quanh. Và rồi nó trở nên quá mức chịu đựng. Tôi muốn hét lên. Nhưng tôi hét không ra tiếng. Đúng lúc ấy, tôi thấy Mã Kiều Nhi đè lên tôi.

Rồi tôi nghe những tiếng chạy thình thịch trên mặt đất. Người tôi nẩy lên. Tôi cần thoát ra khỏi chỗ này. Tôi nghĩ thế, nhưng tôi bất lực. Mã Kiều Nhi vẫn đè trên tôi. Mùi của nàng thiên cổ.

Tôi mở mắt. Đạm Tiên đứng trên đầu tôi. Ở tư thế nằm, tôi thấy Đạm Tiên sừng sững và đang trút xuống, như thác.

Tôi muốn nói: “Em đừng biến đi”, nhưng tôi nói không thành lời. Rồi người tôi bỗng nhẹ hẫng.

Mã Kiều Nhi nói: “Anh cứ nằm nghỉ đi”.

Thế giới quanh tôi như không có, chưa có. Khởi thủy chỉ có lời. Nhưng lời không hiện diện. Tôi há miệng cho lời tuôn ra. Nhưng chỉ có gió. Gió thông suốt từ trong ra ngoài và từ ngoài vào trong. Tôi xoay người nằm nghiêng. Vẫn chỉ thấy gió.

Từ Hải hỏi Thúc Sinh: “Làm thế nào để sửa sai?”

Thúc Sinh nói: “Có hai cách. Một là ra khỏi Đảng. Hai là xóa bỏ Đảng”.

Từ Hải lắc đầu. Ý nghĩ ấy chưa bao giờ có trong đầu chàng. Từ Hải hỏi: “Không có cách thứ ba sao?”

Thúc Sinh nói: “Tất cả các cách còn lại đều vô ích”.

Từ Hải hỏi tiếp: “Anh chọn cách nào?”

Thúc Sinh nói: “Không chọn cách nào cả”.

Từ Hải hỏi mà dường như không nhắm vào ai: “Vậy thì chúng ta đang vui chơi, hay làm cách mạng?”

Thúc Sinh cười, nói: “Chúng ta đang kiếm ăn”.

Từ Hải bỗng tràn ngập một mối hoài cảm về cái ngày chàng đầu hàng Hồ Tôn Hiến. Niềm tin chỉ dành cho bọn ngây thơ. Cùng lúc, Thúc Sinh có một niềm hưng phấn khác, bảo: “Bất kể thời đại nào, buôn thần bán thánh, hoặc mua quan bán chức đều rất ngon ăn. Cậu nên theo tôi”.

Từ Hải nhớ lại việc Vương Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha, chàng quyết định theo Thúc Sinh. Họ môi giới buôn bán từ một chỗ làm nhỏ mọn đến những địa vị cao sang nhất. Họ ăn tiền cò cả bên bán và bên mua. Và họ còn được cả ơn nghĩa.

6.

Năm Gia Tĩnh thứ 35, Hồ Tôn Hiến làm Án sát Chiết Giang vận động Thúy Kiều xúi Từ Hải qui hàng triều đình. Sau vụ dẹp giặc Từ Hải và các đầu mục khác, Hồ Tôn Hiến muốn được thăng chức xứng đáng với công lao của mình đã tìm cách móc nối với Thúc Sinh. Thúc Sinh bảo mỗi chức 3000 lạng. Đến năm Gia Tĩnh thứ 39, Hồ Tôn Hiến được thăng một hơi ba chức và làm đến Thượng thư Bộ binh kiêm Đô sát viện hữu đô ngự sử. Vẫn chưa hài lòng, Hồ Tôn Hiến muốn mua chức Tể tướng. Thúc Sinh bảo được. Hồ Tôn Hiến hỏi bao nhiêu. Thúc Sinh đáp: “Chỉ có vàng thì không đủ”. Bởi vua đâu có thiếu vàng. Hồ Tôn Hiến năn nỉ. Thúc Sinh rỉ tai Hồ Tôn Hiến: “Tôi muốn được an dưỡng ở An Nam với Vương Thúy Kiều, Mã Kiều Nhi và Đạm Tiên”. Hồ Tôn Hiến siết chặt tay Thúc Sinh thay lời cam kết.

Minh sử không ghi chép Hồ Tôn Hiến làm Tể tướng vào lúc nào, nhưng trong dân gian đã truyền tụng nhiều câu chuyện khác nhau để giải thích việc làm thế nào Hồ Tôn Hiến có thể làm đến chức Tể tướng.

Có người bảo Tể tướng Hồ Tôn Hiến là con rơi của Gia Tĩnh, nên được vua chiếu cố. Có người bảo Hồ Tôn Hiến có công trong việc tuyển gái cho vua. Thật ra, ai làm tể tướng thì cũng không quan trọng. Dân gian quan tâm đến các lời tố cáo Tể tướng gian tham và có âm mưu cấu kết với An Nam làm chuyện thoán nghịch. Minh sử đã ghi chép việc Hồ Tôn Hiến tự vẫn trong ngục thất vào năm Gia Tĩnh thứ 43. Nhưng trong thực tế, Hồ Tôn Hiến đã chạy sang An Nam tá túc nhà Thúc Sinh. Và Hồ Tôn Hiến không bao giờ từ bỏ giấc mộng làm Tể tướng. Lịch sử thế giới cũng như lịch sử An Nam không thiếu trường hợp Tể tướng cướp ngôi làm vua. Vì thế không loại trừ giả thiết Hồ Tôn Hiến có thể đã từng là tể tướng hoặc làm vua ở Việt Nam.

Hồ Tôn Hiến hỏi Thúc Sinh: “Làm thế nào thoát được việc luận tội của lịch sử?”

Thúc Sinh bảo: “Thì cứ bỏ tù lịch sử”.

Hồ Tôn Hiến lại hỏi: “Làm sao bỏ tù được lịch sử?”

Thúc Sinh hỏi lại: “Ông có thu xếp cho tôi được an dưỡng ở Dubai cùng với các em gái không?”

Hồ Tôn Hiến nói: “Chuyện nhỏ”.

Thúc Sinh cười bảo: “Cũng đơn giản thôi, hãy bỏ tù mấy thằng viết sử. Chúng là các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nhà báo ngoài lề, các nhân sĩ, trí thức phản kháng…”

Hồ Tôn Hiến nói: “Bọn chúng đông như ruồi. Bắt đứa này nó đẻ ra đứa khác”.

Thúc Sinh bảo: “Phải chuyên chính thôi đồng chí ạ”.

Nhưng Hồ Tôn Hiến chợt đổi giọng: “Tại sao ông muốn bỏ chạy?”

Thúc Sinh cũng trở nên nghiêm trang: “Tôi có thằng cháu làm trong ngành công an, nó muốn tôi giúp mua chức thiếu tướng để được gia hạn tuổi về hưu. Tôi bảo nó, trước khi chơi canh bạc chót, với một số tiền lớn có thể về hưu non mà không phải bận tâm, mày nên đi coi thày xem sao. Nó nghe lời đi coi bói, thày bảo, cuối mùa rồi rút lui đi. Phải, ông ạ, có những thứ cần được chôn vùi, bôi xóa”.

Hồ Tôn Hiến hỏi: “Ông cũng khuyên tôi rút lui?”

Thúc Sinh vội nói: “Tôi không nói vậy. Ở địa vị ông, có nhiều cách để chọn lựa”.

Chỉ có bậc thánh mới có khả năng từ bỏ danh vọng và quyền lực. Vì thế, người cháu của Thúc Sinh vẫn điên cuồng chạy chức và Hồ Tôn Hiến bằng mọi cách giữ chức.

Chưa bao giờ Thúc Sinh lại có lắm mối xin chạy chức và chạy dự án đến thế. Từ Hải được chia việc. Cấp trung ương do Thúc Sinh nhận lãnh. Từ Hải phụ trách các địa phương. Ân huệ và tiền bạc của họ lai láng.

Đạm Tiên nói với Thúc Sinh và Từ Hải: “Các anh chớ dại chạy theo các em hoa hậu, người mẫu mà quên chúng em nhé”.

Cả Thúc Sinh và Từ Hải đều biết cái giá của sự được, mất.

Thúc Sinh nói: “Anh chẳng bao giờ quên anh là Thúc Sinh”.

Tuy nói thế, không phải Thúc Sinh không mơ màng đến cái quyền lực vô hạn như Hồ Tôn Hiến.

Từ Hải bảo Thúc Sinh: “Anh chỉ nên hưởng nhàn tao nhã với tiếng đàn của Thúy Kiều thôi. Bon chen quyền lực không phải cái tạng của anh. Vả lại buôn vua như anh nói có phải vĩnh cửu hơn không”.

Thúc Sinh nói: “Cậu vẫn còn cay đắng với kinh nghiệm của vụ đầu hàng Hồ Tôn Hiến năm xưa à?”

Từ Hải bảo: “Tôi nghiệm ra, tiền và gái mới là tất cả hiện thực lý tưởng của mọi thời đại. Nó cho chúng ta cái chức của tất cả mọi chức”.

Vương Thúy Kiều nói với Thúc Sinh: “Thật ra, hồi đó anh Từ Hải qui hàng triều đình không phải chỉ vì em. Anh ấy nghĩ có thể làm điều gì đấy tốt hơn cả Hồ Tôn Hiến. Nhưng ảnh không phải là con người chính trị. Vì thế ảnh phải chết đứng”.

Đạm Tiên bảo: “Trong cuộc sống, chỉ có người thắng hoặc người thua. Đàn ông hay ảo tưởng”.

Từ Hải nói: “Có thể Hồ Tôn Hiến cũng không nhận ra điều ấy, mặc dù ông ta đã tự vẫn trong ngục”.

Mã Kiều Nhi nói: “Em lại thích những người ảo tưởng. Vì những người ảo tưởng cũng thường phóng túng”.

Nhìn lại mình, quả thực Thúc Sinh thấy không thể lươn lẹo như Hồ Tôn Hiến. Không đạp được người thì hay nhất là bợ người. Vả lại, bợ Hồ Tôn Hiến không phải là mối lợi vô tận của ông sao? Gạt bỏ dự án quyền lực, Thúc Sinh lập dự án kinh tế. Ông muốn là người giàu nhất.

Thúc Sinh nói với Từ Hải: “Gái là nhu cầu muôn thuở của đàn ông. Bởi vậy, cái nghề nghiệp vững bền nhất chắc chắn phải là nghề chăn gái. Cậu cho người làm cho tôi cái dự án kinh doanh tình dục thật hoành tráng, với khả năng giải quyết việc làm cho hàng triệu phụ nữ. Đặc biệt chú ý tới vấn đề thời vụ của các chị em nông thôn. Đồng thời giải quyết vấn đề an sinh xã hội”.

Từ Hải nói: “Ý tưởng hay. Nhưng liệu Hồ Tôn Hiến có chấp nhận khi ông ta đang đòi hỏi chính quyền các cấp phải xây dựng được các cộng đồng văn hóa từ cấp tổ dân phố tới cấp tỉnh?”

Thúc Sinh bảo: “Nền tảng kinh tế quyết định thượng tầng văn hóa. Tôi sẽ thuyết phục Hồ Tôn Hiến chấp nhận dự án này như một mũi đột phá cho nền công nghiệp du lịch nước nhà, vượt qua Thái Lan”.

Tự sướng với sáng kiến của mình, Thúc Sinh nói tiếp: “Thật ra, không khó đâu. Phần cậu, sai đệ tử nghiên cứu làm luận chứng kinh tế cũng đừng quên yếu tố thuần phong mỹ tục và truyền thống dân tộc. Cần phải mang Truyện Kiều ra làm dẫn chứng. Vấn đề Hồ Tôn Hiến chỉ là bao nhiêu phần trăm lợi nhuận thôi”.

Dự án được triển khai tại tất cả 64 tỉnh thành trên cả nước để tránh tình trạng ăn chia không đều gây bất ổn nội bộ. Quỹ đất dành cho dự án của mỗi tỉnh thành do chính quyền địa phương và các nhà đầu tư quyết định, tùy theo mức độ cung ứng lao động của địa phương đó. Đối chiếu và đánh giá hiệu quả dự án dựa trên sự bất mãn của người mất đất và sự hài lòng do lợi ích kinh tế mang lại cho ngân sách nhà nước và các bên liên quan là tốt đẹp. Cái gọi là dân oan và những cuộc biểu tình kêu đòi công lý của họ hoàn toàn không đáng kể.

Thúc Sinh nói với Hồ Tôn Hiến: “Tể tướng Quản Trọng của nước Tề không phải là nhân vật xuất chúng sao? Chính ông ta đã cho xây 700 nhà chứa giúp cho nhà Tề có kinh phí xây dựng binh lực tranh hùng với thiên hạ. Ngày nay, để đất nước có thể hóa rồng, chúng ta cũng cần tận dụng sức mạnh và nhan sắc chị em. Hiện có khoảng 25 triệu phụ nữ trong tuổi lao động, trong đó 80% sống ở nông thôn, nhưng lao động nữ nông thôn chỉ chiếm khoảng 58%. Cái dự án mà tôi muốn nói với ông chính là để giải quyết phần 32% còn lại thất nghiệp. Mà việc này cũng không cần ông phải nhúng tay vào. Tôi sẽ đứng ra bán dự án này cho các tỉnh”.

Hồ Tôn Hiến bảo: “Tôi đồng ý trên nguyên tắc. Những vấn đề khác ông làm việc với con rể tôi”.

Trong cuộc nhậu, Từ Hải nâng ly mời Thúc Sinh: “Phụ nữ Việt Nam – Điểm đến của thế giới”.

“Theo số liệu tổng hợp của Thanh tra Chính phủ, từ năm 2003 đến năm 2010, các cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã tiếp nhận và xử lý 1.219.625 đơn thư khiếu nại, tố cáo trong đó đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai bình quân các năm chiếm 69,79%. Cũng từ năm 2004 đến năm 2011, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã tiếp nhận được 59.751 lượt đơn của 29.671 vụ việc, trong đó khiếu nại hành chính về đất đai là 17.711 vụ chiếm 58,59%, có 5.966 vụ việc khiếu nại quyết định hành chính trong giải quyết tranh chấp đất đai chiếm 20,11%, có 4.639 vụ đòi lại đất cũ chiếm 15,63% và 1.355 vụ việc tố cáo chiếm 4,57%. Trong lĩnh vực tư pháp, số lượng các vụ án hành chính liên quan đến việc khởi kiện của công dân đối với các quyết định hành chính về quản lý đất đai cũng có xu hướng gia tăng. Từ năm 2004 đến năm 2011, Tòa án nhân dân các cấp đã thụ lý sơ thẩm 3.994 vụ, giải quyết 2.857 vụ chiếm 71,5%, người khởi kiện là cá nhân chiếm 2.715 vụ, khởi kiện là cơ quan, tổ chức chiếm 142 vụ”.

(http://www.nghean.gov.vn/wps/portal/thanhtratinh/!ut/p/c4/04_SB8K8xLLM9MSSzPy8xBz9CP0os3i_MG9_TxPDUGcnPyczA09HU6NQYw8PY38XY_2CbEdFANN_YZQ!/?WCM_GLOBAL_CONTEXT=/wps/wcm/connect/web+content+thanh+tra+tinh/ttt/ttsk/tcn/ec3a56804d5fdb148b328f28049fc1fd).

Các vụ xuống đường biểu tình của dân oan từ các tỉnh kéo về thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội gần như mỗi ngày. Lời kêu cứu của họ không được ai lắng nghe, kể cả những tâm hồn nhạy cảm như nhà báo và nghệ sĩ các loại. Đã có những cái chết và những bản án tù cho nạn nhân và những ai bênh vực họ.

7.

Từ Hải nói với Thúc Sinh: “Tôi đã đủ tiền mua nhà ở Dubai và bảo đảm một cuộc sống vương giả ở đó. Xét cho cùng, cuộc đời không phải cứ chống đối là hay”.

Thúc Sinh cười: “Cậu giác ngộ cách mạng rồi đấy”.

Từ Hải hỏi: “Khi nào anh đi Dubai?”

Thúc Sinh: “Khi nào không còn kiếm tiền được nữa mới dzọt”.

Từ Hải cười: “Có lẽ chúng ta còn phải phấn đấu nhiều mới có thể tranh hùng với các anh hai dầu lửa ở Trung Đông”.

Thúc Sinh nói: “Đúng”.

Từ Hải đắc ý: “Phụ nữ thế giới – Điểm đến của Việt Nam”.

Thúc Sinh nói: “Có lẽ chưa bao giờ cậu nghĩ đến việc bán các dự án cho Trung Quốc?”

Từ Hải hỏi: “Khai thác nguyên liệu thô?”

Thúc Sinh bảo: “Cái đó ồn ào mà lợi nhuận không bao nhiêu. Vũ khí hoặc công nghệ cao. Nhẹ nhàng, kín đáo mà tiền khẳm. Trung Quốc không thể mua được các vũ khí hiện đại của Tây Âu hay Israel, hoặc linh kiện công nghệ cao của Mỹ. Chúng ta sẽ làm việc này thay cho họ”.

Từ Hải hỏi: “Ai sẽ làm cầu nối cho chúng ta với thế giới bên ngoài?”

Thúc Sinh: “Vợ cũ của tôi, Hoạn Thư. Bà ấy đang ở Mỹ”.

Hoạn Thư vượt biên năm 1978 theo diện bán chính thức dành cho các Hoa kiều với giá 4 lượng.

Từ Hải nói: “Tôi lúc nào cũng là chân tay của anh”.

Thúc Sinh giao cho Từ Hải móc nối với cảng Hải Phòng làm trạm trung chuyển. Hoạn Thư thu gom hàng hóa dưới dạng các phụ tùng và linh kiện rời. Phần ông, bán kế hoạch này cho tình báo Hoa Nam.

Thúc Sinh nói với Từ Hải: “Chúng ta là những nhân vật tiểu thuyết, bởi thế chúng ta có thể làm bất cứ điều gì nghĩ ra được mà không sợ ở tù”.

Từ Hải nói: “Giả dụ nếu bị ở tù thật thì cũng đâu có sao. Ra tù, lại tiếp tục. Chúng ta không bao giờ chết”.

Họ không biết rằng, dù là nhân vật tiểu thuyết, họ vẫn có thể bị vùi dập.

Nhiều năm sau, một số nhân vật liên quan ở cảng Hải Phòng bị bắt. Từ Hải và Thúc Sinh vẫn là những người vô can. Sau vụ này, mỗi người trong số họ mua một biệt thự ở New York.

Từ Hải nói: “Tôi vẫn bị ám ảnh bởi cái chết đứng. Tôi sợ đến lúc mình chạy không kịp”.

Thúc Sinh bảo: “Người ta biết thì sống. Cái biết của chúng ta là gì? Đấy là không bao giờ đặt cược đời mình vào một cửa. Chủ nghĩa tư bản là gì? Đấy là ở đâu có lợi thì chơi. Chỉ có kẻ ngu muội mới tin vào chính nghĩa. Chân lý là tiền. Chúng ta theo người mạnh, nhưng chúng ta cũng cần tỉnh táo để biết kẻ mạnh cũng đến lúc chết”.

Từ Hải hỏi: “Anh nghĩ Hồ Tôn Hiến còn sống được bao lâu?”

Thúc Sinh: “Hắn sống bao lâu không quan trọng. Điều quan trọng là chúng ta phải đánh hơi được người nào sẽ thay thế hắn”.

Từ Hải tâng bốc: “Anh lúc nào cũng sáng suốt”.

Thúc Sinh nói: “Cái lão Hồ Tôn Hiến B cũng đáng để chúng ta bỏ vốn đầu tư đấy. Cậu mang Thúy Kiều đến cúng cho lão”.

Vương Thúy Kiều được cải thiện chiều cao bằng cách cưa ống chân độn thêm một khúc xương mới. Nàng trở thành người đẹp chân dài. Nàng cũng được tân trang lý lịch lên đời người mẫu thời trang. Chiến dịch PR cho Kiều được Từ Hải xúc tiến một cách qui mô và bài bản. Kiều bỗng là “hot girl”. Các đại gia săn đón nàng, nhưng nàng săn đón Hồ Tôn Hiến B.

Hồ Tôn Hiến B sập bẫy. Thúc Sinh và Từ Hải trở thành nhà tài trợ chính cho Hồ Tôn Hiến B để đáp ứng các nhu cầu của người đẹp.

Bí mật quốc gia nằm trong tay Từ Hải, Thúc Sinh. Họ không đầu cơ chính sách, nhưng họ bán chính sách ăn huê hồng. Họ bảo 30% là thuế của cuộc chơi.

Mỗi lần thay đổi nhân sự, chính sách lại đảo chiều. Nhân sự và chính sách là một cuộc chơi bất tận. Nạn nhân và những kẻ thủ ác, tất cả đều là những con rối.

Mã Kiều Nhi hỏi Thúy Kiều: “Mày đã mua được mấy cái nhà?”

Kiều đáp: “Mỗi thành phố một cái. Còn mày?”

Mã Kiều Nhi nói: “Tao chỉ mua một căn thôi. Đường Lê Duẩn, Hòn Ngọc Viễn Đông. Dành để nghỉ ngơi. Còn khi làm việc tao vẫn thích vào khách sạn”.

Thúy Kiều hỏi: “Làm gì cho hết tiền?”

Mã Kiều Nhi bảo: “Bao giai và đánh bạc”.

Thúy Kiều hỏi tiếp: “Thằng nào tốt phước thế? Ra mắt chị em chứ?”

Mã Kiều Nhi bảo: “Có lạ gì mà ra mắt. Nguyễn đấy”.

Thúy Kiều lại hỏi: “Vẫn còn tình yêu à?”

Mã Kiều Nhi: “Làm gì có tình yêu. Sở thích thôi. Nuôi một thằng làm thơ là làm đẹp cho cuộc đời, huống gì nó lại làm thơ ca tụng mình”.

Kiều bảo: “Tao không làm từ thiện được”.

Sáng cà phê, chiều nhậu. Ngày nào cũng là một ngày đẹp đối với Nguyễn.

Những dân oan khiếu kiện, biểu tình vất vưởng ngoài phố lướt qua mắt chàng như những bóng ma. Thơ là cái đẹp vĩnh cửu. Cái đẹp cứu rỗi thế giới. Những dân oan rách rưới lê lết sẽ làm thơ nhiễm bẩn. Thơ cần sự tinh khiết và tính nhân văn của gái và rượu.

Chữ nghĩa của Nguyễn là hoa hồng và mật ong.

Từ Hải bảo: “Ông viết giùm tôi một bài cho tập thơ sắp in nhé”.

Nguyễn bảo: “Được”.

Từ Hải hỏi: “Ông muốn lấy tiền hay vui chơi?”

Nguyễn bảo: “Vừa tiền vừa vui chơi”.

Từ Hải nói: “Chiều ông luôn”.

Nguyễn hỏi: “Ông muốn viết cho báo hay làm bài tựa?”

Từ Hải bảo: “Cả hai”.

Nguyễn nói: “Thế thì vui chơi cả tháng được”.

Từ Hải bảo: “Cả năm luôn. Bất cứ lúc nào ông muốn, cứ gọi”.

Nguyễn nhậu và gọi Từ Hải đến trả tiền. Đời lúc nào cũng đẹp.

Từ Hải nói với Thúc Sinh: “Tôi thích một giải thưởng văn chương quốc gia”.

Thúc Sinh bảo chuyện nhỏ. “Nếu cậu muốn, tôi có thể lo cho cậu cả cái giải văn chương ASEAN với điều kiện cậu đừng viết hay làm bất cứ điều gì mích lòng Đảng”.

Nguyễn nói với Từ Hải: “Tôi cũng có thể dịch thơ ông sang tiếng Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp”.

Từ Hải: “OK. Tôi sẽ cho in tập thơ bằng 4 thứ tiếng”.

Nguyễn bảo: “Thơ ông nên dát vàng”.

Từ Hải hỏi: “Còn kiểu gì sang trọng hơn nữa không?”

Nguyễn nói: “Mời Hồ Tôn Hiến viết tựa”.

Thúc Sinh nói: “Ý kiến hay. Tựa Hồ Tôn Hiến. Bạt Nguyễn. Thơ cậu đoạt giải văn chương cuối năm là cái chắc”.

Từ Hải nói: “Để tôi gọi các em đến nhậu cho vui”.

Nguyễn nói: “Kiếm cho tôi một em người mẫu nhé”.

Từ Hải hỏi: “Thích hoa hậu không?”

Nguyễn nói: “Á hậu thôi. Hoa hậu để anh Thúc Sinh”.

Từ Hải đọc thơ. Các em bảo thơ anh Từ Hải thâm sâu quá bọn em không hiểu. Nguyễn đọc thơ. Các em bảo thơ anh Nguyễn làm tụi em muốn khóc. Thúc Sinh đọc thơ. Các em cười nắc nẻ.

Thế giới có cần thơ không? Không, chỉ có các nhà thơ tự huyễn hoặc thơ cần mình, vì thế các nhà thơ vẫn tồn tại.

Đạm Tiên hỏi: “Em có tồn tại không?”

Nguyễn bảo: “Em tồn tại”.

Đạm Tiên hỏi tiếp: “Vì sao?”

Nguyễn nói: “Bởi chính câu hỏi của em”.

Đạm Tiên cười: “Lẽ ra một người như anh phải nói khác”.

Nguyễn hỏi: “Chẳng hạn?”

Đạm Tiên bảo thôi. Em không muốn giả dụ. Em thích thấy anh thực tế hơn là có vẻ triết gia-triết lý-triết học như thế.

Rồi Nguyễn cười. Lẽ ra, chàng phải nói: “Em làm anh rất nứng”.

Mã Kiều Nhi cầm ly rượu nói: “Có ai muốn làm chuyện đồi trụy, đồi bại, xúc phạm thuần phong mỹ tục không hè?”

Không ai trả lời. Mã Kiều Nhi đứng lên làm vài điệu bộ khiêu khích. Nhưng các ông thánh lim dim uể oải. Mã Kiều Nhi sờ vào đũng quần từng ông, tri hô: “Thế giới hòa bình”. Nàng cười sằng sặc.

Vương Thúy Kiều ôm cây đàn gẩy vài tiếng báo bão rồi bất ngờ buông tuồng một cơn mưa. Nhân gian nhão nhoẹt. Nguyễn ôm Đạm Tiên như thiên cổ.

Năm 1976 ở thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn bị bắt quả tang đang làm tình với Mã Kiều Nhi trong nhà trọ bởi một tổ công tác hỗn hợp ban ngành, đoàn thể các loại…

Họ bị bêu riếu ngoài phố như hai con chó phá hoại thành quả cách mạng. Người ta khoác vào cổ Nguyễn tấm bảng “Ma cô tàn dư Mỹ-Ngụy”, với Mã Kiều Nhi là “Đĩ điếm”. Bọn trẻ con reo hò đi theo như một đám rước, trong lúc loa phóng thanh phát đi những lời lên án tàn dư văn hóa đồi trụy phản động.

Cũng trong thời gian đó tại Hà Nội, Từ Hải được thủ trưởng gọi lên hạch hỏi: “Có dư luận nói đồng chí hủ hóa với Vương Thúy Kiều. Đồng chí phải tự kiểm điểm về hành vi xấu xa này”.

Từ Hải viết kiểm điểm: “Tôi nhận thức sâu sắc việc yêu Vương Thúy Kiều là xuất phát từ sự tiêm nhiễm tư tưởng và thói quen phong kiến tiểu tư sản, thực dân đế quốc, không phù hợp với nếp sống mới trong sáng của giai cấp vô sản. Tôi thành khẩn nhận khuyết điểm và hứa khắc phục sai lầm, xa lánh Vương Thúy Kiều mãi mãi”.

Từ Hải nộp một bản cho cơ quan, một nộp cho chi bộ, một nộp Công đoàn.

Mãi sau này, Từ Hải mới biết thủ trưởng đã thế chỗ của mình trên giường Vương Thúy Kiều. Anh ta nói với Thúy Kiều: “Anh không tin Từ Hải khỏe hơn anh”.

N.V.

Comments are closed.