Vài suy nghĩ về Thảo Trường và truyện ngắn “Cái hố”

Trần Hữu Thục

Hơn 10 năm trước đây, tôi đã có dịp đề cập đến Thảo Trường trong bài thuyết trình đọc tại buổi hội thảo về Văn Học Miền Nam, tổ chức tại nhật báo Người Việt ngày 6/12/2014.

Có lẽ truyện ngắn “Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp” của Thảo Trường biểu trưng cho cái bi kịch chiến tranh, hay nói đúng hơn, bi kịch QuốcCộng ở mức độ đáng xem là “bi kịch” nhất. Mời đọc một trích đoạn:

Thời gian này chị Tư quên đi mất hình ảnh anh Tư, vì chị Tư đã được sống lại những cảm giác khoái lạc đến hỗn độn với anh binh sĩ truyền tin và “chú” em trai cán bộ. Chị giãy giụa trong những niềm hoan lạc tràn ngập đó. Cuối cùng, đến một hôm, cái thai trong bụng chị máy động. Cái máy động thứ nhất làm chị bàng hoàng. Chị tự hỏi “nó” là của ai? Của anh cán bộ hay anh binh sĩ truyền tin? Chị thẫn thờ cả người và chị muốn rời ngay cái chốn đó. Chị tự hỏi của ai? Chị muốn biết của ai? Cái thai của ai cũng được nhưng chị phải biết chắc là của người nào. Lúc này chị lại nghĩ tới anh Tư dữ dội. Và chị Tư bỏ dở công tác binh vận. Chị trở về căn nhà xiêu vẹo ở ven bờ kinh. Chị khóc ròng vì không biết cái thai của ai.

Của ai? Thật khó có câu trả lời rõ ràng. Mà ngay có câu trả lời, bi kịch ở đây vẫn nguyên vẹn là bi kịch. Bi kịch của một cuộc chiến tranh tương tàn. Của một bế tắc. Một cùng đường. Nhưng xin lưu ý: nêu lên bi kịch không phải là chấp nhận bi kịch. Ngược lại, bi kịch ở đây chính là sự thao thức, một thao thức lớn. Tuy thu tóm trong hình ảnh của một người phụ nữ, câu hỏi “của ai?” hàm chứa một thao thức về phận người, phận nước, về vận người, vận nước, về chiến tranh và hòa bình. Và về tương lai.”[1]

“Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp” được viết vào năm 1966, lúc ông đã là một cây bút thành danh của Văn Học Miền Nam.

Tôi đã làm quen với Thảo Trường từ trước đó, đầu thập niên 1960, qua “Cái hố”. Truyện ngắn này vốn đăng trên một tạp chí văn chương Sài Gòn (mà tôi quên tên), về sau được in lại trong “Thử lửa” (1962),[2] tập truyện đầu tay của nhà văn. Tôi tìm đọc truyện ngắn này, trước hết là do tò mò, sau khi nghe một số đàn anh văn nghệ ở Huế rì rầm bàn tán về nó trong mấy quán cà phê, lúc tôi đang chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa của Trung Học Đệ Nhị Cấp.[3] Trong không khí tương đối còn thanh bình của miền Nam, cảnh chiến tranh ác liệt và sự kiện chết chóc diễn ra trong câu chuyện gây nên một cú sốc bất ngờ đối với đám học sinh mới lớn của chúng tôi. Đã thế, cùng xuất hiện vào thời điểm này là “Mấy dặm sơn khê”,[4] một nhạc phẩm của Nguyễn Văn Đông, qua đó, hình ảnh của người lính tiền đồn VNCH được diễn tả bằng một số nét tiêu cực chẳng thua gì trong “Cái hố”: “Bèo trôi theo sóng đưa”, “chít lên vành tang trắng cầm tay nhau đi anh tơ trời qua mong manh.” Sau khi nghe phong thanh là “Cái hố” cũng như “Mấy dặm sơn khê” bị cấm phổ biến, bọn học sinh chúng tôi bắt đầu bàn tán về các trận chiến đang diễn ra đâu đó ở những vùng xa xôi hẻo lánh, vốn chẳng mấy khi được báo chí đề cập một cách rõ ràng. Quả  thật, hai tác phẩm văn nghệ này đã phần nào gây nên cảm giác bất an trong chúng tôi đối với tình hình đất nước. Cảm giác đó vẫn còn đậm nét trong tôi cho đến bây giờ, đến nỗi, mỗi khi nói đến Thảo Trường là tôi nghĩ ngay đến “Cái hố”, mặc dầu nhiều tác phẩm khác của ông viết sau này cũng gây cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ không kém.

                                                                        *

Các truyện ngắn đầu tiên của Thảo Trường xuất hiện ở Sáng Tạo. Theo Nguyễn Văn Trung, Mai Thảo là người “đã khám phá  ra Thảo Trường do một tình cờ nhân một hôm ngồi buồn lục lại chồng thơ, truyện của muôn vàn tác giả vô danh gửi tới Tạp chí.”[5] Thành thật mà nói, giữa ảnh hưởng đang mỗi ngày mỗi rõ nét của văn chương Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền, Duy Thanh…trong giới trẻ các thành phố miền Nam, sự xuất hiện của Thảo Trường trên Sáng Tạo có phần hơi chỏi.  Khác với lối viết tân kỳ, khác lạ, chứa đầy những thao thức hiện sinh, đôi khi có phần khó hiểu, của hầu hết những cây bút Sáng Tạo, văn phong Thảo Trường giản dị, dễ hiểu, đầy tính hiện thực, thậm chí có phần dễ dãi, tùy tiện. Nguyễn Văn Trung  cho rằng “Những truyện anh viết đều “sống” và “chân thành” (…) “Thảo Trường có lời văn y như những câu nói hàng ngày, câu nói đi liền với một cử chỉ, thẳng thắng, gẫy gọn, cộc lốc.”[6] Đặng Tiến cũng có cùng một nhận xét: “Lối kể chuyện [của Thảo Trường] tự nhiên, chân thành đến mức nhiều người đọc ngờ là chuyện tình của tác giả.”[7]

Chính ở điểm này, Nguyễn Lệ Uyên nhận định rằng, tuy những truyện ngắn đầu tay đăng trên tạp chí Sáng Tạo (‘Hương gió lướt đi’, ‘Làm quen’…), nhưng “xếp ông vào nhóm Sáng Tạo thì có vẻ như đẩy ông trở thành một người cô đơn giữa những Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp… bởi ngôn ngữ văn chương của ông không mang tính đặc thù của dòng văn học này; thứ đến cách chọn lựa đề tài, xây dựng các nhân vật chưa hề thấy sự buồn nôn, mệt mỏi, chán chường muốn phá vỡ đập nát tất cả những gì đang có trước mặt, như là một mệnh đề khởi đầu cho cuộc cách mạng cho đời sống xã hội và văn chương, tức đứng về phía cái mới.” Do đó, “Sự xuất hiện của Thảo Trường bằng truyện ngắn đầu tay trên Sáng Tạo chỉ là con đò giúp ông qua sông, đến với văn học miền Nam. Vì sau này, khi bút lực của ông đến độ chín muồi, chúng ta lại thấy truyện của ông đăng tải trên các tạp chí xếp vào loại dấn thân, thậm chí là đối lập, như Hành Trình, Đất Nước, Trình Bày…,” cũng theo Nguyễn Lệ Uyên.

Văn chương Thảo Trường không phải là văn chương tu từ, mà thuộc loại “có sao nói vậy (người ơi)”, một thứ văn chương “nguyên liệu” (raw material), văn chương “tươi sống”, không kinh qua kỹ thuật chế biến và xào nấu chữ nghĩa cầu kỳ. Trong hầu hết các truyện của ông, những chi tiết gây ấn tượng  nhất đều gắn liền với sự kiện (hoặc do hư cấu hoặc ghi lại từ cuộc sống thật), hay nói cho chính xác, gắn liền với cách ông mô tả sự kiện với tất cả cái chất nguyên xi, cụ thể của chúng:

Trên đường đến trường nó thường la cà ở những chỗ nó ưa thích.

Như đứng ở cửa mấy nhà điếm đông nghẹt lính ngoại quốc. Nó há hốc mồm, mắt nhìn vào trong, tiếng cười đàn bà rú lên sặc sụa và cái bàn tay đàn ông đuổi theo quờ quạng, nó rùng mình buồn buồn ở xương sống.  Nó muốn được sống như vậy.  Chiếc cặp sách trên tay nó nặng nề vướng víu.  Trong đầu óc nó lúc ấy là một cuộc vật lộn lõa lồ.

Như lúc đi qua con đường trại giam nhà máy chai, nhìn qua hàng rào kẽm gai, nó chứng kiến quyền lực của kẻ mạnh, nó chứng kiến sự chịu đựng của con người. Người lính cầm chiếc giây lưng quật túi bụi vào đám tù nhân.  Những cái đá giày đinh đánh lên ngực những người rách rưới. Tiếng kêu rú thảm thiết trong phòng giam làm nó lắng tai nghe.  Nó đứng lại nhòm qua rào kẽm gai như nhìn vào một thế giới khác.” (Cái hố)

Không những thế, có khi, chúng trần trụi, thô, chơn chất:

Khi trở về hai người ôm hai xoong cơm, liếc nhìn không thấy thi đua trật tự đâu, đến một chỗ hàng rào khu, kẽm gai đơn thưa thớt mấy sợi, chị bèn đứng lại khom lưng xuống chổng mông sang phía anh, xoong cơm của đội chị vẫn ôm nơi bụng, từ bên kia những sợi kẽm gai, anh luồn tay sang níu hai bên hông chị ghì tới… Chị nghe có tia nước ấm áp phóng sang và chị cảm thấy thành công và thắng lợi. Hai tay anh buông lỏng ra, chị còn nghe tiếng anh thở hổn hển, chị đứng thẳng người lên, vẫn ôm xoong cơm của đội nơi bụng, chị liếc nhìn sang anh, miệng cười như mếu rồi bước vội về buồng giam của mình. Anh ta cũng lật đật cài áo mưa lại, cầm cái xoong cơm treo trên cột hàng rào rồi cũng quay bước về phòng mình. Hai người hai hướng câm lặng và xót xa. Đứa con được tạo thành trong những cơn mê mẩn ấy.” (Những đứa trẻ đầu thai giữa hàng rào)

Nhưng nếu chỉ như thế, ta sẽ không có Thảo Trường.

Sự kiện cụ thể chỉ là phương tiện được ông khai thác tối đa để bày tỏ nhận thức của mình. Ở nhiều chỗ, cách diễn tả sự kiện của ông, tự nó, đã hàm chứa tính tư tưởng: sự kiện tự phát biểu cho chính mình (The facts speak for themselve). Nói chung, những ý tưởng của ông thường nảy sinh “từ” và “trong” sự kiện, nghĩa là những gì ông thu tóm được trong cuộc sống bên ngoài, chứ không hẳn xuất phát từ một lý thuyết hay quan điểm có hệ thống nào đó của những nhà lập thuyết. Qua thời gian, ngôn ngữ của ông trau chuốt, mạch lạc và tinh tế hơn, nhưng chất văn nói chung thì vẫn thế, ngồn ngộn hiện thực đan xen với những ý tưởng nảy sinh. Người đọc thường bắt gặp hiện tượng “nhảy vọt” từ sự kiện sang tư tưởng và ngược lại, trong văn Thảo Trường: đang mô tả chi li một sự kiện nào đó, bỗng dưng ông ngang xương cho chen vào một ý tưởng vừa bật lên, và rồi sau đó, lập tức trở về lại với sự kiện.

Có thể nói, trong văn Thảo Trường, sự kiện vừa là chất xúc tác vừa là trung gian vừa là nơi ươm mầm của tư tưởng.

 “Người lính hỏi:

            – Em làm gì thế?

            Thục chỉ lỗ đạn:

            – Tôi moi cái đầu đạn trong đó để làm kỷ niệm.

            Người lính hỏi:

            – Làm kỷ niệm, em cũng thích kỷ niệm?

            Thục gật đầu:

            – Tôi cần một đầu đạn giữ chơi. Mẹ tôi cũng có một đầu đạn như thế. Mẹ tôi cất trong sắc tay.

            Người lính nói:

            – Tôi có đạn đây, em thích tôi sẽ tháo cái đầu đồng ra cho em một viên.

            Thục lắc đầu:

            – Tôi muốn moi lấy cái đầu đạn từ trong lỗ kia. Tôi không thích cái đầu đạn chú tháo ra. Đầu đạn kia đã bắn vào nhà tôi. Chú biết cái đầu đạn của mẹ tôi lấy ở đâu ra không?

            Người lính lắc đầu, Thục khoe:

            – Cái đầu đạn của mẹ tôi lấy từ ngực ba tôi.

            Người lính ngạc nhiên:

            – Từ ngực ba em? Ba em ở đâu rồi?

            Thục ngồi xuống bờ hè:

            – Ba tôi chết rồi. Ba tôi là quận trưởng, ba tôi là đại úy, chú là gì uý?

            Người lính cười:

            – Anh là lính.

            – Chú là lính trơn à?

            Người lính lại cười gật đầu.”

            (Viên đạn bắn vào nhà Thục)

Mẩu đối thoại chung quanh cái “đầu đạn” đã được bắn ra, trông rất vớ vẩn, nhưng lại gợi nên vô số điều để suy ngẫm về chiến tranh.

Trong “Trong hẻm”, một truyện ngắn khác viết ở hải ngoại sau này, khi nghe người chủ cắt cỏ động viên nhân vật (xưng “tôi”) là nghề cắt cỏ không có gì khó, chỉ chịu khó tập luyện là ra nghề được thôi, Thảo Trường viết:

Quả thật cái gì tôi cũng phải tập cho quen thôi. Tập thức sớm, tập dậy trễ. Tập siêng năng, tập lười biếng. Tập khôn ngoan, tập khờ khạo. Tập tự do, tập độc đoán. Tập đôn hậu vồn vã, tập tàn nhẫn lạnh lùng. Tập khoan dung, tập bất nhân. Tập hiền, tập ác. Tập lo âu, tập thây kệ… Phải tập tành tất. Tập đồng minh, tập phản bội. Tập can thiệp, tập tháo chạy…”

            Từ chuyện “tập làm nghề” để kiếm sống, Thảo Trường nhảy một mạch đến những cái “tập” khác trong cuộc nhân sinh và xa hơn nữa, ông xem việc làm “đồng mình” hay “phản bội”, “can thiệp” và “tháo chạy” của người Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam cũng phải “nhờ” và “do” tập luyện mà có. Nhận định bất ngờ này biết đâu chẳng giúp người Việt Nam chúng ta nhìn rõ hơn bản chất của người bạn Mỹ!

            Một số các tác giả thường tránh cách viết này, vì họ cho rằng đưa tư tưởng vào một cách đột ngột, trực tiếp như thế này là không tự nhiên, có vẻ “áp đặt”,  thiếu “nghệ thuật”. Nhưng Thảo Trường là thế và luôn luôn như thế. Tôi cho đó là một phong cách: phong-cách-thảo-trường. Phong cách này không xuất phát từ kiến thức sách vở, mà là một bùng nổ bẩm sinh, một đụng độ tóe lửa với cuộc sống, dần dà trở thành quan điểm sáng tác. Như ta biết, ông không phải là người được học hành tới nơi tới chốn như nhiều nhà văn khác. Ông đã từng bộc bạch: “Tôi mồ côi cha từ nhỏ, mẹ tôi chỉ nuôi tôi đi học, không có ai hướng dẫn chỉ bảo và mọi việc tôi phải tự mày mò lo liệu lấy. Sau khi đậu Trung học ở trường Nguyễn Khuyến Nam Định, năm 1954 di cư vào Nam. Tôi thi tú tài mấy lần đều “trượt” nên bèn xin vào học khóa 6 sĩ quan trừ bị Thủ Đức, do đó mà tôi chưa hề được biết đại học văn khoa là gì.” [8] Được hỏi về phương pháp sáng tác, ông trả lời dứt khoát: “Tôi chịu thua không biết cách chỉ cho ai phải viết văn cách nào. Tôi đã nói tôi không có cơ may học đại học văn khoa. Có lẽ… trời cho mà thôi.”[9]

Nguyễn Văn Trung đã “hàn lâm hóa” hay nói một cách khác, “lý thuyết hóa” lối sáng tác của Thảo Trường khi nhà nghiên cứu triết học và văn chương này cho rằng Thảo Trường thuộc loại những nhà văn “nhấn mạnh vào ý thức, như một đối thoại của nhân vật với chính mình trong một cuộc hành trình nhận thức, và vì thế, những sự kiện, biến cố bên ngoài không được mô tả lên như một gía trị tự tại, nhưng chỉ như là những dịp gây thức tỉnh, đưa ý thức vào con đường nhận định mà thôi.”[10]

                                                                                    *

Trở lại với “Cái hố”.

Là một trong những truyện ngắn đầu tiên xuất hiện vào thời kỳ mới bước vào làng văn, văn phong cùa Thảo Trường trong “Cái hố” chưa được gãy gọn, nhiều chỗ còn khá tùy tiện và bố cục còn lủng củng, có đoạn kéo dài không cần thiết nhưng có đoạn lại quá cô đọng. Nhưng phong cách riêng của Thảo Trường đã định hình. Đó là một truyện ngắn khá ngắn, chỉ trên ba ngàn chữ, nhưng chứa đựng một số lượng chi tiết cụ thể, đặc thù, đưa đến sự hình thành nhiều sự kiện hoặc biến cố, mà nếu muốn, tác giả có thể triển khai ra thành nhiều truyện ngắn khác nhau hay ngay cả một truyện dài nghiêm chỉnh. Xin nêu lên vài nét chính:

  • Bi kịch gia đình: Do ngoại tình, gia đình tan vỡ hoàn toàn đến nỗi cả cha lẫn mẹ, không ai chịu nuôi con, buộc phải gửi Lại, nhân vật chính, đến sống nhờ ở nhà một người bạn.
  • Lại có cá tính rất bất thường: thích cảnh dâm đãng, cảnh người đánh người, bạo động (tự hành hạ mình và hành hạ người khác).
  • Quan hệ tình cảm phức tạp giữa Lại và Hồng, con của chủ nhà. Do sự khác biệt về hoàn cảnh, cá tính và sở thích, hai đứa trẻ vừa thân nhau, lại vừa kỵ nhau. Lại tự ti mặc cảm, Hồng khôn ngoan điềm tĩnh. Lại tỏ tình, nhưng Hồng không tích cực đáp ứng, để lại một “vết thương dậy thì” sâu đậm trong lòng Lại.
  • Mối tình không đi đến đâu. Hồng lấy chồng lính, Lại cũng đi lính như một hình thức trả thù và trở thành một tên lính tàn ác.
  • Trong một trận đánh nhau, bị cái hố chận đường rút quân trong lúc địch gấp rút đuổi theo, Lại đốc thúc binh sĩ lấp hố bằng mọi giá, kể cả xác chết đồng đội, và chôn sống luôn viên chỉ huy trưởng của đơn vị, là chồng của Hồng.
  • Để trả giá cho hành vi tàn ác” của mình, Lại chọn lựa một quyết định cũng “tàn ác” không kém: tự bắn nát đôi chân của mình.
  • Lại hối hận, viết thư cho Hồng thú nhận đã “chôn sống” chồng của cô.
  • Để trả thù cho chồng, Hồng mang súng định bắn chết Lại, nhưng khi Lại nhắc đến hai chữ “ngày xưa”, Hồng cảm động, dừng tay.

Toàn câu chuyện diễn tiến theo một trình tự xã hội và tâm lý điển hình, tạm tóm tắt như sau:

Bất hạnh (cha mẹ bỏ nhau) → Nổi loạn (thích cảnh dâm đãng và hành hạ, đi lính) → Tội ác (chôn sống người)  → Hình phạt (tự bắn vào chân) → Thú tội (viết thư cho Hồng) → Trả thù (Hồng định giết Lại) → Tha thứ (Hồng không giết)

Những ý tưởng nòng cốt được Thảo Trường diễn giải một cách rõ ràng và tường tận trong lá thư Lại gửi Hồng:

  • Để sống còn, con người chấp nhận phạm tội. Khi cần, tất cả mọi phương tiện đều tốt, kể cả giết người, bất chấp Thượng Đế và lòng nhân đạo. “Khi chạy trốn, đấng Bề Trên có đi trước mặt, chúng tôi cũng vượt qua.”
  • Tội ác phải đi đôi với trừng phạt. “Tôi phải bắn ngay và bắn hết băng đạn vào hai chân tôi (…) Không nên hủy bỏ công việc mình đã làm được, thà là mình chịu thiệt thòi.”
  • Thân xác con người là một phương tiện. Phương tiện đó chỉ hữu ích, có giá trị khi được sử dụng như một dụng cụ, hoặc để “lấp đầy một cái hố”, hoặc để làm một “một tang vật tố cáo chiến tranh”.
  • Cuối cùng, Thảo Trường đã chuyển cái hố, từ một hình tượng cụ thể, thành một ẩn dụ nhân sinh. “Từ thời thơ ấu đến nay, thiếu tình thương, thiếu tình yêu, thiếu giáo dục, lòng tôi cũng đã là một cái hố rất sâu và rất rộng. Có ai lấp cho đâu.  Thế nên tôi phải lấp lấy.  Bằng sa đọa.  Hay bất cứ bằng thứ gì.”

Từ đầu đến cuối, nhân vật hầu như sống trong và sống bằng những hoàn cảnh cực đoan và đối phó với chúng cũng bằng những hành động cực đoan: bạo động với người cũng như với chính bản thân. Xây dựng một nhân vật bất thường như thế, Thảo Trường muốn tìm cách dùng nó để lý giải những khía cạnh ẩn dấu của con người: khi bị dồn ép bởi hoàn cảnh gia đình tan vỡ đi đôi với mặc cảm thua sút và  thất vọng trong tình yêu, con người trở nên hư hỏng, tàn ác, thù người và ghét mình.

Chính ở điểm này, tôi tìm thấy “Cái hố” mang hơi hướm phân tâm học.

Cố tình chôn sống viên chỉ huy trưởng của mình được nhân vật giải thích như là giải pháp duy nhất để đơn vị được sống còn, thực ra, là “hành vi trả thùcủa nhân vật Lại đối mối tình đầu thất bại của mình. Nói một cách khác, nếu viên chỉ huy đơn vị bị thương kia không phải là chồng của Hồng, thì mọi sự có thể diễn ra một cách hoàn toàn khác. Nhưng đây là một hành vi hoàn toàn vô thức, nằm ngoài ý định của nhân vật và theo tôi ức đoán, nằm ngoài cả ý định của người khai sinh ra nó là Thảo Trường. Như ta biết, Lại rất yêu Hồng, nhưng do mặc cảm và vụng về nên không được Hồng đáp ứng. “Cứ như vậy đến một hôm tôi thấy trong mắt em có ánh đèn mầu và tôi nói tôi không thích sân-khấu trên cuộc đời dưới này, có em, với cuộc đời và quyền-hành.  Cái đêm em nhìn kịch và tôi xem người nhìn kịch là kỷ-niệm sâu đậm thực thà nhất của tôi đấy.” Thái độ dửng dưng của Hồng khi Lại tỏ tình đã để lại một “vết thương dậy thì” sâu đậm, tăng cường thêm mối tự ti mặc cảm vốn sẵn về hoàn cảnh gia đình tan vỡ của mình. Bình thường thì vết thương này nằm im trong vô thức và có thể mãi mãi nằm im như thế. Nhưng cuộc lui quân, cái hố chận đường, kẻ tình địch bị thương khiến cho vết thương cũ được khơi dậy một cách mạnh mẽ vào một thời điểm vô cùng sinh tử, chi phối mọi hành động của Lại.

Chúng tôi lấp bằng đất, bằng gỗ, bằng đá và bằng xác binh sĩ, kể cả cái khối thịt bị thương ở vai.  Tất cả chỉ là phương tiện, viên chỉ huy và xác binh sĩ, lúc đó, với tôi có giá trị như một khúc gỗ, một tảng đất, một thể khổi choán được một khoảng trống nguy hiểm trong cái hố chướng ngại kia.

Trong lòng Lại, tình địch không  được xem như một con người mà chỉ là một “khối thịt bị thương ở vai.” Cứu lấy sự sống còn của đơn vị chỉ là một cách ngụy trang cho “kẻ ác” tiềm ẩn sẵn trong vô thức của Lại: trả thù tình. Tự làm mình tàn phế sau đó là sự trỗi dậy của “cái thiện”, cũng nằm trong vô thức, của Lại: hối hận. Điều trớ trêu là “kẻ ác” và “cái thiện” đều được thể hiện bằng những hành động cực đoan: giết người và làm tàn phế mình. Đây là nét sắc sảo nhất được tìm thấy ở trong “Cái hố”, dù điều này (có thể) nằm ngoài ý định của tác giả.

Tóm lại, hình tượng cái hố và nỗ lực lấp hố, “xương sống” của câu chuyện, dẫu có đôi điều chưa được hợp lý, đã tạo nên nét độc đáo riêng của một truyện ngắn, khiến Thảo Trường có ngay một chỗ đứng trong lòng độc giả, lúc mới khởi đầu văn nghiệp.

9/2025

Phụ lục 1:

Cái hố

Truyện ngắn của Thảo Trường

Lại ngồi trước máy chữ, mười ngón tay sẵn sàng thể hiện những ý nghĩ đã xáo trộn trong anh hơn năm năm nay. Từ ngày anh ra khỏi nhà thương về nằm trong căn nhà vắng vẻ này.

Mười ngón tay sắp hàng trên máy chữ.  Anh nghĩ tới một toán lính đợi lệnh bước, tới một đoàn chiến xa sẵn sàng xung trận, một dàn đại bác nghển cổ chờ đợi. Anh nghĩ tới những hình ảnh sẵn sàng.

Đã nhiều lần anh cho khởi hành, những mười ngón tay cũng chỉ rối loạn, những hàng chữ in trên giấy không phải là những dòng bản thảo anh mong muốn, không chuyên chở được một tâm trạng. Lại khổ sở vô cùng. Anh tự dằn vặt, cáu kỉnh vô lý.

Thuốc lá cháy đã nhiều, những tờ bản thảo hủy bỏ vứt đi cũng đã lắm, thế mà điều anh muốn nói vẫn chưa nói được. Tâm sự người phế binh ấy vẫn khép kín. Lại cảm thấy trong anh một cái gì trống rỗng, một sự rối loạn, phản kháng thường trực định trỗi dậy, định phá phách. Lại muốn cười muốn khóc cho vỡ khối thương đau, cho trôi đi niềm tủi hận.

Hai chân Lại cụt ngang đùi, thịt sẹo đỏ hỏn. Lại ngồi thường xuyên trên một chiếc xe lăn tay. Máy chữ gắn vĩnh viễn trên bàn xếp trước mặt. Cuộc đời Lại thu gọn còn bấy nhiêu.

Lại sống nhờ Tòng, thỉnh thoảng Tòng lái xe Jeep về thăm Lại, mang cho bạn món tiền, ít đồ cần thiết và nhất là an ủi bạn ít câu, thảo luận về một vài chuyện đàn bà. Đôi khi cao hứng, Tòng bế Lại lên xe Jeep phóng tung thành phố, Tòng nói:

– Cậu cũng phải “sống” một tí chứ.

Sau những lần “sống” với Tòng trên xe qua các phố như thế, lúc trở về nhà, Tòng từ biệt rồi, Lại thường ngồi một mình trên xe lăn, mười ngón tay sắp hàng trên máy chữ. Sẵn sàng. Đợi lệnh.

                                                                                    *

Hai đứa bằng tuổi nhau, cùng học tại một trường trung học ở Nam Định và chúng đối xử với nhau như anh em. Đứa con gái là con đẻ; đứa con trai là học trò trọ học, bố mẹ nó xa nhau vì một trong hai ngoại tình. Nó được gửi đến nhà người bạn, bố mẹ đứa con gái, nuôi nấng nó. Những sự việc ấy đứa con trai chỉ hiểu lờ mờ và đời sống của nó vẫn náo động, ham chơi. Hai đứa thân mến nhau tuy tính tình rất khác biệt.

Đứa con gái gầy gò và khôn ngoan, nhiều lúc nó có những thái độ như người lớn.  Đứa con trai có nhiều khát vọng, nó thắc mắc về tất cả những chuyện xung quanh.

Trên đường đến trường nó thường la cà ở những chỗ nó ưa thích.

Như đứng ở cửa mấy nhà điếm đông nghẹt lính ngoại quốc. Nó há hốc mồm, mắt nhìn vào trong, tiếng cười đàn bà rú lên sặc sụa và cái bàn tay đàn ông đuổi theo quờ quạng, nó rùng mình buồn buồn ở xương sống. Nó muốn được sống như vậy.  Chiếc cặp sách trên tay nó nặng nề vướng víu. Trong đầu óc nó lúc ấy là một cuộc vật lộn lõa lồ.

Như lúc đi qua con đường trại giam nhà máy chai, nhìn qua hàng rào kẽm gai, nó chứng kiến quyền lực của kẻ mạnh, nó chứng kiến sự chịu đựng của con người. Người lính cầm chiếc giây lưng quật túi bụi vào đám tù nhân. Những cái đá giày đinh đánh lên ngực những người rách rưới. Tiếng kêu rú thảm thiết trong phòng giam làm nó lắng tai nghe.  Nó đứng lại nhòm qua rào kẽm gai như nhìn vào một thế giới khác.

Có nhiều lần đứa con gái bắt gặp bạn mình đứng ở những chỗ ấy, nó trách đứa con trai:

– Anh có biết rằng, anh đứng lại xem như thế đã làm mất thể diện của tôi đi không?

Nhưng đứa con trai chỉ chiều ý bạn lúc bấy giờ.  Những khi đi một mình nó vẫn dừng chân dọc đường.

Biết bạn mình còn đam mê và không nghe lời, đứa con gái giận lắm. Có lần nó mách thầy mẹ nó, đứa con trai bị đánh đòn và đứa con gái ra ôm mặt khóc nức nở ở vườn sau một mình.  Cả hai cùng khổ.

Đứa con trai còn thắc mắc về sự chết chóc. Nó cắt da ngón tay, đốt cháy ngón chân để tìm cái mùi khét của thịt người. Có lần nó bật lửa đốt đùi một đứa bé hàng xóm. Nó cũng thích mang dao găm và làm quen với lính commando. Những sự ấy làm nó hãnh diện.

Một buổi tối hai đứa dẫn nhau ra công viên coi một ban kịch tuyên truyền trình diễn.  Hai đứa dắt tay nhau chen chúc chui lên đứng sát sân khấu.  Đứa con trai phải khó nhọc lắm mới dắt được bạn vào chỗ đã chọn. Hai đứa cùng nhìn lên sân khấu và mỗi đứa sống theo ý nghĩ riêng.  Có một lúc đứa con trai để ý đến thái độ của bạn mình. Đứa con gái có khuôn mặt trắng xanh, những sợi tóc lòa xòa xõa xuống, miệng hơi há ra, đôi mắt lơ đãng, nhìn các nhân vật. Không cười theo tiếng cười của khán giả xung quanh, đứa con gái cũng không xúc động với những vai trò não nùng trên sân khấu. Đứa con trai lạ lùng nhận biết điều đó. Nó nhìn mọi người xung quanh, có lúc họ ngả nghiêng cười, có lúc họ đăm chiêu suy-nghĩ, có lúc họ rớm buồn. Nhưng nhìn về khuôn mặt trắng xanh gầy gò của bạn vẫn chỉ một vẻ mặt dửng dưng, một thái độ không có thái độ. Đứa con gái nghĩ tới hồi ở hậu phương nó cũng được coi những vở kịch tuyên truyền chế giễu như thế. Đứa con trai cho rằng bạn mình chỉ nhìn kịch chứ không xem kịch. Rồi nó để ý đến ánh đèn màu thay đổi trên khuôn mặt bạn nó. Chao ôi là đôi mắt, có những ánh màu xanh đỏ thay đổi lấp láy bên trong.

Hết một màn, đứa con gái nhìn sang đứa con trai và thấy bạn nhìn mình chăm chú thì hỏi:

– Sao Lại không xem kịch, sao Lại chỉ nhìn Hồng?

Đứa con trai vung tay phác một cử chỉ :

– Tại tôi không thích sân khấu trên kia. Tôi thích cuộc đời dưới này. Trong mắt Hồng có đèn mầu đấy…

Hỏi:

– Hồng là cuộc đời?

Lại gật đầu:

– Của tôi.

Hồng đứng nghiêng nghiêng đầu suy nghĩ, nhưng vẫn là một thái độ không thái độ:

– Tôi biết cuộc đời ngoài kia còn có thứ quyến rũ hơn tôi nhiều.

Tan kịch, trở về, ngang qua một ngã tư có cổng chào, đèn sáng trưng. Hai đứa đứng lại. Xem rất lâu. Hồng ngồi xổm xuống vỉa hè, hất bàn tay nâng lấy cằm, khuỷu tay chống trên đầu gối, miệng há ra. Hồng thắc mắc về câu nói ban nãy của Lại.

                                                                                    *

Ba năm sau, cuộc đời đổi khác. Đứa con gái đi lấy chồng nhà binh. Đứa con trai cũng bỏ đi lính. Hắn sống vội vã, đánh nhau, hành hạ, hiếp chóc, đốt nhà, cướp của.

                                                                                    *

Hồng thân mến,

Từ ngày tôi rời bỏ gia đình em đi đến nay tuy với mục đích là vồ vập lấy những thứ ao ước ở cuộc đời, nhưng tôi thú nhận là em vẫn là thần tượng của tôi.

Ngày ấy chúng ta là hai đứa trẻ. Tôi lại là một đứa trẻ luôn luôn đòi hỏi.

Tôi còn nhớ những lần tôi tần ngần đứng xem trước nhà điếm và trại giam ở dọc đường. Điều mà làm em không bằng lòng, nhưng em có biết đâu những hình ảnh dâm dục trong nhà chứa đã như in vào trí óc tôi và tôi tưởng hạnh phúc ở đời là như vậy. Tôi thèm muốn được làm những người lính viễn chinh phá phách gào thét trong nhà chứa và đánh đập tù nhân trong trại giam. Tôi yên trí rằng đánh được người ta như thế là mình có quyền hành, là vinh dự, là công danh, là mục đích ở đời. Tôi không muốn là tù nhân để bị đánh đập, tôi muốn được đánh đập.

Chắc em chả ngờ những lúc tôi muốn được xem trước nhà chứa và trại giam như thế trong lòng tôi sôi lên những trận cuồng phong, những khát vọng kinh khủng là dường nào? Chắc em chẳng thể ngờ rằng tôi lại đang mơ tưởng được sống một cuộc đời thô bạo như thế.

Hồng thân mến,

Cứ như vậy đến một hôm tôi thấy trong mắt em có ánh đèn mầu và tôi nói tôi không thích sân khấu trên cuộc đời dưới này, có em, với cuộc đời và quyền hành. Cái đêm em nhìn kịch và tôi xem người nhìn kịch là kỷ niệm sâu đậm thực thà nhất của tôi đấy.

Rồi Hồng đi lấy chồng và tôi bỏ đi lính. Hồng đi lấy chồng, vứt lại ở lòng tôi một sự trống rỗng ghê rợn. Tôi đi tìm những nơi mà hồi nhỏ tôi ao ước được đến, tôi sống tan hoang, tôi say tỉnh và đánh đập hành hạ những người tôi bắt được. Tiếng họ kêu rú lên thê thảm làm tôi cười sặc sụa. Thỏa mãn.

Có tiền, tôi mê mệt đi mua những thú vui bù đắp vào sự thiếu thốn tình cảm của mình.

Song những gì có thể trang trải được sự thua lỗ về tình thương gia đình, tình yêu nhân loại và thần tượng đã mất đi?

Hồng thân mến,

Bây giờ thì tôi đã là người thừa, không sản xuất, vô dụng. Tuy vậy, cũng có lúc tôi muốn người ta mang tôi ra trưng bầy ở một nơi công cộng nào đó để tôi còn có giá trị bằng một tang vật tố cáo chiến tranh, là nạn nhân của sự ham muốn ghen ghét giữa người với người.

Hồng thân mến,

Tôi xưa kia và bây giờ là như vậy. Còn về cái chết của chồng em, Hồng muốn biết rõ, tôi kể. Tôi kể ra bây giờ thì dù Hồng có căm giận tôi chắc em cũng chẳng thèm hành động gì để trả thù cái khối xương thịt động đậy nhưng vô ích lợi này.

                                                                                    *

Lúc tiến quân, chúng tôi được chứng kiến cảnh tàn phá tan nát, hiệu quả của những trái phá chúng tôi phóng đi.  Người bị xé phá tan tành, chân, tay văng mắc trên cành cây.  Một chiếc đầu được cắt ra khỏi cổ và tôi đá lăn lộc cộc xuống vệ đường, tôi nghĩ tới quả banh đá hồi còn đi học.

Nhưng sau đoàn quân chúng tôi bị địch được tăng cường, phản công. Chúng tôi phải rút lui về giai đoạn tuyến. Chiến trường đổi tình thế, địch quân, truy nã gắt gao.

Đoàn xe kéo sang đang chạy, thình lình gặp một cái hố phải dừng lại. Cái hố sâu và to bằng cả một cái xe. Hai bên đường lại là cánh đồng ruộng nước, không có lối cho xe chạy tránh sang một bên.

Người chỉ huy ra lệnh xuống xe, bố trí, cầm cự với địch sắp đuổi theo tới, cùng lúc phải lấp cấp thời cái hố để xe có thể vượt qua và tiếp tục rút lui. Xẻng cuốc được xử dụng triệt để.

Đại bác địch bắn phá ầm ầm, đã có nhiều người chết.

Viên chỉ huy chúng tôi đang đứng ở chỗ lấp hố, bị một mảnh trái phá bắn vào vai. Anh ta lảo đảo ngã gục. Lúc đó tôi đang gào thét đốc thúc binh sĩ xúc đất, bất cứ một thứ gì có thể lấp được hố chúng tôi cũng cho xuống. Điều cần là phải qua đây.  Chúng tôi lấp bằng đất, bằng gỗ, bằng đá và bằng xác binh sĩ, kể cả cái khối thịt bị thương ở vai. Tất cả chỉ là phương tiện, viên chỉ huy và xác binh sĩ, lúc đó, với tôi có giá trị như một khúc gỗ, một tảng đất, một thể khối choán được một khoảng trống nguy hiểm trong cái hố chướng ngại kia.  Cần phải lấp đi. Để cho xe qua. Để cho chúng tôi được sống! Để cho những đứa còn lại chúng tôi được sống.

Tôi biết có nhiều bạn đồng ngũ lúc đó phản đối tôi, nhưng tôi không cần, cả họ nữa, nếu ai chết hay bị thương tôi cũng đẩy xuống. Để cho xe qua, để cho những đứa còn lại chúng tôi được sống.

Rồi chiếc hố cũng đầy, ngổn ngang vừa đất, vừa đá, vừa gỗ và những cánh tay người thò lên bám víu lấy cuộc đời.

Đoàn xe lăn bánh chạy qua, chiếc hố lún dần xuống. Bất kể!

Về đến hậu tuyến thì toán quân chúng tôi chết và mất tích gần nửa. Số còn lại bơ phờ mệt mỏi chán nản. Có một nhóm người kéo đến de dọa và phản đối hành động dã man của tôi lúc lấp hố! Họ phẫn uất vì viên chỉ huy và anh em của họ bị chà đạp, bị chết oan.

Tôi mệt mỏi ngồi trên xe ôm tay lái, đầu gục xuống, mặc kệ chúng phản đối, la hét. Tôi không cần. Vì tôi còn sống. Và phía kinh thành đằng kia còn âm nhạc, còn ánh sáng, có rượu và đàn bà. Những thứ ấy làm tôi ham sống và vì thế tôi phải sống bằng bất cứ cách nào.

Sau bọn chúng làm quá, chúng nhắc đến sự chờ đợi của vợ viên chỉ huy và tôi phải ngẩng đầu dậy. Không chịu được nữa tôi rút súng, chúng dãn cả ra, trước mũi súng của tôi là người, là một lũ vừa thoát chết, ngón tay tôi để vào cò súng. Khổ lắm. Tôi bắn cả một băng đạn vào hai chân tôi. Tôi phải bắn ngay và bắn hết băng đạn vào hai chân tôi như thế, nếu không, những người tôi vừa cứu sống sẽ chết mất. Không nên hủy bỏ công việc mình đã làm được, thà là mình chịu thiệt thòi. Đó là điều duy nhất tôi học được không biết ở đâu nhưng chắc chắn không bao giờ tôi quên.

Bọn khốn nạn hốt hoảng nhảy bổ vào tôi tước khí giới. Tôi vùng vẫy khóc lớn:

– Cút hết cả đi. Cút hết cả đi. Đồ khốn nạn. Phải rồi. Dã man. Vô nhân đạo. Nhưng tại sao chúng mày còn trèo lên xe để về tới đây? Tại sao chúng mày còn sống đến lúc này? Tao muốn sống. Tao cũng không muốn chúng mày phải chết. Thế nên… khổ lắm… Đồ khốn nạn… Đồ khốn nạn…

Rồi tôi ngất đi. Khi tỉnh dậy ở bệnh viện thì đã bị cụt hai chân ngang đùi.

                                                                                    *

Hồng thân mến,

Như thế tôi cụt chân và chồng em chính là viên chỉ huy của tôi. Tôi đã chôn sống chồng em và tôi cũng đã chôn sống luôn cả cuộc đời khốn nạn của tôi hồi ấy.

Bây giờ nhớ lại, tôi không có gì hối tiếc cả. Bầu trời cảnh vật lúc ấy, nơi ấy thế nào tôi cũng không nhớ bởi tôi không biết gì tới ngoại cảnh. Chỉ có địch quân và súng đạn đe dọa phía sau.  Chúng tôi cần phải chạy về phía trước. Để được sống. Mặc dù phải giết đi cả những bạn đồng đội một cách vô nhân đạo, mặc dù chỉ để được sống cụt chân như bây giờ.

Với chiến tranh mang đạo nghĩa ra mà làm gì? Những lúc chúng tôi bắn giết địch quân, chúng tôi có nghĩ tới nhân đạo không và chính những người đuổi theo giết chúng tôi, họ có nghĩ tới điều đó không chứ? Chiến tranh tại tính tham lam và sự hận thù.

Khi chạy trốn, đấng Bề Trên có đi trước mặt, chúng tôi cũng vượt qua. Có xá gì những cái không phải là sự sống thể xác. Phải vượt lên trên. Qua mặt cả Thượng Đế, tình yêu và lòng nhân đạo. Mọi sự đều ở sau lưng mình.

Về sau, nhiều đêm nằm ngủ, tôi mơ thấy mình nằm trong lòng đất. Bên trên, những bánh xe vận tải lăn qua, lăn qua, đè ép càng lúc càng xuống. Trời đất ơi! Tôi nghẹt thở. Và quên đi.

Hồng thân mến,

Em đừng phàn nàn gì cả, thân xác mình cũng chỉ có giá trị là một thể khối, cũng chỉ là phương tiện cho những kẻ tiến tới hay chạy trốn. Những phương tiện đã là có ích rồi. Cần gì.

Hồng ơi! Tôi muốn tôi không vô dụng, tôi muốn tôi phải có giá trị, như một dụng cụ, một tang vật chứng cớ, một phương tiện, một thể khối, lấp đầy một cái hố cũng được. Miễn là phải có giá trị. Phải có ích. Phải có ích. Trời ơi! Tôi không muốn tôi ngồi không thế này.

Từ thời thơ ấu đến nay, thiếu tình thương, thiếu tình yêu, thiếu giáo dục, lòng tôi cũng đã là một cái hố rất sâu và rất rộng. Có ai lấp cho đâu. Thế nên tôi phải lấp lấy. Bằng sa đọa. Hay bất cứ bằng thứ gì.

                                                                                    *

Hồng mang súng đến nhà Lại, khẩu súng nhỏ đầy một băng đạn, nằm chờ trong xách tay.  Hồng dự định:  Sẽ tới gần Lại nhìn hắn một cái nhìn thật sắc, cẩn thận lấy súng ra, cẩn thận lên đạn, cẩn thận giơ lên nhắm. Bắn. Một phát. Chỉ một phát thôi. Để trả thù cho người đã chết.

Hồng khoan thai bước vào nhà. Lại thấy bừng dậy sự sống. Hắn nghe như chân hắn mọc ra và người hắn hơi nhổm dậy. Hắn kêu khe khẽ:

– Trời ơi. Cuộc đời. Của tôi. Ngày xưa.

Hồng thoáng ái ngại thương xót. Nàng buồn hai tiếng “ ngày xưa ”, thấy hai chân cụt và biết rằng Lại đang nhìn nàng bằng cái nhìn của “cuộc đời dưới này” đêm kịch năm xưa.

                                                                                    *

Nhớ ngày xưa, có lần tác giả nhặt được câu này trong nhật ký của một kẻ khốn nạn: “Dù tội lỗi, dù tàn tật, dù không còn là gì cả, con người cũng vẫn có tâm hồn, vẫn là sự sống, biết thèm thuồng, đói khát. Và đáng hiện diện.”

(Trong tập truyện “Thử Lửa”, nxb Tự Do, 1962)

 

 

Phụ lục 2:

 

Tiểu sử nhà văn Thảo Trường

Đặng Tiến ghi

 

Nhà văn Thảo Trường tên thật là Trần Duy Hinh, sinh 1936 tại Nam Định, nổi tiếng tại Miền Nam trước 1975, đã qua đời tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ, ngày 26-8-2010 vì chứng ung thư gan, thọ 74 tuổi.  Sĩ Quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, cấp bực thiếu tá, ông là một trong những người tù lâu năm nhất: 17 năm cấm cố qua 18 trại giam từ Nam ra Bắc.

Di cư vào Nam năm 1954, ông vào trường Sĩ Quan Thủ Đức, phục vụ ngành pháo binh vùng giới tuyến và bắt đầu viết văn. Truyện ngắn đầu tiên Hương Gió Lướt Đi đăng trên tạp chí Sáng Tạo, Sài Gòn, ký bút hiệu Thao Trường, đã gây ngay đựợc tiếng vang trong giới độc giả trẻ thời đó; tập truyện đầu tay Thử Lửa, 1962, vẫn ký Thao Trường, có tầm quan trọng đặc biệt: vừa là một thành tựu nghệ thuật, vừa đánh dấu một giai đoạn tạm gọi là “tiền chiến tranh” qua tâm lý một lớp thanh niên thành thị: lý tưởng, tin vào tình tự dân tộc không phân chia Nam Bắc thành chiến tuyến..

Sau đó Thảo Trường chuyển sang ngành An Ninh Quân Đội, tìm hiểu chiến tranh sâu hơn ở khắp chiến trường Miền Nam. Ông gần gũi với các nhóm trí thức độc lập Hành Trình và Trình Bày, đặt lại vấn đề chiến tranh, mong chiến tranh chóng chấm dứt trong công lý, tình thương và hòa giải. Khuynh hướng này được diễn tả qua những truyện nổi tiếng: Người Đàn Bà Mang Thai Trên Kinh Đồng Tháp, 1964, đã được dịch ra tiếng Pháp trên tuần báo công giáo Témoignage Chrétien, phổ biến trên cả thế giới, hồi đó. In lại trong tuyển tập Le Crepuscule de la Violence  (Hoàng Hôn của Bạo Lực), 1970. Đồng thời ông còn có truyện Viên Đạn Bắn Vào Nhà Thụcnguyên tên là Nhãn Hiệu Mỹ, vì có câu “đạn này nhãn hiệu Mỹ “ bị kiểm duyệt đục bỏ, khiến giới bình luận xếp tác phẩm ông vào loại phản chiến, trong tư trào công giáo tiến bộ.

Tổng cộng tại Việt Nam trước 1975, ông đã xuất bản 14 tập truyện; và là tác giả truyện Bà Phi đăng hằng ngày trên báo Tiền Tuyến; truyện ăn khách, dài khoảng 1000 trang.

Ra tù 1992, sang Mỹ đoàn tụ với gia đình 1993, ông tiếp tục viết, in đựợc 8 cuốn. Mới nhất là tuyển tập Những Miểng Vụn của Tiểu Thuyết, 2008. Truyện về sau thường kể lại đời sống cơ cực, phi lý trong các trại giam: “tất cả đau khổ tàn nhẫn, xót xa mà anh em trong tù phải chịu, những cảnh trớ trêu mình gặp, hay sự dốt nát tội nghiệp của cai tù… đều đòi hỏi mình để tâm phân tích” (Thảo Trường trả lời phỏng vấn ngày 4-8-2008).

Đặc biệt trong phong cách Thảo Trường là lối kể chuyện, ly kỳ, hấp dẫn. Giai đoạn đầu thì hành văn dịu dàng, tình tứ, giai đoạn cuối: ngôn ngữ góc cạnh, chua cay, nhưng luôn luôn điểm nét hóm hỉnh. Chất “uy-mua” nâng giọng nói lên một tần số cao hơn chính luận.

Sáng tác Thảo Trường trải qua đúng nửa thế kỷ và 3 giai đoạn khác nhau, vẫn có sợi chỉ mành thông suốt: đó là tấm lòng với con người, đất nước và lẽ phải.

Một tâm hồn nhân hậu và phóng khoáng như thế, mà phải trải qua vòng 17 năm lao lý qua 18 trại giam, sau khi chiến cuộc đã chấm dứt, là điều giới làm văn học không hiểu.

Ngày nào đó, chính trị phải trả lời văn học…

 

[1]Tính ‘văn học’ trong Văn Học Miền Nam

Xem: https://damau.org/34977/tinh-van-hoc-trong-van-hoc-mien-nam

[2] Hầu hết những truyện ngắn trong “Thử lửa” đều đã được đăng trong “Sáng Tạo”, chỉ trừ “Cái hố”.

[3] Từ đệ Tam (lớp 10) đến  đệ Nhất (lớp 12).

[4] Bản nhạc này về sau được chính tác giả đổi lại lời ca để được phép phổ biến. “Bèo trôi theo sóng đưa, hiến thân đời gió bụi” đổi thành “Hồn thiêng của núi sông kết trong lòng thế hệ”; “Chít lên vành tang trắng” đổi thành “Khoác lên vòng hoa trắng”.

[5] Nguyễn Văn Trung, “Vài cảm nghĩ của người đọc”, tập truyện “Thử lửa”, nxb Trình Bày 1962.

[6] Nguyễn Văn Trung, bài đã dẫn.

[7] Đặng Tiến, Nhà văn Thảo Trường,

https://www.art2all.net/tho/dangtien/dt_thaotruong2.htm

[8] Phạm Phú Phong, Phỏng vấn nhà văn Thảo Trường

http://www.hocxa.com/VanHoc/TacGia-1/ThT_DangPhuPhong_PhongVanNhaVanThaoTruong.php

[9] Đặng Phú Phong, bài đã dẫn.

[10] Nguyễn Văn Trung,  “Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết”, nxb Tự Do, Sài Gòn 1962.

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình, Văn and tagged , . Bookmark the permalink.