László Krasznahorkai – Đường đến nobel văn chương 2025

Ngân Xuyên  (theo các báo Nga)

LÁSZLÓ KRASZNAHORKAI, ĐƯỜNG ĐẾN NOBEL VĂN CHƯƠNG 2025

Năm nay, Ủy ban Nobel đã quyết định trao giải thưởng cho nhà văn Hungary László Krasznahorkai (sinh 1954), như đã nêu trong thông cáo báo chí, “vì giữa sự kinh hoàng tận thế, văn chương đầy sức thuyết phục và có tầm nhìn xa của ông đã tái khẳng định sức mạnh của nghệ thuật”.

Ủy ban Nobel nhận xét rằng László Krasznahorkai là tác giả của các tác phẩm sử thi thuộc truyền thống Trung Âu, trải dài từ Kafka đến Thomas Bernhard, với đặc trưng là sự phi lý và sự nghịch dị quá mức. Nhưng ông cũng có những tài năng khác: ông hướng về phương Đông, có được giọng điệu trầm tư, tinh tế hơn.

MỘT CÁI HỌ MANG TÍNH DÂN TỘC CHO NGƯỜI DO THÁI

László sinh năm 1954 tại thị trấn nhỏ Gyula ở miền Đông Hungary, sát biên giới với Romania. Cha ông, György Krasznahorkai, là một luật sư, và mẹ ông, Júlia, là một nhân viên an sinh xã hội.

Cái họ Krasznahorkai có nguồn gốc Slavơ rõ ràng. Thực tế, cha của László là người gốc Do Thái – một bí mật mà ông chỉ tiết lộ cho con trai mình khi László 11 tuổi.

Hóa ra, họ thật của ông nội nhà văn là Korin. Nhưng vào năm 1931, ông cụ đã đổi thành Krasznahorkai. Cái tên này chắc chắn đã gây được tiếng vang với những người theo chủ nghĩa dân tộc Hungary. Sau Thế chiến I, Hungary đã mất hai phần ba lãnh thổ, và chính phủ theo đường lối dân tộc chủ nghĩa rất muốn giành lại nó. Vào thời điểm đó, có một bài hát nổi tiếng, đầy cảm xúc về Lâu đài Krasznahorkai – tên địa phương của Lâu đài Krásná Húrka ở miền nam Slovakia, nơi đã được nhượng lại cho Tiệp Khắc sau chiến tranh. Lựa chọn này của ông nội có lẽ đã cứu gia đình ông khỏi thảm họa diệt chủng Holocaust.

TÌM CÁCH THOÁT KHỎI HỆ THỐNG

Năm 18 tuổi, sau khi tốt nghiệp trung học, László bị gọi nhập ngũ, và đó thực sự là địa ngục trần gian đối với anh. Anh hoàn toàn suy sụp; mọi người đều vui vẻ trên chuyến tàu đêm, nhưng anh thì không. László tìm thấy một chàng trai cùng hoàn cảnh, và họ hẹn gặp lại nhau sau. Nhưng khi anh đến thăm thì đúng lúc người bạn mới đang dùng súng bắn vào miệng mình tự tử. Krasznahorkai sẽ làm mọi cách để không bao giờ phải rơi vào địa ngục đó nữa.

“Nghĩa vụ quân sự gần như là cái chết đối với tôi. Suốt cả năm, tôi không bao giờ được phép rời khỏi trại. Tôi không phải là anh hùng hay người theo chủ nghĩa hòa bình, nhưng khi làm nhiệm vụ canh gác, bạn phải đứng đó với khẩu súng trên tay và chẳng làm gì cả. Thỉnh thoảng có một viên sĩ quan đến gặp tôi, và nếu lúc đó tôi đang đọc Kafka thì tôi không thể dừng lại được, vì Kafka thú vị hơn viên sĩ quan ngớ ngẩn đó. Vì vậy, tôi liên tục bị phạt và bị tống vào quân lao. Hoàn cảnh không đến nỗi tệ, nhưng điều đó có nghĩa là tôi vẫn không được phép rời khỏi trại. Và thật kinh khủng – phải ở đó suốt ngày”, nhà văn nhớ lại.

Để tránh phải nhập ngũ, László đăng ký học luật tại trường đại học. Cha ông muốn ông theo học ngành luật, nhưng ông chắc chắn con trai mình, người chỉ quan tâm đến nghệ thuật – văn học, âm nhạc, hội họa và triết học – sẽ từ chối. Như chính nhà văn nhớ lại, lý do chính cho sự lựa chọn của ông là Kafka, người mà ông đã bắt gặp từ rất sớm, khi ông chưa thể hiểu được ý nghĩa các tác phẩm của Kafka, và là người mà ông khao khát noi theo.

Theo thông tin chính thức, Krasznahorkai đầu tiên học luật tại Đại học Szeged từ năm 1973 đến năm 1976 và sau đó tại Đại học Eötvös Loránd ở Budapest từ năm 1976 đến năm 1978.

Tuy nhiên, bản thân nhà văn lại kể một câu chuyện hoàn toàn khác: chỉ sau ba tuần, ông không thể chịu đựng được bầu không khí ở trường luật và rời bỏ không chỉ trường mà cả Szeged. Để trốn tránh nghĩa vụ quân sự, ông thường xuyên chuyển nhà, sống ở những ngôi làng rất nghèo và luôn làm những công việc bấp bênh. Ông chuyển đến Budapest, nơi để tránh bị gọi nhập ngũ lần thứ hai, ông bắt đầu học tôn giáo và ngữ văn. Việc vượt qua các kỳ thi rất khó khăn vì ông chưa từng học đại học. Chỉ bốn năm sau, sự ra đời của hai đứa con mới giúp ông nhẹ nhõm hơn – nhờ chúng ông được miễn nghĩa vụ quân sự.

Năm 1977, László bắt đầu làm việc tại nhà xuất bản Gondolat (Tư tưởng). Cùng lúc đó, tác phẩm đầu tiên của ông, Tôi tin vào bạn (Tebenned hittem) được xuất bản trên tạp chí Mozgó Világ (Thế giới chuyển động). “Đó là truyện ngắn đầu tiên trong sự nghiệp viết lách của tôi – và nó cũng có thể dễ dàng là truyện cuối cùng,” Krasznahorkai chia sẻ trong một cuộc phỏng vấn. Ông chỉ muốn viết một cuốn sách thôi, sau đó theo âm nhạc. Nhưng định mệnh văn chương đã giữ ông lại.

Ngay khi bắt đầu đăng tải mấy cái viết vụn vặt, ông đã bị nhân viên an ninh gọi lên “làm việc”. Ông nhớ lại: “Có lẽ tôi đã quá trơ tráo, bởi vì sau mỗi câu hỏi, tôi đều nói, “Làm ơn tin tôi đi, tôi không liên quan đến chính trị.” – “Nhưng chúng tôi có biết một số điều về anh.” – “Không, tôi không viết về chính trị đương đại.” – “Chúng tôi không tin anh.” Cuối cùng không chịu được nữa tôi hét lên với họ “Các anh tưởng là tôi sẽ viết cái gì đó về những người như các anh sao?”

Nghe thế các nhân viên an ninh hết sức bực tức, và họ đã tịch thu hộ chiếu của Krasznahorkai, dù ông chỉ có hộ chiếu màu đỏ dùng đi lại các nước trong khối xã hội chủ nghĩa, chứ không phải hộ chiếu màu xanh có thể đi bất cứ đâu. Từ đó ông không thể ra nước ngoài. Mãi đến năm 1987 ông mới được cấp lại hộ chiếu.

Về sau ông tìm thấy trong các tài liệu mật vụ cho biết họ muốn tuyển dụng ông làm người cung cấp thông tin hoặc làm gián điệp, nhưng họ thừa nhận rằng điều này là không thể vì ông là người chống cộng.

ĐIỆU TANGO CỦA QUỶ

Năm 1982, László nghỉ việc tại nhà xuất bản và trở thành một nhà văn tự do. Năm 1983, ông cuối cùng cũng lấy được bằng cử nhân ngôn ngữ và văn học Hungary. Luận án của ông dành riêng cho cuộc đời và những trải nghiệm của nhà văn Sándor Márai (1900/1989) sau khi bị buộc phải lưu vong khỏi Hungary cộng sản vào năm 1949 – một chủ đề khá đáng ngờ ở một quốc gia xã hội chủ nghĩa, nơi nhà văn bị coi là một “tác giả tư sản”.

Thoát khỏi công việc và học hành, Krasznahorkai sống ở những ngôi làng, những thị trấn nhỏ và viết cuốn tiểu thuyết đầu tay. Nhưng không ai, kể cả chính ông, có thể tưởng tượng làm thế nào để nó được xuất bản ở nước Hungary xã hội chủ nghĩa, vì tác phẩm này vẽ ra bức biếm hoạ nghịch dị về hệ thống cộng sản.

Sự giúp đỡ đến từ một nơi không ai ngờ nhất: năm 1985, cuốn tiểu thuyết Điệu tango của quỷ (Sátántangó) đã được in tại một nhà xuất bản văn học đương đại do một cựu giám đốc mật vụ đứng đầu. Có lẽ ông ta muốn nhắc nhở họ rằng mình vẫn còn nắm giữ một số quyền lực.

Tác phẩm đầu tay này đánh dấu sự khởi đầu cho toàn bộ triết lý văn học của László Krasznahorkai. Cuốn tiểu thuyết, vốn định hình nên định hướng thẩm mỹ và triết lý cơ bản cho toàn bộ các tác phẩm sau này của nhà văn, ngay lập tức trở thành một trong những đỉnh cao của văn học Hungary nửa sau thế kỷ 20.

Câu chuyện diễn ra tại một ngôi làng bị bỏ hoang, nơi đã trở thành biểu tượng của sự suy thoái, đổ nát và hoang tàn về mặt tinh thần. Cư dân ở đây là những kẻ nghiện rượu, nghèo đói và tuyệt vọng, sống hoàn toàn biệt lập. Mọi chuyện bắt đầu bằng một tin đồn: Irimyash, một người đàn ông đẹp trai đã qua đời hai năm trước và từng tạo nên một phép màu kinh tế trong vùng, đang trở về làng. Nhưng người đàn ông được hồi sinh có thể là bất kỳ ai – một vị cứu tinh, một kẻ lừa đảo, hay chính Satan – tác giả đã biến tất cả những khả năng này thành hiện thực. Tên của ông gợi nhớ đến nhà tiên tri Jeremiah, được mệnh danh là nhà tiên tri của tuyệt vọng và hoang tàn.

Qua miêu tả về một ngôi làng nhỏ, tác giả nêu lên mô hình của chủ nghĩa xã hội hậu kỳ, nơi con người bị tước đoạt ý chí, trách nhiệm và hy vọng. Các nhân vật của Krasznahorkai sống trong trạng thái yên bình hậu tận thế, nơi ngày tận thế đã xảy ra mà họ thậm chí không hề hay biết. Đây là một cuốn sách về sự tuyệt vọng, bị mắc kẹt trong một vòng lặp thời gian. “Chúng ta không cần phải chờ đến ngày tận thế,” tác giả nói, “chúng ta cần hiểu rằng chúng ta đang sống trong thời kỳ đó.”

NHÀ BIÊN KỊCH ĐIỆN ẢNH

Ngay sau khi cuốn tiểu thuyết đầu tay của Krasznahorkai được xuất bản, công tác chuẩn bị cho việc chuyển thể đã bắt đầu. Tuy nhiên, do sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa và những biến động chính trị ở Hungary, công việc đã mất bảy năm. Bộ phim, dài gần bảy tiếng – 415 phút – được công chiếu lần đầu vào năm 1994 và đã nhận được sự hoan nghênh trên toàn thế giới.

Đạo diễn của phim là Béla Tarr, người đã bắt đầu một mối quan hệ hợp tác hiệu quả với László sau năm 1984, và nhanh chóng trở thành biên kịch toàn thời gian của ông. Tất cả các phim của Tarr sau năm 1985 đều dựa trên kịch bản của Krasznahorkai và có nhạc nền do Mihály Víh thực hiện.

Đỉnh cao của sự hợp tác sáng tạo của họ là bộ phim Con ngựa Turin (A torinói ló), được phát hành vào năm 2011. Bộ phim đã giành được Giải thưởng FIPRESCI và Giải Gấu bạc – Giải thưởng của Ban giám khảo tại Liên hoan phim Berlin – sau đó Tarr gọi bộ phim là tác phẩm điện ảnh cuối cùng của mình và kết thúc sự nghiệp điện ảnh.

BẬC THẦY CỦA SỰ TẬN THẾ

Sau Điệu tango của quỷ, Krasznahorkai xuất bản tập truyện ngắn Sự thương xót cuối cùng (Kegyelmi viszonyok) và tiểu thuyết Nỗi buồn của sự kháng cự (Az ellenállás melankóliája), tác phẩm đã mang lại cho ông sự công nhận quốc tế, bao gồm cả một giải thưởng văn học ở Tây Đức. Trong tiểu thuyết ngụ ngôn này, ông kể về sự xuất hiện của một gánh xiếc bí ẩn với điểm thu hút duy nhất – một con cá voi – trong một thành phố bất ổn đã gây ra sự hỗn loạn tận thế và trở thành ẩn dụ cho sự áp đặt hệ tư tưởng toàn trị từ bên ngoài. Cả cuốn tiểu thuyết chỉ gồm một câu, dài hơn 300 trang. Đây là cuốn sách đầu tiên của Krasznahorkai được dịch sang tiếng Anh vào năm 1998.

Nhà văn Mỹ Susan Sontag, say mê cuốn sách của Krasznahorkai, đã dành tặng ông một phần thưởng khác: biệt danh “Bậc thầy của sự tận thế”, bởi vì sáng tác của ông chủ yếu xoay quanh chủ đề tuyệt vọng và suy tàn. Krasznahorkai mô tả những xã hội bên bờ vực sụp đổ, sự tan rã của trật tự thế giới, và khám phá nỗi buồn bã u sầu thời hậu tận thế.

Rõ ràng Krasznahorkai lấy cảm hứng cho các tác phẩm ẩm đạm của mình ở chính thực tế xã hội chủ nghĩa: “Cách thức tổ chức của cái xã hội phi thời gian này khiến người ta nghĩ rằng sẽ chẳng có gì thay đổi. Vẫn luôn luôn là như vậy: bầu trời xám xịt, cây cối bạc màu, công viên, đường phố, nhà cửa, thành phố, thị trấn, đồ uống tệ hại trong quán bar, nghèo đói, và những thứ bị cấm nói ra. Bạn sống trong cõi vĩnh hằng. Thật là chán nản. Thế hệ của tôi là thế hệ đầu tiên không những không tin vào học thuyết cộng sản hay chủ nghĩa Marx mà còn coi đó là điều lố bịch và đáng xấu hổ.

Khi tôi trải nghiệm sự kết thúc của hệ thống chính trị này, đó thực sự là một phép màu. Tôi sẽ không bao giờ quên hương vị của tự do chính trị. … Đối với tôi, Liên minh Châu Âu, trên hết, có nghĩa là tự do chính trị – chống lại sự ngu xuẩn hung hăng giờ đã trở thành vị thần của Đông Âu”, nhà văn chia sẻ.

VÒNG QUANH THẾ GIỚI

Năm 1987, ở tuổi 33, Krasznahorkai lần đầu tiên rời Hungary và dành một năm ở Tây Berlin theo chương trình trao đổi học thuật. Sau khi khối cộng sản sụp đổ vào cuối những năm 1980, Krasznahorkai đã đi du lịch khắp nơi.

Năm 1990, ông dành thời gian dài đầu tiên ở Đông Á. Ông đã viết những ấn tượng của mình về Mông Cổ và Trung Quốc trong tập truyện ngắn Tù nhân Urga (1992), và tiểu thuyết tư liệu Cảnh hoang tàn và nỗi buồn ở đế chế Thiên triều (2004), trong đó ông khám phá mối liên hệ giữa xã hội Trung Quốc đương đại với văn hóa cổ xưa và di sản tinh thần của nó. Kể từ đó, ông đã nhiều lần trở lại Trung Quốc.

Nhà văn cũng đã sống tại Kyoto, Nhật Bản, trong sáu tháng vào các năm 1996, 2000 và 2005. Việc tiếp xúc với văn hóa và mỹ học Viễn Đông đã có tác động sâu sắc đến sáng tác của ông, truyền cảm hứng cho cuốn tiểu thuyết Tây Vương Mẫu giáng trần (Seiobo járt odalent) viết về nghệ thuật và cái đẹp. Trong 17 phần, được sắp xếp theo dãy số Fibonacci, Krasznahorkai giới thiệu các nghệ sĩ và tác phẩm từ nhiều thời đại và quốc gia khác nhau, được gắn kết bởi mô típ nữ thần Nhật Bản Tây Vương Mẫu.

Mối liên hệ phương Đông này đã trở thành một phần trong gia đình nhà văn. Cũng trong khoảng thời gian này, năm 1997, Krasznahorkai kết hôn lần thứ hai với Dorka, một nhà thiết kế đồ họa và nhà Hán học, và có ba cô con gái: sử gia nghệ thuật Katha (Katalin), diễn viên Agnes, và Pani. Mặc dù nổi tiếng toàn cầu và được coi là một thiên tài quốc gia của Hungary, Krasznahorkai luôn giữ kín chuyện riêng tư. Ông hiếm khi chia sẻ về gia đình, điều này càng làm tăng thêm sự tò mò của độc giả.

Trong suốt những năm 1990, László Krasznahorkai đã đi du lịch khắp nơi: ông vượt Đại Tây Dương trên một con tàu chở hàng đến Madeira, nghỉ tại biệt thự nghệ thuật Waldbert ở Munich, và đến thăm Bosnia, Ý, Đan Mạch, Anh, Hy Lạp, Pháp, Tây Ban Nha và Crete – thực tế, ông đã đặt chân đến một nửa thế giới. Trong thời gian này, vào đầu những năm 1990, ông bắt đầu viết tiểu thuyết Chiến tranh và Chiến tranh (Háború és háború). Ban đầu, do quan tâm đến ý nghĩa của khái niệm “biên giới” đối với Đế chế La Mã, ông đã đi khắp châu Âu để tìm kiếm tàn tích và dấu vết của các công sự quân đội. Krasznahorkai thừa nhận rằng ông luôn bận rộn, và công việc thực sự cho cuốn tiểu thuyết này chỉ bắt đầu vào năm 1996 tại New York, nơi ông sống trong căn hộ của Allen Ginsberg (1926/1997, nhà thơ Mỹ, hạt nhân phong trào văn nghệ Beat) người bạn đã hỗ trợ tinh thần cho ông trong suốt quá trình viết.

TRÊN ĐƯỜNG ĐẾN GIẢI NOBEL

Danh tiếng toàn cầu của Krasznahorkai và giải Nobel Văn chương sẽ không thể có được nếu không có các bản dịch tác phẩm của ông, những bản dịch đặc biệt xuất sắc – chẳng hạn những bản dịch xuất hiện vào đầu những năm 2010. Năm 2012, Điệu tanggo của quỷ được xuất bản bằng tiếng Anh, tiếp theo là Tây Vương Mẫu giáng trần (2013), cả hai cuốn lần lượt giành được giải Sách dịch hay nhất. Báo chí phương Tây ca ngợi các tác phẩm của Krasznahorkai, ghi nhận tầm nhìn độc đáo, lôi cuốn của ông và nhấn mạnh ảnh hưởng mạnh mẽ của Franz Kafka và Samuel Beckett đối với tác phẩm của ông – những cái tên này cũng sẽ được nhắc đến trong tuyên bố của Ủy ban Nobel.

“Khi không đọc Kafka, tôi nghĩ về Kafka. Khi không nghĩ về Kafka, tôi cũng cứ tơ tưởng đến ông ấy”, chính nhà văn đã nói vậy, như để khẳng định ý kiến trên. Nhưng ông cũng thú nhận rằng mình đã nỗ lực tạo ra một phong cách hoàn toàn độc đáo, để được tự do và tách khỏi các bậc tiền bối văn chương của mình càng xa càng tốt – chứ không phải để trở thành một Kafka, Dostoevsky hay Faulkner khác.

Năm 2015, László Krasznahorkai đã giành giải thưởng Booker danh giá, được trao cho các tác giả viết bằng tiếng Anh hoặc có tác phẩm được dịch sang tiếng Anh. Ông được trao giải thưởng này vì những thành tựu trong sáng tác văn học. Chủ tịch Ban giám khảo Marina Warner gọi ông là “người có một tầm nhìn phi thường, mạnh mẽ, có khả năng truyền tải diện mạo của cuộc sống đương đại trong những khung cảnh lo âu, lạ lùng, hài hước, đồng thời đẹp đến ngỡ ngàng.”

Sự công nhận này đã trở thành bước ngoặt thực sự trong sự nghiệp sáng tạo của ông – bước đầu tiên hướng tới giải thưởng văn học lớn nhất thế giới, giải Nobel.

Điều thú vị là chỉ một năm sau, Giải Booker đã được trao cho nhà văn Hàn Quốc Han Kang, người cũng đã giành giải Nobel Văn học năm ngoái. Cả Krasznahorkai và Han Kang không chỉ sở hữu trình độ nghệ thuật cao mà còn có sự đồng điệu về mặt tinh thần với truyền thống Franz Kafka – tác phẩm của cả hai tác giả thường được so sánh với Kafka về chiều sâu triết học và cảm nhận về sự phi lý của kiếp người.

Hiện nay, Krasznahorkai mang quốc tịch Đức và chủ yếu sống ở Berlin và Trieste. Ở tuổi 71, ông vẫn là một tác giả sung mãn.

Năm 2024, ông xuất bản tiểu thuyết Herscht 07769, được dịch sang tiếng Anh. Nhân vật chính, một người làm việc tẩy xoá các bức vẽ graffiti ở Đức, đã viết thư cho thủ tướng Đức Angela Merkel, cố gắng cảnh báo bà về ngày tận thế đang đến gần. Cuốn sách dày 400 trang này chỉ có một dấu chấm.

Cùng năm đó, tiểu thuyết Bánh mì ở đó (Zsömle Odavan) của ông được xuất bản – tác phẩm kể về một thợ điện đã nghỉ hưu che giấu nguồn gốc hoàng gia của mình và sống tại một ngôi làng Hungary không tên cho đến khi bị những người tìm cách khôi phục chế độ quân chủ phát hiện.

László Krasznahorkai, người từng nói rằng chúng ta đã sống trong ngày tận thế, giờ đây có thể thấy bằng chứng về điều đó: việc Orbán lên làm Thủ tướng ở nước Hungary của ông, cuộc chiến của Nga chống lại Ukraine và – điều mà chính ông thừa nhận khiến ông kinh hoàng – việc Donald Trump được bầu làm tổng thống Hoa Kỳ.

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.