Tác giả: Richard Seymur
Việt dịch: Nguyễn Quang A
Nhà xuất bản Dân Khí-2025
5. Shitstorm* có Vũ trang: Chủ nghĩa dân tộc Giết người
‘O that thou shouldst give dust a tongue (Ôi ngài tạo ra con người biết nói từ cát bụi)
To cry to thee, (để kêu lên ngài)
And then not hear it crying! All day long (Và rồi ngài không nghe tiếng kêu than, suốt ngày)
My heart was in my knee, (Trái tim con tụt xuống đầu gối rồi)
But no hearing.’ (Nhưng sao ngài không nghe)
– George Herbert, Denial (Từ chối)
Nếu chúng ta những người Hindu ở Ấn Độ trở nên mạnh hơn, theo thời gian những người Muslim kiểu ‘những người Bạn của Liên đoàn’ này thay vào đó sẽ phải đóng vai của những người Do thái Đức.’
– V. D. Savarkar, ‘true son of Mother India’ theo Narendra Modi, 19491
I.
Nơi nào đó trong các giấc mơ của họ về sự tái sinh và sự sung túc, họ phải tưởng tượng nó. Các giấc mơ đẫm máu này – máu họ chảy, thân thể họ bị tra tấn và đốt cháy – phải chờ đợi thời khắc thực hiện của chúng. Concerned Citizens Tribunal (Tòa án Công dân có Trách nhiệm) để ý đến ‘sự vui sướng rùng rợn’ của những người xem. Khi buổi tối buông xuống và làm mát bầu không khí, và những đám mây nham thạch hận thù lắng xuống, họ chơi môn cricket (bóng gậy) với sọ của của những người bị giết. Một số người chỉ đứng cạnh và nhếch mép cười nhạo những người sống sót xuất hiện, run rẩy, kiệt sức và hoa mắt, vì sự đánh đòn.
Cuộc tàn sát Gujarat, trong đó các sĩ quan cảnh sát, mà đã cả là những người xem và kẻ giết người, đã tràn đầy sự đê mê tàn sát. Một người tham gia thú nhận đã giúp đỡ trong một vụ giết một người mà bị cắt thành từng miếng một cách có phương pháp bằng một chiếc kiếm cho đến chết và rổi bị đốt. Một bà mẹ đã theo dõi trong nỗi kinh hoàng đứa trẻ ba tuổi bị hiếp và bị giết trước mặt bà. Một bà mẹ khác, mà cũng bị bắt theo dõi con bà bị sát hại, bị một lũ hiếp, bị đốt và chết. Một bà khác thấy xác của em dâu bà trong vườn nhà bà, với cổ họng cô bị cắt và bộ phận sinh dục bị cắt bỏ. Một người sống sót khiếp sợ ra khỏi nơi ẩn náu để thấy thân thể của các phụ nữ bị đốt, với các gậy sắt ‘cắm vào âm hộ của họ’.2
Một sự đam mê chết người với các thân thể phụ nữ Muslim tràn ngập sự điên cuồng. Một cuốn sách nhỏ, mỏng được phân phát ở Gujarat đã ca ngợi thống đốc bang, Narendra Modi: ‘Narendra Modi, ông đã đ. mẹ miyas [bọn Muslim] … Bà ta bị đ. ở tư thế đứng trong khi liên tục rên. Bà ta thích thú dương vật không bị cắt bì. Với một chính phủ Hindu những người Hindu có sức mạnh để hủy diệt miyas.’ Lời nói và hành động của những kẻ tàn sát trong sự kích thích tình dục hung hăng của họ gợi lại ‘các khúc phóng túng đàn ông’ của các Freikorp (thân thể tự do) Đức, những người đã bị mê hoặc và khiếp sợ bởi ‘các phụ nữ Đỏ’, ‘những con đĩ vô sản’ với vũ khí dưới váy của họ, femmes fatales (những phụ nữ gây tai họa) cộng sản đến như ‘lũ quét’, ‘triều dâng’, trong ‘các làn sóng’ và, bằng việc đại diện chủ nghĩa cộng sản, cũng đại diện cái chết. Như Barbara Ehrenreich diễn đạt: ‘Trong khoảnh khắc thâm nhập ngắn ngủi – bằng viên đạn hoặc dao – hắn đến gần, gần một cách hồi hộp, tới cô và cảnh khủng khiếp của sự chết.’ Tuy nhiên như Tanika Sarkar chỉ ra, điều này đã không phải là sự tấn công của chỉ-đàn ông: các phụ nữ từ cánh hữu Hindu đã ở đó, yêu cầu nhiều hơn. Achin Vanaik nhận xét rằng cuộc tàn sát đã tạo ra một tiền lệ mới cho sự tham gia của các nhóm lệ thuộc về mặt lịch sử, kể cả ‘số đông các Dalit (tiện dân), Tribal (dân bộ lạc) và phụ nữ’. Các vụ hãm hiếp được biện minh cho các nhà hoạt động Hindutva với luận điệu rằng các phụ nữ Muslim, bằng việc sinh sôi là nguồn của một cuộc tấn công nhân khẩu học chống lại Ấn Độ. Khi được hỏi về sự hãm hiếp các phụ nữ Muslim, một lãnh đạo của Samati, nói: ‘Họ đã hiếp rất nhiều trong số chúng tôi, bây giờ chúng tôi phải hiếp vài trong số họ.’3
Cuộc tàn sát bắt đầu một năm sau vụ động đất Gujarat giết 14.000 người trong tháng Giêng 2001. Chính phủ bang, được cai trị bởi đảng BJP dân tộc chủ nghĩa Hindu, đã bị phê phán nặng nề vì phản ứng thờ ơ của nó với tai họa. Họ đã mất cơ sở bầu cử rồi và, sau động đất, đã thua hai cuộc bầu cử-phụ. Tuy vậy sự cứu rỗi đã đến cho đảng cầm quyền vào cuối tháng Hai 2002, khi một toa trên tàu hỏa Sabarmati Express bốc cháy một km bên ngoài ga xe lửa Godhra. Trên toa tàu đã có hàng tá kar sevak (tình nguyện viên), người hành hương Hindu thuộc đảng cực hữu Vishva Hindu Parishad (VHP). Đảng VHP đã là, giống BJP, một nhánh của tổ chức bán quân sự tình nguyện cánh hữu phát xít Svayaṃsevak Saṅgh (RSS) và, giống các tổ chức kết nghĩa của nó, đã tham gia vào đám đông phá đền thờ Babri Masjid một thập niên sớm hơn. Trên chuyến tàu hỏa, các kar sevak đã nhiều lần tấn công các hành khách Muslim và hô vang các khẩu hiệu giáo phái như ‘Muslim Bharat Chodo, Pakistan Jao!’ (bọn Muslim, cút khỏi Ấn Độ! Cút sang Pakistan!). Khi, giữa sự hỗn độn, xe lửa dừng cách ga Godhra một km, một toa bốc lửa. Năm mươi tám thi thể được tìm thấy.
Chính phủ bang Gujarati, do Thống Đốc Narendra Modi lãnh đạo, nhanh chóng đổ lỗi cho một đám đông 2.000 người Muslim quăng bom xăng vào xe lửa, nhắm vào các kar sevak. Chính phủ thậm chí đã gợi ý cuộc tấn công đó là một âm mưu bị ISI, cảnh sát mật của Pakistan, điều tra, khi binh lính của các lực lượng vũ trang Ấn độ và Pakistani đối mặt với nhau ngang biên giới và vì cả hai đang tiến hành những vụ thử hạt nhân. Theo chuyện hoang đường Hindutva, điều này đã liên tục với một ngàn năm gây hấn Muslim chống lại rashtra (quốc gia) Hindu nguyên thủy, từ các caliphate (vương quốc hồi giáo) sớm nhất đến Pakistan hiện đại.
Cả Tòa án Công dân có Trách nhiệm và Ủy Ban Thẩm phán Banerjee kết luận rằng vụ hỏa hoạn đã là ngẫu nhiên. Tuy nhiên, nó được dùng như một yếu tố kích hoạt hữu ích. Trong những ngày tiếp sau vụ hỏa hoạn, VHP kêu gọi sự đóng cửa để phản đối những cái chết. Với sự xúi giục từ chính phủ bang, và sự ủng hộ từ cảnh sát, các đám đông của những kẻ dân tộc chủ nghĩa Hindu có vũ trang giết người đã xuống các khu dân cư Muslim của Ahmedabad, thành phố lớn nhất bang Gujarat. Họ đã đốt các khối căn hộ. Họ đã ném đá và bom a xít và tấn công các đàn ông bằng các thanh sắt. Ít nhất 250 cô gái đã bị hiếp tập thể và rồi đốt cho đến chết. Trẻ em bị buộc nạp xăng và bị đốt cháy. Phụ nữ bị tấn công bằng a xít. Một ước lượng 2.000 người, hầu hết Muslim, bị giết. 2.500 người nữa bị thương, và 150.000 người buộc phải trốn đến các trại cứu trợ. Theo một lãnh đạo VHP, cuộc tàn sát đã là ‘phản ứng tích cực đầu tiên của những người Hindu đối với chủ nghĩa chính thống Muslim trong 1.000 năm’.4
Cuộc tàn sát, bất chấp tính hung hăng giải trí hiển nhiên của nó, đã có tính chiến lược. Bạo lực đã lên đỉnh điểm trong các vùng cạnh tranh bầu cử dữ dội nhất. Các gia đình Muslim bị đuổi đi, sự chia tách nhà ở được tăng cường và trong ánh hồng còn lại của cuộc tàn sát sự ủng hộ cho BJP đã tăng vọt. Đây đã là hình mẫu được thiết lập-vững chắc trong lịch sử Ấn độ gần đây: các cuộc náo loạn cộng đồng xảy ra trong năm trước bất cứ cuộc bầu cử nào trong hai thập niên trước cuộc tàn sát đã nâng phiếu BJP lên ít nhất 5 phần trăm. Paul Brass mô tả một ‘hệ thống náo loạn được thể chế hóa’, trong đó các chiến binh dân tộc chủ nghĩa Hindu tổ chức bạo lực cộng đồng một cách có hệ thống để củng cố sự đoàn kết sắc tộc trước một cuộc bầu cử. Pha cuối cùng của ‘hệ thống náo loạn’ này, tiếp sau sự chuẩn bị và sự xúi giục, là sự hợp lý hóa post hoc (sau đó) trong đó các chính trị gia và cơ quan truyền thông lấp liếm sự điên cuồng với các uyển ngữ xảo trá. Tại Gujarat, BJP đã phát hành các thông cáo báo chí cẩn trọng nhắc đến vụ hỏa hoạn Godhra như ‘sự diệt chủng vô nhân đạo’ trong khi mô tả cuộc tàn sát như ‘sự gây náo động’. Chính phủ và truyền thông địa phương cần mẫn coi cuộc tàn sát có cả hai bên như một cuộc đụng độ ‘cộng đồng’ khác nữa, bất chấp tỷ lệ chết 15:1 của người Muslim so với người Hindu.
Modi đã dành cả mùa hè sau cuộc tàn sát để dẫn đầu một loạt cuộc mít tinh lớn ‘Hindu Pride (niềm Tự hào Hindu)’ ma quỷ hóa những người Muslim vừa bị tấn công en masse (hàng loạt) bởi một sự cộng tác giữa nhà nước và những kẻ tàn sát tự nguyện. Theo Rana Ayyub, các cuộc náo loạn đã khiến Modi trở thành ‘một anh hùng giữa đa số dân cư Hindu’ ở Gujarat. Ông thậm chí được vẽ chân dung như một ‘biểu tượng tình dục’, dự đoán sự mô tả tương lai của ông như ‘người chưa vợ có thể chọn được nhất ở Ấn Độ’ bởi Mallika Sherawat nữ diễn viên Bollywood. Các hàng ghế đầu cho các bài phát biểu của ông luôn được dành cho các phụ nữ dẫn đầu hô ‘Giết hắn! Giết hắn!’ khi Modi gọi tên một quỷ dân gian đặc biệt của sự tưởng tượng Hindutva hoặc ngây ngất khoái trá khi ông đe dọa rằng Pakistan sẽ bị xóa sạch ‘khỏi bản đồ’. Trong các cuộc bầu cử lập pháp bang trong tháng Mười Hai 2002, Modi vận động về chủ đề chủ nghĩa khủng bố Islamic, và các mối quan hệ của những người nhập cư Muslim với Pakistan. BJP và các đồng minh của họ tại các điểm dừng của chiến dịch vận động đã đưa ra quan điểm hoan hô George W. Bush và Ariel Sharon như các đồng-đối tác trong chiến tranh chống khủng bố. BJP, đã được cứu khỏi việc xử lý tồi một thảm họa thiên nhiên bằng sự theo đuổi thành công một thảm họa được phối hợp, đã tăng phần phiếu của nó từ 44,81 phần trăm lên 49,85 phần trăm.5
Đối với những người tham gia, mà gồm các sinh viên dân tộc chủ nghĩa Hindu, những người thuộc đẳng cấp-cao hay giàu có, cảnh sát, một số tội phạm nhỏ được chiêu mộ đặc biệt để thực hiện các cuộc tấn công và rất nhiều ‘dân thường’, các phần thưởng không nghi ngờ gì đã gồm sự dỡ bỏ mối lo tiếp sau bởi một cảm giác không thể nào quên về quyền tuyệt đối. Một Leon Trotsky trẻ, viết về các cuộc tàn sát ở nước Nga trong năm 1905, đã nhận xét rằng ‘người đàn ông không có giày’ đã ‘trở thành vua’. Kẻ, mà đã là ‘một nô lệ run rẩy bị cơn đói, cảnh sát săn lùng,’ bây giờ cảm thấy mình ‘giống một kẻ chuyên quyền tuyệt đối’, ‘chủ nhân ông của cái sống và cái chết’. ‘Nếu hắn cảm thấy sự thôi thúc để làm vậy, hắn quăng một bà già khỏi cửa sổ tầng ba xuống vỉa hè bên dưới, hắn đập vỡ hộp sọ của một trẻ sơ sinh bằng một chiếc ghế, hắn hiếp một bé gái trước mặt một đám đông người.’ Nhà nước trong giây lát cho phép một người đàn ông như vậy làm mọi thứ. Hắn có thể ‘làm bất cứ thứ gì hắn thích, mọi thứ sẽ trôi qua’.6 Và đấy là một hình ảnh về tương lai.
II.
Chủ nghĩa dân tộc tai họa, đã từng được các hình ảnh tưởng tượng của nó gây phấn chấn, thậm chí được tiếp sinh lực hơn khi những hình ảnh tưởng tượng đó có thể được diễn trong đời sống. Trong quá khứ, đã có một sự căng thẳng hiển nhiên giữa electoralism (chủ nghĩa bầu cử-sự chuyển đổi ‘nửa đường’ từ sự cai trị độc đoán sang sự cai trị dân chủ) và sự theo đuổi bạo lực tập thể.7 Điều đó không còn hiển nhiên nữa. Dưới những chính phủ cực-hữu ở Ấn Độ, Hoa Kỳ, Brazil và Philippines, bạo lực tập thể đã trở thành lợi điểm bán hàng độc đáo, đột phá, chẳng hề là một nguồn xấu hổ tai hại về mặt chính trị. Chiến lược báo thù, bắt đầu như sự huy động bầu cử và chiến tranh mạng, làm nổi bật các tiếng nổ ‘sói đơn độc’ ngẫu nhiên, trở thành chiến lược của chính nó khi logic của sự lây xúc cảm hay shitstorm online có vũ trang trào xuống đường phố.
Thật đáng chú ý, cùng với sự tàn bạo trình diễn và sự đồi bại được cấp phép khi lực lượng thực thi pháp luật hoặc cho phép hay tham gia giết người, là việc các nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa tai họa cổ vũ công khai bạo lực dân chúng. Hãy xem xét rất nhiều kẻ giết người chính trị trong chiến dịch vận động bầu cử tổng thống Brazilia trong 2022. Giữa chúng là việc bắn chết một quan chức của Đảng Lao động tại tiệc sinh nhật thứ năm mươi của ông trước mặt các con ông. Trong một ví dụ khác, Benedito Cardoso dos Santos, một công nhân-trang trại từ Confresa, bị đánh bằng súng và rồi bị giết bằng một chiếc rìu bởi một người ủng hộ Jair Bolsonaro trong một cuộc tranh luận chính trị. Những gì khiến những vụ giết người này khác với sự khủng bố ‘sói đơn độc’ là, chúng là phần của một bầu không khí chính trị rộng hơn trong đó chiến dịch bầu cử, giống chiến dịch trong năm 2018, được đánh dấu bởi một chuỗi các cuộc tấn công, cuộc chiến đường phố và thậm chí các sự bắt cóc và bạo lực tình dục. Và bầu không khí đó được ủng hộ chính thức. Trong vòng vài giờ của cuộc tàn sát Cardoso dos Santos, Bolsonaro đã có một bài phát biểu trong đó ông nói, những người ủng hộ của Đảng Lao động nên bị ‘bắn bằng súng máy’. Đây không phải là diễn ngôn ngẫu hứng ngông cuồng. Bolsonaro đã dùng thuật hùng biện tương tự trong 2018. Và ông gợi ý, như ông đã gợi ý nhiều lần trước đó, rằng cánh tả nên bị loại ra khỏi chính trị quốc gia.
Trong khi nói điều này, Bolsonaro biết rất rõ về cơ sở được vũ trang và cuồng tín của ông, những người đã quen đến gần những người vận động bầu cử của Đảng Lao động, khoe súng của họ và đe dọa trả đũa đảng mà họ coi là cộng sản và phản bội. Ông cũng đã có các mối quan hệ trực tiếp với các lực lượng bán quân sự vận hành các thị trấn và thành phố Brazilia – với sự nuông chiều của cảnh sát và các chính trị gia – mà đã giết các kẻ thù chính trị như Marielle Franco nữ ủy viên hội đồng xã hội chủ nghĩa. Không liên kết với bạo lực như vậy gây hại cho Bolsonaro, nó dường như tập hợp cơ sở của ông: ông đã thấy sự ủng hộ của ông khôi phục từ gần 30 phần trăm trong các cuộc thăm dò trước-bầu cử lên gần sát 50 phần trăm trong ngày bỏ phiếu.8
Hoặc hãy xem xét cơn thịnh nộ người định cư Israeli ở làng Huwara Bờ Tây trong tháng Hai 2023. Hàng trăm người định cư xuống làng với vũ khí, đánh dân cư và đốt nhà cửa, rõ ràng để trả thù cho một vụ giết một người định cư trước đó. Tại Israel, việc này được gọi rộng rãi là một cuộc tàn sát. Những người định cư, hành động theo niềm tin rằng toàn bộ Palestine lịch sử là của họ theo quyền thần thánh, đã không chỉ tái phát hiện ra gần đây niềm vui của các cuộc đột kích trừng phạt như vậy. Trong hàng thập kỷ, sứ mệnh thực dân hóa của họ đã được nhà nước Israeli tài trợ, nuông chiều và bảo vệ về mặt quân sự, mặc dù không phải đôi khi không có sự ràng buộc và sự chỉ trích. Trong nhiều năm, họ đã tham gia vào các cuộc viễn chinh bạo lực, các cuộc tấn công đốt phá và hành hình trong các vùng Palestin xung quanh, nói chung không bị trừng phạt, và thường trong sự cộng tác với các binh lính Israeli: ‘các lực lượng dân quân chung của người định cư-binh lính’. Bạo lực, có ý định để bày tỏ quyền bá chủ tàn ác của người định cư, trong một số trường hợp buộc dân cư rời đi.9
Tại Huwara, các thủ phạm đã có lý do mới để tự tin được miễn hình phạt: như Shira Rubin tường thuật cho Washington Post, với một chính phủ cực-hữu mới kết nạp đảng Quyền lực Do thái (Jewish Power) thượng đẳng Do thái và đảng Phục quốc Do thái Tôn giáo (Religious Zionist party) vào chính quyền, họ tin nhà nước đứng về phía họ. Họ đã đúng. Không một người duy nhất nào bị truy tố vì vai trò của họ trong cuộc tàn sát, và hầu hết những người bị bắt được thả ra nhanh chóng. Trong vòng vài ngày sau cuộc tàn sát, bộ trưởng tài chính của chính phủ Bezalel Smotrich nói rằng làng này nên bị quân đội Israeli ‘xóa sổ’. Đây không phải là ví dụ đầu tiên về ngôn ngữ loại bỏ từ một bộ trưởng chính phủ. Trong 2008, chẳng hạn, thứ trưởng quốc phòng Israel đã đe dọa Gaza với một ‘holocaust’ đối với việc Hamas dùng các tên lửa Qassam. Tuy nhiên, dù thành ngữ có đáng chú ý đến thế nào, đó là một mô tả côn đồ về các cuộc đột kích quân sự trừng phạt đẫm máu mà được thực hiện dưới dạng Operation Cast Lead (Chiến dịch Đúc Chì). Đấy đã là một lời kêu gọi sự ủng hộ nhà nước cho các mục tiêu của một cuộc tàn sát vừa được thực hiện.10
Chính trong việc dùng các đám đông một cách có tính toán này, các đội viên dân phòng và các sự hành quyết, từ Delhi đến Bờ Tây, mà chủ nghĩa dân tộc tai họa tích tụ phần lớn lực lượng chiến lược của nó, cũng như các tín chỉ ‘chống-hệ thống’ của nó. Bạo lực đám đông, mặc dù luôn luôn tàn nhẫn, không nhất thiết có tính phát xít. Từ ‘samosud (самосуд-tự tiện xét xử)’ ở Đông Âu đầu thế kỷ thứ hai mươi đến ‘vòng cổ’ ở Nam Phi hiện đại, nó xuất hiện ở bất cứ nơi nào trật tự đạo đức bị đe dọa và phản ứng nhà nước được cảm thấy không tương xứng. Nhiều nhà nước hiện đại, như các nhà nước nổi lên trong đế chế Nga, Hy Lạp hay Hoa Kỳ, xây dựng quyền lực của chúng bằng việc nắm sự kiểm soát các băng đảng bạo lực hiện hữu thực thi công lý thô bạo. Nhưng chính trị cực-hữu hiếm khi xuất hiện trong bất kể thời gian dài nào mà không tự thể hiện dưới dạng nào đó của chính trị nửa-bạo lực. Quả thực, như Richard Saull nhận xét, chủ nghĩa bán-quân sự chớm nở đã hiện diện trong nguyên mẫu sớm nhất của chính trị cực-hữu hiện đại, chế độ độc tài bonapartist dập tắt cách mạng 1848 ở Pháp.11
Chủ nghĩa bán-quân sự, đặc biệt sự tấn công của nó chống dân thường, đã là mấu chốt với chủ nghĩa phát xít theo cách mà nó đã không là cho cánh hữu nghị viện. Được hình dung trước trong bạo lực của Bách Vệ Đen của nước Nga, mà đã sắp đặt nhiều trong hàng trăm cuộc tàn sát chống-semitic để bảo vệ sa hoàng trong cuộc cách mạng dân chủ 1905, nó cũng được quyết định bởi sự phơi ra chưa từng có với cái chết hàng loạt trong Chiến tranh thế giới thứ Nhất và sự biến hình giải khuây của nó thành ‘vinh quang’ dân tộc sau đó. Hầu hết các tổ chức bạo lực nổi lên trong thời kỳ đó, như squadristi áo đen của Italy, Sturmabteilung áo nâu của Đức, Vệ binh Sắt (Rumania), Falange (Tây Ban Nha), Heimwehr (Austria) và Ustaša (Croatia) đã là cốt yếu về mặt chiến lược cho chủ nghĩa phát xít bởi vì chúng ép buộc các đối thủ, giành được sự kính trọng của những người ngoài cuộc, tiếp sinh lực cho các chiến dịch bầu cử và hòa nhập xã hội các chiến binh phát xít. Các tổ chức bán quân sự thường đã có các chức năng sư phạm. Ví dụ, các Stormtrooper ngay từ đầu đã là cả một ‘phiến gỗ-phá thành’ của Đảng Nazi và một công cụ cho sự giáo dục các thành viên, vì trong các cuộc tấn công chớp nhoáng của họ chống lại những người Do thái và cộng sản họ được cho là hiện thân lý tưởng của ‘binh sĩ chính trị’. Bạo lực, Michael Mann viết, đã là chìa khóa cho ‘sự cực đoan hóa’ của chủ nghĩa phát xít: ‘Chúng lật đổ các hình thức hợp pháp bằng việc giết người.’12
Ngoài các mục đích chiến lược này ra, bạo lực phát xít đã có tính performative (ngôn hành) một cách nghiệt ngã, sự hồi hộp ràng buộc của sự vi phạm, sự tự-mãn của đạo đức trừng phạt, và sự vi phạm rõ ràng các nạn nhân trong một cơn bùng nổ không cần thiết. Edward Weisband nhắc đến loại này của sự tàn bạo tưởng tượng như ‘macabresque (khủng khiếp)’. Các nạn nhân bị khiến để gào thét vì lợi ích của những kẻ hành hạ họ, để thú tội, để thực hiện nỗi khổ đau của họ, để phản bội chính họ, ý thức của họ về thực tế, và những gì ‘họ yêu quý nhất’. Hãy xem xét, chẳng hạn, các nhà hoạt động Hindutva ép các nạn nhân Muslim của họ để hô khẩu hiệu ‘Jai Shri Ram (Vinh quang thuộc về Chúa Ram [của người Hindu])’ trước khi đánh họ đến chết. Weisband cũng nhắc đến một ‘sự khoái trá dôi dư’ đạt được trong sự dàn dựng công phu của bạo lực trong các cuộc đột kích bán quân sự nhiều như trong các trại, các hào, những cánh đồng giết người, các phòng tra tấn và các cuộc tuần hành chết. Hãy nghĩ, chẳng hạn, về những kẻ mặc áo đen buộc các nạn nhân rúm ró của họ nuốt dầu castor khi họ nổi xung qua các khu giai cấp-lao động với sự đồng lõa của cảnh sát trong cuộc Tuần hành Phát xít ở Rome trong năm 1922. Hoặc về các Stormtrooper trong một làn sóng khủng bố Nazi trong 1932, sau khi đã sát hại một đàn ông Ba lan mà họ nghĩ nhầm là cộng sản, buộc em trai ông đứng úp mặt vào tường trong khi họ đánh ông bằng dùi cui và gậy billiard trong nửa giờ cho đến khi ông bất tỉnh. Bạo lực luôn luôn vượt những sự biện minh chiến lược của nó. Sự khoái trá dư thừa đó có thể thậm chí bị làm trầm trọng thêm bởi sự bất hợp pháp của nó, vì những sự cấm chính thức hành động tàn ác ‘bừa bãi’.13
Bạo lực, đối diện với fantasy (huyễn tưởng) lâu dài về một ‘thế giới bị họ quấy rầy’ đang trở thành một ‘thế giới không có họ’, là diệt chủng rồi trong phôi thai. Hệt như sói đơn độc hy vọng kích hoạt một ‘cuộc chiến tranh chủng tộc’ trong đó kẻ thù sẽ bị hủy diệt, cũng vậy tên dân quân phát xít đang luyện tập cho chiến dịch hủy diệt cuối cùng. Các cuộc tấn công của họ, Aristotle Kallis viết, là ‘một sự kiểm tra tính khả thi, một sự diễn tập trang phục tượng trưng và “giấy phép” cho việc thực hiện không tưởng cực đoan của chủ nghĩa nhà nước-quốc gia’.14
Vậy mà, tại một điểm nào đó, fantasy về một ‘thế giới không có họ’ được trù tính trước để trở nên tự sát. Một khi fantasy vô thức được dùng để ủng hộ ý thức hệ phân biệt chủng tộc, mà sự đau khổ nội tại được đầu tư về mặt xúc cảm cho ý tưởng về một người Khác chủng tộc phải bị hủy diệt, không lượng giết người hoặc sự tàn ác ngôn hành (performative) nào cuối cùng sẽ gãi đúng chỗ ngứa. Adorno viết, chẳng hạn, về sự leo thang cưỡng chế được cấy vào ý thức hệ chống-semitic. Kẻ chống-semite ‘đơn giản không thể ngừng’, bị quyến rũ bởi một logic mà bắt đầu với những lời phàn nàn và cáo buộc nhỏ nhặt, và leo lên ‘những kết luận hoang dã nhất, tương đương trong phân tích cuối cùng với sự tuyên án tử hình chống lại những người ông ta “không thể chịu nổi” theo nghĩa đen. Ông ta không thể ngủ ‘cho đến khi ông biến đổi toàn thế giới thành chính cùng hệ thống hoang tưởng bao vây ông ta’. Kẻ phân biệt chủng tộc cần chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc của ông ta, để cho dù người cuối cùng của ‘họ’ bị xóa sổ, hoặc con dê tế thần-khiếp sợ khác được tìm thấy hay bạo lực hướng vào bên trong. Và nếu sự leo thang bị buộc dừng lại, nó dẫn đến một chứng cuồng tự sát tập thể. Trong năm cuối cùng của khủng bố Nazi, chẳng hạn, một chế độ bị đánh bại rõ ràng đã phản ứng với một chương trình đàn áp nội bộ tuyệt vọng, tự sát, sự tuyên truyền hô hào những người Đức chiến đấu đến giây cuối cùng, các cuộc diễu hành chết để ngăn chặn Hồng Quân tìm thấy các tù nhân Do thái còn sống, và cuối cùng với việc Wehrmacht (Lực lượng vũ trang Nazi) đánh bom các thành phố Đức. Để ngăn chặn chủ nghĩa Bolshevik khỏi cướp bóc Tổ quốc, Goebbels viết, ‘nước Đức phải bị làm cho hoang vu hơn Sahara.’ Chủ nghĩa phát xít, như Deleuze và Guattari đã hết chịu nổi, giải phóng một mong muốn phổ biến cho sự tự sát.15
Giống chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa dân tộc tai họa gợi ra sự tham gia dân chúng qua các cuộc đột kích vũ trang chống lại các kẻ thù chính trị. Bạo lực tập thể của ngày nay, xuất phát trong hầu hết các trường hợp từ một xã hội công dân ‘mỏng’ và được triệu đến chủ yếu qua internet, được phân tán hơn và kết nối mạng hơn các phong trào phát xít cổ điển. Trong thực tiễn, nó không được phối hợp hoàn toàn cũng chẳng tự phát một cách thuần túy. Thay vào đó cái chúng ta có khuynh hướng thấy là bạo lực phân tán, kết hợp các yếu tố của sự kiểm soát từ trên xuống và sự lây tự phát, trong đó trách nghiệm cho sự xúi giục, sự tổ chức, sự giết người và sự biện minh sau-sự kiện được phân tán trên một mạng lưới. Tương tự, bạo lực phổ biến không bị phản đối hoàn toàn cũng chẳng được đồng lõa hoàn toàn bởi các cơ quan nhà nước, đặc biệt ‘các nhà chuyên nghiệp bạo lực’ có khinh nghiệm như Charles Tilly gọi họ, như cảnh sát. Các nhà nước liên quan đã thể hiện một thái độ mâu thuẫn với các phong trào như vậy, đôi khi cho phép hay thậm chí tham gia trong các cuộc tấn công của chúng, lúc khác lại kiểm soát chúng. Nhưng xu hướng là hướng tới một sự hợp nhất giữa bạo lực hợp pháp và bạo lực cực-hữu ngoài-pháp luật.
Đây là một trong những dấu hiệu nguy hiểm của cái Ugo Palheta đặt tên là ‘phát xít hóa’, trong đó ‘sự cứng rắn độc đoán của nhà nước và sự lên của chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc’ cho phép một biện chứng của sự cực đoan hóa lẫn nhau giữa các nhà lãnh đạo cánh hữu nổi tiếng và các nhà lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa thảm họa.16 Những sự xúi giục hùng biện cho bạo lực trao sự tự tin cho các đội viên dân phòng và các dân quân. Các hành động bạo lực công khai chống lại các kẻ thù được cho là của quốc gia tiếp sinh lực cho hay làm trôi dạt sự lãnh đạo dân tộc chủ nghĩa mặt khác ương ngạnh. Đến lượt họ ủng hộ các hành động đó, tổ chức một cuộc biện hộ công khai, thông qua các luật mới chống lại các kẻ thù của quốc gia và làm việc để tạo ra các điểm bùng phát mới cho những sự gián đoạn thêm. Và còn xa mới làm hại cực hữu về mặt chính trị, bạo lực này dường như để xây dựng sự ủng hộ của nó trong khi làm bớt một cách kiên quyết những căng thẳng giữa những lời kêu gọi dân túy của nó và nền kinh tế chính trị tư bản chủ nghĩa.
Biện chứng này giữa ban lãnh đạo và đám đông được nâng lên cường độ đầy đủ nhất của nó trong một chế độ diệt chủng, trong đó một thiểu số bị cực đoan hóa làm xúc tác cho những cuộc tấn công của nhà nước chống lại ‘những người phản-quốc (anti-nationals)’. Otto Dov Kulka, trong công trình của ông về sự huy động dân chúng trong đệ tam Reich, cho thấy rằng trong thời gian trước Luật Nuremberg (luật phân biệt chủng tộc) (1935) và Kristallnacht (Đêm Kính vỡ tàn sát người Do thái) (1938), ban lãnh đạo Nazi bị các cuộc biểu tình hung bạo và cuộc tàn sát gây áp lực để hành động. Các cuộc náo loạn bùng nổ trước Nuremberg đã chủ yếu bị thúc đẩy bởi sự cuồng loạn đám đông về ‘những kẻ cưỡng dâm’ Do thái (đàn ông Do thái có quan hệ tình dục với phụ nữ ‘Aryan’), mà ngay cả một thành viên của Gestapo đã mô tả như một loại ‘rối loạn tâm thần’. Bọn Nazi đã có mọi ý định để hủy diệt những người Do thái Đức, và thường là các đảng viên Nazi đã xúi giục các hành động như vậy. Tuy vậy, một số rối loại này có tiềm năng giáng xuống chế độ. Trong những năm đầu tiên của chế độ, những tuyên bố về người Do thái đã, như Robert Gellately diễn đạt, ‘đáng chú ý bởi sự vắng mặt của họ’. Hầu hết người Đức đã không phải là những người chống-semite cực đoan. Hơn nữa, sự hỗn loạn, mà trong đó cảnh sát thường xuyên bị gọi là ‘những tay sai Do thái nếu họ can thiệp, có nguy cơ gây ra sự rạn nứt với cảnh sát cho đến nay đã được hội nhập suôn sẻ vào đệ tam Reich. Các nhà chức trách địa phương, dưới áp lực dân chúng, đã hành động theo sáng kiến của riêng họ để ngăn cản hôn nhân giữa những người Do thái và ‘những người Aryan’, bắt ‘ những kẻ cưỡng dâm chủng tộc’ và cấm những người Do thái vẫy cờ Đức. Cùng hình mẫu kích động đã xảy ra trước và trong Kristallnacht. Chế độ đã cực đoan hóa cơ sở của nó với tuyên truyền mạnh mẽ, mà đến lượt đã xúc tác và củng cố chương trình nghị sự của chế độ.17
Hồ sơ này thách thức hình ảnh một thời phổ biến về chủ nghĩa phát xít như một nhà nước toàn trị trong đó xã hội dân sự đã bị nghiền nát. Vấn đề trong đệ tam Reich ít nhất đã không phải là sự vắng mặt của xã hội dân sự. Xã hội dân sự đã bị khủng bố. Nó đã bị thấm vào hoàn toàn bởi các bộ máy của nhà nước Nazi từ Gestapo đến đoàn Thanh niên Hitler, đến mức bất kể sự phân biệt nào giữa sự ưng thuận và sự ép buộc đã biến mất. Nhưng nó cũng đã là một công cụ khủng bố: quần chúng bị triển khai chống lại quần chúng. Và sự đồng thuận bị ép buộc đằng sau chế độ Nazi đã không sụp đổ, theo Ian Kershaw, cho đến giữa chiến tranh khi trở nên rõ ràng rằng Hitler đang dẫn nước Đức đến thảm họa. Ngay cả sau chiến tranh, các khảo sát về những người đã sống trong chế độ cho thấy rằng nửa trong số họ có ký ức tích cực về nó.18
Phần nào của điều này có thể được giải thích bằng yếu tố không tưởng của chủ nghĩa Nazi. Ngay cả khi chế độ chi tiêu một phần năm ngân sách của nó cho tái vũ trang, nó đã cung cấp sự tăng vừa phải về các tiêu chuẩn sống và đã đầu tư ngắc ngứ vào việc sản xuất các mặt hàng tiêu dùng ‘bình dân’. Nó cũng đã hứa hẹn rằng với ‘không gian sống’ (Lebensraum), những người Đức sẽ đảo ngược sự làm nhục của (hiệp định) Versailles và đạt một tiêu chuẩn sống cao hơn nhiều. Tuy nhiên, mặc dù các tiêu chuẩn sống đã tăng lên trong đệ tam Đế chế (ngược với nước Italy phát xít), công nhân trung bình đã tiêu dùng ít hơn đáng kể trong 1938 so với trong 1928. Bọn Nazi đã khôi phục tính sinh lời công nghiệp nhanh hơn họ khôi phục các tiêu chuẩn sống rất nhiều.
Thật ra, như Richard Grunberg gợi ý, ‘sự cải thiện tâm lý đã đi nhanh hơn lợi thế vật chất’. Sự thặng dư tâm lý đó tướng ứng với cái gì? Câu trả lời hơi thô của Thomas Kühne là tội giết người. ‘Các thủ phạm và những người đứng ngoài xem’, ông viết, san phẳng những sự khác biệt to lớn giữa những người tham gia tích cực vào Volksgemeinschaft (Cộng đồng Nhân dân) và các đối tượng bị theo dõi của nó, ‘đã tiếp sinh lực cho đời sống xã hội và xây dựng bản sắc tập thể thông qua việc tiến hành diệt chủng.’ Điều này chôn vùi một sự thật đáng báo động trong một sự phóng đại ngông cuồng: mà ít nhất cho sự ủng hộ cốt lõi, sự thặng dư tâm lý bắt nguồn từ sự tham gia vào việc chế độ lựa chọn hiệu quả và phá hủy các kẻ thù.19
Trong nền kinh tế chính trị của cực hữu, bạo lực tập thể có một vai trò quan trọng. Trong các mâu thuẫn, những sự tan vỡ và tê liệt của các chính phủ cực-hữu, nó thay thế vấn đề, tìm và trừng phạt những người ‘để đổ lỗi’, khẳng định các ranh giới đẫm máu của một cộng đồng dân tộc mà những tuyên bố đạo đức của nó đáng xem xét, củng cố sự ủng hộ cốt lõi trong khi khủng bố và tước đoạt các kẻ thù tiềm năng, và trong việc làm vậy đặt nền tảng cho các làn sóng tích lũy tư bản mới được phối hợp và biện minh trên một cơ sở ‘quốc gia’. Như chúng ta đã thấy rồi, cực hữu đương thời thậm chí không giả vờ để cung cấp ‘sự siêu việt’ giai cấp. Nhưng dự án của nó về chủ nghĩa đế quốc dân tộc cơ bắp được gắn chặt với với việc nó cung cấp sự phấn chấn bạo lực.
Chim hoàng yến (báo hơi độc) trong hầm mỏ than, trong mức độ xu hướng này đi xa trong lịch sử gần đây, là ‘mô hình Gujarat’. Theo chuyện hoang đường, điều này nhắc đến sự tăng trưởng vượt trội đạt được trong bang Ấn Độ khi Narendra Modi là thống đốc. Sự tăng trưởng đạt được chủ yếu, và trái với ‘mô hình Kerala’ phúc lợi chủ nghĩa (nhắc tới bang do cộng sản-vận hành ở miền Nam), bằng việc cắt các phúc lợi và chuyển các nguồn lực cho các công ty. Điều này báo hiệu một sự đoạn tuyệt dứt khoát trong nền kinh tế chính trị cực-hữu truyền thống, trong đó BJP một thời đã tuyên bố đại diện cho ‘chủ nghĩa xã hội Gandhian’, ủng hộ chủ nghĩa tân tự do độc đoán. Lần đến nguồn của nó, tuy vậy, ‘mô hình phát triển Gujarat’ được ca tụng và được thần thoại hóa nhiều lại dựa vào một momen của bạo lực ngoạn mục, gần-diệt chủng. Bạo lực đó dứt khoát lấy ý thức hệ Hindutva làm dòng chủ lưu, đã củng cố sự ủng hộ bầu cử của Modi và đã cho phép sự chuyển ngay lập tức sang các chính sách ủng hộ-công ty của ‘mô hình’.
III.
Cuộc tàn sát Gujarat diễn ra đúng khi những cục bướu sợ Islam của ‘chiến tranh chống khủng bố’ đã đẩy các đảng cực hữu lên các cuộc bầu cử ở châu Âu.
Điều này đã hầu như không đáng ngạc nhiên. Tuy vậy phần lớn các chính phủ Tây phương đã công khai chối chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc, các chính sách của họ thường xuyên nhắm vào những người Muslim như một vấn đề dân cư en bloc (trong một khối). Ở Hoa Kỳ, chiến tranh đã là dịp cho một sự dấy lên trong profiling (phân tích, mô tả đặc điểm) chủng tộc và tôn giáo. Tại Vương quốc Anh, chiến lược Ngăn chặn, các hệ thống giám sát nhúng giữa những cộng đồng Muslim mà được Thủ tướng Blair bảo để giải quyết ‘cái ác bên trong’ người của họ. Tại Pháp, logic an ninh trên hết được tận dụng thành các chiến lược chiến tranh văn hóa nhắm vào thiểu số Muslim nhân danh ‘những giá trị cộng hòa’, như trong việc cấm mạng che mặt và tình trạng khẩn cấp được đưa vào trong năm 2015.20 Như BJP đã khăng khăng hàng tháng sau cuộc tàn sát Gujarat, chính phủ Pháp đã dựng dải băng kiểm soát giữa nền văn minh và tình trạng dã man mà cũng được Tony Blair, George W. Bush và Ariel Sharon dựng lên.
Ngoài ra, các thực hành dãn man của ‘liên minh’ trong chiến tranh đã phản hồi lại một cách không thể tránh khỏi thành một diễn ngôn man rợ trong các nhà nước gây chiến. Các phòng tra tấn của Abu Ghraib, Bagram và Guantanamo, việc vũ trang và huấn luyện các độ tử thần như Lữ đoàn Sói (Wolf Brigade) ở Iraq, và việc tàn phá và làm ô uế các thành phố phiến quân như Fallujah, Tal Afar, al-Qaim, Haditha, Samarra và Ramadi bằng máy bay tất cả đều trái ngược hoàn toàn với những sự biện minh nhân đạo cho cuộc xâm lăng. Không thể tránh khỏi, các phe bình luận, mà đưa bài viết lên như những kẻ đồng-tham chiến trong chiến tranh chống khủng bố, đã cảm thấy tự do hơn, khi vẻ nhân đạo bề ngoài của họ sụp đổ, họ đưa ra những lời bào chữa hoặc biện minh cho sự tra tấn và đánh bom, hoặc để phỉ báng Islam, vay mượn sự ám ảnh ‘nhân khẩu học’ của cực hữu và tham gia một sự pha trộn kỳ lạ của sự hạ cố nhân đạo, sự quan tâm hằn học và gợi tình liên quan đến phụ nữ Muslim. Thật logic cho nhiều cử tri rằng nếu ‘họ’ đã đủ đe dọa để yêu cầu diễn ngôn báo động và những sự can thiệp nhà nước sâu rộng như vậy trong cuộc sống hàng ngày, thì ‘họ’ phải nguy hiểm như cực hữu nói là họ nguy hiểm.
Tuy vậy, vì Washington viện dẫn chủ nghĩa tự do để biện minh cho ‘chiến tranh chống khủng bố’, và sự hiện thân của nó trong các hiệp định quốc tế, cuộc tàn sát Gujarat đã không thể ở giai đoạn để được bỏ qua hoặc được tha thứ như muộn hơn bạo lực như vậy được. Narendra Modi đã bị nhắm mục tiêu cho sự chỉ trích quốc tế nghiêm khắc và những hạn chế visa. Điều này còn xa mới nhất trí: Nhà Trắng, mà đã có một mối quan hệ chiến lược thân thiết với chính phủ do BJP-lãnh đạo cai trị Ấn Độ trong cuộc tàn sát, đã thầm lặng phản đối nước đi của Bộ Ngoại giao để thu hồi visa của Modi.21 Tuy nhiên, đã có vẻ rằng lúc đó Modi đã bị thất sủng về mặt quốc tế.
Trong bang Gujarat, tuy vậy, một chính quyền BJP được củng cố đã bắt đầu quá trình làm thay đổi sự nhận thức một cách căn bản. Sự kiểm soát bang đã trao cho BJP những nguồn lực to lớn trong cố gắng của họ để định khung Godhra, không phải cuộc tàn sát, như ‘diệt chủng vô nhân đạo’. Chính phủ bang đã chỉ định Ủy ban Nanavati-Mehta để ủng hộ chuyện kể. Cảnh sát và hệ thống tư pháp đã làm tất cả những gì chúng có thể làm để tiếp tay câu chuyện về một âm mưu Muslim. Hàng tá người, mà muộn hơn được tuyên bố trắng án, đã phải ngồi tù chín năm vì không có tiền bảo lãnh, khi vai trò bị gán cho họ được điều tra. Tất cả các sự bắt bớ ban đầu muộn hơn đều thấy là đã sai. Người bị cho là chủ mưu, một nhà lãnh đạo cộng đồng có tên Hussain Umarji, được tha bổng vì bằng chứng chống lại ông hoặc là tin đồn hay là lời khai vô căn cứ. Tuy nhiên, ba mươi mốt trong số chín mươi tư bị cáo đã bị kết án, với tòa án xét xử nhắc đến một ‘âm mưu’ mà đã không có khả năng để xác minh hay chứng minh chi tiết.22
Chính quyền Modi ở Gujarat cũng được tự do để theo đuổi những kẻ thù truyền kiếp chống lại các nhà báo hay chỉ trích và các nhà hoạt động nhân quyền, và sự cai trị của Modi được đặc trưng bởi vô số ‘cuộc gặp gỡ giả’ – những vụ hành quyết ngoài pháp luật được dàn dựng để có vẻ cứ như chúng đã xuất hiện trong trận đấu súng. Giữa 2002 và 2006, Amnesty International đã lập tư liệu ba mươi mốt tội giết người như vậy. Giữa những người bị giết đã có một phụ nữ mười chín tuổi, Ishrat Jahan, cô bị Modi dán nhãn một ‘kẻ khủng bố’. Hóa ra là cô, cùng với ba người bạn, đã bị bắn chết tàn nhẫn bởi cảnh sát, mà sau đó đã di chuyển xác của họ và đặt một khẩu AK-47 vào tay của một trong những người đàn ông đã chết.23
Quan trọng nhất cho tính chính danh dài hạn của Modi, bắt đầu trong các năm 2002–3, là chính quyền đã lao vào ‘mô hình Gujarat’. Tiểu bang đã cắt giảm chi tiêu về các dịch vụ công để tạo khuyến khích cho các công ty vì các muc đích phát triển cơ sở hạ tầng lớn. Điều này phản ánh một bước ngoặt gần đây trong việc xây dựng-quốc gia Ấn Độ. Sau khi đã lãnh đạo một phe ‘không-liên kết’ của các quốc gia Thế giới thứ Ba tìm kiếm một con đường độc lập đến sự phát triển, không theo Washington cũng chẳng theo Moscow, trong những năm 1990 Ấn Độ đã chuyển sang thương hiệu chủ nghĩa dân tộc. Từ đó, như Ravinder Kaur giải thích, nhà nước-quốc gia trở thành thương hiệu cho những tài sản mà, nếu được tư nhân hóa và bãi bỏ quy định, sẽ thu hút đầu tư và thả một dòng lũ vốn dứt khoát đưa Ấn Độ ra khỏi quá khứ thuộc địa bạo lực của nó. Các bang Ấn Độ được khuyến khích để cạnh tranh với nhau theo những tiêu chuẩn chúng làm các thứ dễ dàng thế nào cho các nhà đầu tư. Ấn Độ đã ‘mở cửa cho doanh nghiệp’, với ‘tầm nhìn về tăng trưởng kinh tế gắn với những giấc mơ siêu dân tộc chủ nghĩa về một tương lai hiện đại-cổ xưa huy hoàng’.24
Các đối thủ của BJP, đồng ý với những phương thuốc vạn năng tân tự do hướng dẫn sự thử nghiệm, đã có dư địa hạn chế để chỉ trích mô hình Gujarat. Quả thực, các chính trị gia Quốc đại đã thường xuyên ca ngợi nhiều về nó. Ví dụ, cho sự vui mừng của chính quyền Modi, ngay từ 2005 Gujarat được Quỹ Rajiv Gandhi xếp hạng như bang giỏi nhất trong nước cho ‘quyền tự do kinh tế’, quỹ được đứng đầu bởi chẳng ai khác ngoài cựu chủ tịch của đảng Quốc Đại Ấn Độ, Sonia Gandhi. (Modi đã báo đáp thị tộc Gandhi bằng việc quảng cáo lời khen này trên các báo và rồi, đã khiến lãnh tụ Quốc Đại bị xử vì những cáo buộc phi lý về tội phỉ báng.) Tuy nhiên các nhà kinh tế nghiên cứu cái được cho là sự tăng trưởng đột biến đã thấy nó là một ảo tưởng thống kê, với bang Gujarat làm không tốt hơn nó đã làm trước đó. Trong khi đó, chi tiêu công về sức khỏe đã giảm xuống 0,8 phần trăm của thu nhập bang, còn những sự cắt giảm giáo dục đã dẫn đến 45 phần trăm người lao động đươc giáo dục tồi hay mù chữ. Chín mươi tư phần trăm lực lượng lao động được dùng hoặc trong khu vực phi chính thức hay các khu vực với lương và phúc lợi thấp.25
Chỉ trong vòng một thập niên sau cuộc tàn sát, Narendra Modi đã trở thành thủ tướng Ấn Độ, với chiến dịch vận động của ông đồn đại về thành công của ‘mô hình Gujarat’. Lời hứa để mở rộng mô hình ra toàn quốc, thả rông một chủ nghĩa đế quốc cơ bắp không có các ràng buộc phúc lợi, cộng hưởng không chỉ với các doanh nghiệp mà cả với một tầng lớp trung lưu bứt rứt về thất bại của Ấn Độ để sánh được với các hình mẫu tăng trưởng ngoạn mục của Trung Quốc. Modi đã được các chính trị gia Mỹ ca ngợi vì ‘những cải cách kinh tế’ ‘gây hứng khởi’ của ông, được Tổng thống Obama chào mừng đến Nhà Trắng, được các CEO Thung Lũng Silicon ca ngợi và được tạp chí Time chọn là ‘người của năm’. Tờ Economist, mà rốt cuộc đã không ngần ngại ủng hộ Tướng Pinochet, đã hoan nghênh ‘nhà lãnh đạo độc đoán’ có thể ‘giải phóng Ấn Độ’ và ‘cho Ấn Độ cơ hội thịnh vượng tốt nhất của nó từ trước đến nay’. Tờ Investors Chronicle đã tán dương rằng những người Ấn Độ nghèo đã bỏ ‘quyền chính trị’ để ủng hộ một chương trình nghị sự ‘thân-tăng trưởng’.26 Các giai cấp cai trị, mà đã bực mình về việc bầu Trump và sự bỏ phiếu Brexit vào thời điểm đó, đã chứng tỏ rồi một sự khoan dung cho chủ nghĩa đế quốc với các đặc tính tàn sát.
Chuyện hoang đường về chủ nghĩa đế quốc cơ bắp đã luôn vượt quá thực tế. Nhiệm kỳ đầu tiên của Modi cho thấy ít dấu hiệu về sự giải phóng tăng trưởng mà cáo bạch Gujarat đã quảng cáo. Những con số chính thức, ngày càng không đáng tin cậy, cho thấy sự tăng trưởng lành mạnh – nhưng không hề tốt hơn dưới các chính phủ trước. Những con số thu nhập, mà chính phủ tìm cách giữ kín, cho thấy rằng chi tiêu của người tiêu dùng trung bình về mặt thực tế đã giảm 3,7 phần trăm giữa 2011–12 và 2017–18. Những gì chế độ Hindutva đã thực hiện là việc thực dân hóa các tòa án và các đại học bằng các đồng minh của nó và nhồi đầy không gian công cộng bằng sự xúi giục. Giữa 2016 và 2019, có 4.500 vụ náo loạn cộng đồng hay tôn giáo được ghi nhận ở Ấn Độ. Mặc dù đó là một sự sụt giảm về số các vụ náo loạn, số các nạn nhân náo loạn đã tăng – gợi ý rằng các vụ náo loạn trở nên đẫm máu hơn. Số các bài phát biểu thù hận của các chính trị gia, áp đảo với các phát biểu liên kết với BJP, đã tăng 490 phần trăm sau 2014. Đã có hàng trăm vụ hành hình những người Muslim, thường bởi các đội viên dân phòng Hindu thực thi luật tiểu bang về bảo vệ bò. Nhiều tiểu bang đã thực hiện các luật chống-cải đạo do các nhà dân tộc chủ nghĩa Hindu thúc đẩy và nhắm vào những người Muslim.27
Tuy nhiên chuyện hoang đường vẫn quan trọng, như một container cho những lời hứa khác nhau – về sự phát triển mà không có tái phân phối cho những người nghèo, về tính di động hướng lên cho tầng lớp trung lưu, về tính cạnh tranh và tính sinh lời cho doanh nghiệp, và về tính tối thượng Hindu. Trong 2019, trong cuộc tái tranh cử, Modi cho rằng GDP Ấn Độ sẽ gần như tăng gấp đôi lên 5 ngàn tỷ $ vào 2025. Trong cùng chiến dịch, đảng của ông đề xuất một đống luật mới, trên hết là Đạo luật Sửa đổi tư cách Công dân (CAA) mà lần đầu tiên hạn chế tư cách công dân dựa vào tôn giáo, luật Đăng ký Công dân Quốc gia (NRC) mà loại trừ hàng triệu công dân nghèo không có giấy tờ, và hủy bỏ sự tự trị hiến định của Jammu và Kashmir, như thế cho phép quân đội Ấn Độ, bắt các chính trị gia Kashmiri và áp đặt một chế độ độc tài. Sự tái cử của Modi trên cơ sở đó đã xúc tác sự đối đầu lớn đầu tiên giữa chính phủ và một đối lập quần chúng.
Việc thông qua đạo luật CAA, được công nhận như một cuộc tấn công chống lại chủ nghĩa thế tục Ấn Độ, đã kích động các cuộc phản kháng toàn quốc bắt đầu trong tháng Mười Hai 2019, kéo theo hàng trăm ngàn người biểu tình. Các lãnh đạo BJP đã phản ứng với sự thịnh nộ, tố cáo những người biểu tình như ‘bọn côn đồ Pakistani’ và ‘kiều dân’, và hô vang ‘bắn những kẻ phản bội’. Trong tháng Giêng 2020, Parvesh Verma, một thành viên quốc hội của BJP, cảnh cáo những người biểu tình: ‘Những người này sẽ bước vào nhà của các bạn, hiếp chị em & con gái của các bạn, hãy giết họ đi.’ Trong một trong những sự cố kích động của cuộc tàn sát, chính trị gia BJP Kapil Mishra bảo cảnh sát rằng nếu họ không dẹp sạch những người biểu tình, thì ông và đám đông sẽ dẹp. Tuy vậy, những sự can thiệp này đã là các sự kiện lan truyền hàng loạt trong sự lây xúi giục được phát trên media xã hội bởi các nhà hoạt động cấp cơ sở như người tình nguyện BJP Ragini Tiwari. ‘Dù kẻ phản bội là ai, hãy hạ gục họ,’ Tiwari nói. ‘Hạ gục họ … Giết hoặc bị Giết, dù bất cứ gì xảy ra sau đó.’ Theo một báo cáo nội bộ, Facebook đã thấy một sự tăng vọt 300 phần trăm về nội dung kích động trong ba tháng từ tháng Mười Hai 2019.
Sau bài phát biểu của Mishra, hàng trăm người theo cánh hữu Hindu có vũ trang tại Delhi đã phát động cuộc tấn công. Họ đã quét qua thành phố tìm kiếm những người Muslim trên đường phố và tại nhà của họ, đánh họ đến chết và rồi đốt họ. Họ hô, ‘Modi ji, kaat do in mullon ko (Modi, hãy cắt bọn Muslim này thành từng miếng)’. Cảnh sát đã từ chối trả lời những cuộc gọi xin giúp đỡ từ những khu vực Muslim. Họ đã chứng kiến bằng cách hoặc đứng nhìn khi bạo lực diễn ra hay giúp đỡ những kẻ tàn sát. Một người kể lại cuộc tàn sát em rể của ông trước mặt trẻ con của anh:
Họ phá chiếc giường nơi Musharraf ẩn náu dưới đó và anh hét lên, nên họ tóm anh và lôi anh ra ngoài đường. Trẻ con cũng chạy ra, và khóc thét. Con gái anh, Kushi – nó mới vừa 11 tuổi – sụp xuống chân những người đó, cầu xin ‘Đừng giết ba cháu’. Nó thử cứu anh nhưng họ đánh anh đến chết ở giữa đường và quăng anh vào rãnh.28
Sau đó, cảnh sát đã từ chối xử lý hầu hết khiếu nại Muslim và không hành động nào được tiến hành chống lại Kapil Mishra vì vai trò của ông ta trong cuộc tàn sát. Trong những năm kể từ cuộc tàn sát, sự hành hình đã leo thang và các giáo sĩ gieo rắc sự xúi giục diệt chủng không bị trừng phạt: ‘Hãy giết hai triệu trong số họ.’ Trong các làng và thị trấn, tội giết người bài Islam, được nói trại như bạo lực cộng đồng, đã trở thành đều đặn. Theo tổ chức Genocide Watch (Theo dõi Diệt chủng), các quá trình điển hình dẫn đến diệt chủng đang diễn ra thuận lợi ở Ấn Độ hiện đại. Ba năm sau cuộc tàn sát Delhi trong tháng Hai 2020, một báo cáo của Morgan Stanley đã chào mừng chế độ biến đổi của Modi, và Tổng thống Joe Biden lại chào Modi lần nữa đến Nhà Trắng.29
Cuộc tàn sát Gujarat chứng minh rằng, còn lâu mới làm hại một đảng cánh hữu, bạo lực tập thể có thể là giữa những vật liệu mà từ đó sự ưng thuận được xây dựng, và ép buộc. Nó có thể hiệu triệu sự ủng hộ dân chúng rộng rãi cho một chế độ mà, gống các chính phủ dân tộc chủ nghĩa ở Hungary, Brazil và Hoa Kỳ, đã áp đặt lên một chủ nghĩa tân tự do độc đoán mặt khác không được lòng dân. Nó cũng báo trước các liên minh ad hoc giữa nhà nước và những kẻ giết người tự nguyện, sự hợp nhất của chủ nghĩa bán-quân sự DIY (Tự Làm Lấy) và chủ nghĩa bầu cử, và liên kết các mục đích chiến lược với sự giải trí cực kỳ lộn xộn mà muộn hơn xuất hiện – mặc dù chẳng hề như một mốt đẫm máu – ở Hoa Kỳ, Brazil, Philippines và Bờ Tây. Cuộc tàn sát đã tạo sự nghiệp của Narendra Modi, đã giúp biến BJP thành đảng lớn nhất thế giới với hơn 100 triệu đảng viên (một số đảng viên tự nhận 180 triệu, lớn gấp đôi Đảng Cộng sản Trung quốc và mười lần lớn hơn đảng Quốc Đại Ấn Độ), và đã thiết lập một cách dứt khoát khả năng đứng vững chiến lược của chủ nghĩa dân tộc giết người trong một nền dân chủ hiện đại.30
IV.
Mối quan hệ kỳ lạ này giữa tội giết người hàng loạt và nền kinh tế chính trị có thể được bày tỏ trong dường như một nghịch lý: chủ nghĩa dân túy đội-tử thần.
Trong mùa thu 2020, nhà lãnh đạo chính trị được lòng dân nhất thế giới là Rodrigo Duterte ‘kẻ Trừng trị’. Người đàn ông mà đã đóng cửa báo chí đối lập, bỏ tù các đối thủ chính trị, khoe khoang về các vụ giết người ngoài pháp luật, và đã thả rông các đội tử thần và các đội viên dân phòng nổi tiếng chống lại những người đô thị nghèo của Philippines, lại nhận được sự tăng vọt thăm dò này sau khi ông quân sự hóa việc xử lý khủng hoảng Covid-19 khiến nước này chịu các tỷ lệ nhiễm cao nhất ở Đông Nam Á. Xếp hạng chấp thuận của ông đạt 92 phần trăm: một mức bình thường được kỳ vọng để thấy trong các chế độ độc tài. Thực ra, sự nổi tiếng rộng rãi toàn quốc của Duterte đã được thiết lập nhanh chóng một khi ông được bàu, với 83 phần trăm xếp hạng chấp thuận ngay từ tháng Mười Hai 2016. Mặc dù hầu hết mọi người thú nhận không thích nhiều trong những việc ông làm, họ ủng hộ ông mạnh mẽ về vấn đề ‘chống tội phạm’, với 84 phần trăm ủng hộ các chiến dịch chống ma túy của ông. Điều này bất chấp sự thực rằng một đa số tương tự (78 phần trăm) đã hoặc ‘hơi lo lắng’ (33 phần trăm), hay ‘rất lo lắng’ (45 phần trăm) rằng họ hoặc ai đó mà họ biết có thể trở thành nạn nhân của một vụ giết người ngoài pháp luật.31
Duterte được bàu giữa một sự thay đổi toàn cầu về ý kiến chống lại nền dân chủ tự do. Trong các khảo sát toàn cầu được tiến hành giữa 1995 và 2014, đã có một sự tăng đầy kịch tính về số những người thích ‘một nhà lãnh đạo mạnh không phải lo lắng đến các cuộc bầu cử’ hoặc nói rằng dân chủ là cách ‘tồi’ hay ‘rất tồi’ để vận hành một đất nước.32 Philippines đã là một nền dân chủ yếu rồi, với các mức tham gia dân chúng thấp và các mức tham nhũng, gian lận bầu cử và bạo lực chính trị cao. Giai cấp lao động được đại diện kém. Các quyền dân sự và con người được xem, với công lý nào đó, như các quyền được dành cho tầng lớp trung lưu và những người giàu.33 Mức nghèo, cho một nước thu nhập-trung bình, vẫn hết sức cao: trong năm 2016, khoảng 42 phần trăm đánh giá bản thân mình là nghèo, trong khi 30 phần trăm trẻ em dưới năm tuổi bị còi cọc do suy dinh dưỡng. Tại thủ đô Manila, một phần ba dân cư sống trong các khu ổ chuột. Trong nền dân chủ elite mà xuất hiện sau sự sụp đổ của chế độ độc tài Marcos, một lối thoát phổ biến khỏi sự khốn khổ là nghiện ‘shabu’ (ma túy đá-methamphetamine).34
Phản ứng lại Duterte đưa ra một loại đỉnh cao khác: lời hứa về bạo lực nửa quân sự có chỉ số octane-cao. Điều này đã có một sự hấp dẫn đặc biệt rộng, cả cho những người bị sự dàn xếp hậu-Marcos loại trừ, và những người được lợi. Nhà khoa học chính trị Duncan McCargo báo cáo độ rộng của sự nhiệt tình này ở Manila: ‘Các lái xe taxi đã không ngạc nhiên, nhưng tôi đã bất ngờ để thấy rằng các đồng nghiệp học thuật tại Đại học Philippines, bác sĩ điều trị ho cho tôi, và thậm chí các luật sư nhân quyền tự phong đã cổ vũ cho một ứng viên mà chủ đề chính của chiến dịch vận động của ông ta bao gồm việc đánh giá cao nam tính của mình, và giải quyết các vấn đề chính sách qua sự giết người ngoài pháp luật.’35
Hệt như Narendra Modi đã nắm quyền ở Ấn Độ với huyền thoại riêng của ông như một người Gujarati cứng rắn, Duterte đã có một danh tiếng rồi như ‘Duterte Harry’ của thành phố Davao ở miền nam. ‘Mô hình Davao’ về tăng trưởng kinh tế đã dựa vào các giấy phép kinh doanh nhanh chóng, sự đàn áp tội phạm bằng bạo lực, và sự dùng việc giết người ngoài pháp luật. Các đội Tử thần Davao (Death Squads-DDS), cũng được biết đến một cách trìu mến cho ứng viên tổng thống như ‘Những người ủng hộ Duterte hết sức ngoan cố’, đã là phần của sự hấp dẫn. Đồng thời, Duterte đã dẫn một chương trình truyền hình thường xuyên ở Davao gọi là Gikan sa Masa, Para sa Masa (Từ Quần chúng, đến Quần chúng) trong đó ông gọi tên các quan chức kém hiệu quả và các tội phạm bị tình nghi.36 Bạo lực và thông tin giải trí đã xây dựng danh tiếng của Duterte như một người đàn ông cứng rắn quan tâm đến những người bình thường, và thái độ không ngớ ngẩn của ông để khiến các thứ được làm và khiến nền kinh tế bùng nổ. Thật đặc biệt, trong cuộc bầu cử tổng thống 2016, có đến 96,6 phần trăm dân cư Thành phố Davao đã bỏ phiếu cho ông. Và khi ông trình bày mô hình Davao cho quốc gia như một chiến lược phát triển vạm vỡ, ông đã hứa: ‘Hãy quên các luật nhân quyền đi. Nếu tôi vào dinh tổng thống, tôi sẽ làm đúng như tôi đã làm với tư cách thị trưởng.’ Với tư cách tổng thống, ông đã giữ lời hứa của mình. Ông đã không chỉ triển khai cảnh sát và các đội tử thần, mà ông đã xúi giục công chúng cảnh giác trả thù những kẻ nghiện ma túy, nói với những người lao động: ‘Nếu bạn mất việc làm của mình, tôi sẽ cho bạn một việc làm. Hãy giết tất cả bọn nghiện ma túy.’37
Sự xúi giục dân phòng là một kỹ thuật quen thuộc trong chính trị Philippines, đã phát triển như một chiến lược đàn áp trong thời đại hậu-Marcos ban đầu mà trong đó Duterte xây dựng sự nghiệp của mình. Chiến lược làm cho không thể để phân biệt bạo lực chính phủ và bạo lực dân phòng khỏi nhau, vì các nhóm dân phòng thường được các thành phần trong cảnh sát hay giai cấp cai trị lập ra. Theo tổ chức Human Rights Watch (Giám sát Nhân quyền), cảnh sát thường xuyên gán các vụ giết người đội-tử thần của chính họ cho các đội viên dân phòng. Lợi thế của việc này là sự cảnh giác chống-tội phạm có khuynh hướng mở rộng thành một chiến tranh chống đối lập. Các lực lượng an ninh nhà nước dưới Duterte, chẳng hạn, đã phục hồi sự thực hành cũ về ‘gắn nhãn-đỏ’ cho các nhà hoạt động như những người cộng sản hay bọn khủng bố, bằng cách ấy khuyến khích bạo lực dân phòng chống lại họ. Cái khác về Duterte là ông đã khoe khoang về nó: ‘tôi đi vòng quanh Davao với một xe máy … và tôi tuần tra đường phố, cũng tìm những rắc rối nữa. Tôi đã thực sự tìm kiếm một sự đối đầu để tôi có thể giết … Ở Davao, tôi đã thường đích thân làm việc đó. Chỉ để cho các gã [cảnh sát] thấy rằng nếu tôi có thể làm việc đó thì vì sao họ không thể.’38
Danh sách ‘theo dõi ma túy được các đội tử thần của Duterte sử dụng cũng có trước triều đại của ông. Trong năm trước khi Duterte được bàu, một lệnh chính phủ đã chỉ thị cho các quan chức barangay (thị trấn hay làng) để ủng hộ các chiến dịch ‘dọn sạch-ma túy’ của cảnh sát bằng việc lập một ‘danh sách mật về những người dùng, những người thúc đẩy, các nhà tài chính và/hoặc những người che chở’. Cảnh sát sau đó đã tiếp cận các lãnh đạo cộng đồng địa phương và yêu cầu họ lập danh sách địa phương. Các danh sách này càng bao gồm càng tốt. Như một lãnh đạo purok (phân khu) nói, ông được bảo để bao gồm tên của bất cứ ai ‘dùng ma túy, cho dù là trong quá khứ’. Quả thực, nhiều người nghiện bị giết sau khi họ đã ngừng dùng ma túy.39 Duterte, dựa vào thực hành trước của ông về dùng các côn đồ được chuyển từ Quân đội Nhân dân mới để giết hàng ngàn tội phạm nhỏ ở Davao, đã dùng những vũ khí được ‘những người dân chủ’ để lại cho ông.
Nghịch lý của chủ nghĩa dân túy đội-tử thần là, trong khi súng quay sang chống lại các cộng đồng nghèo, phần lớn chính súng lại giành được sự ủng hộ của những người nghèo. Trong chính trị đạo đức của Duterte, súng đạn đã tạo một sự phân biệt nghiêm ngặt giữa những người nghèo xứng đáng và các phần tử tội phạm. Những người trước được quyền hưởng sự chuyển giao tiền mặt và phúc lợi hạn chế, còn những kẻ sau nên bị giết trong sự làm nhục công khai trước gia đình khiếp sợ của họ. Bằng việc loại bỏ những kẻ nghiện ma túy, ông hứa để cải thiện chất lượng đạo đức cuộc sống của những người nghèo xứng đáng. Họ sẽ không cảm thấy bị hạ cấp, bị hoảng sợ hay bị quấy rối bởi tội phạm trên đường phố. Như Walden Bello nhà chỉ trích cánh tả của Duterte diễn đạt: ‘Bọn côn đồ, các chàng trai góc phố, không còn ở đó nữa. Phụ nữ có thể đi dọc đường phố một cách an toàn. Tôi không biết nếu cuộc sống của họ thực sự có tốt hơn trước hay không, nhưng cảm giác là họ có được. Họ là những người ủng hộ Duterte bởi vì họ cảm thấy ông ta đã dọn sạch chỗ đó.’40
Các đội tử thần cũng là một dạng của ‘chủ nghĩa dân túy kinh tế’. ‘Trước khi một thành phố hay một tỉnh có thể thực sự thịnh vượng,’ Duterte nói, ‘bạn phải thiết lập trật tự. Sao cho các nhà đầu tư sẽ đến, thoải mái trong suy nghĩ của họ rằng sẽ không có tham nhũng, rằng họ an toàn, và rằng các doanh nghiệp của họ sẽ thịnh vượng.’41 Phần lớn chương trình nghị sự kinh tế của Duterte nhấn mạnh sự tiếp tục với các chính sách kinh tế vĩ mô và thương mại của những người tiền nhiệm của ông. Tuy vậy, lời hứa là nếu đất nước có thể được làm sạch khỏi những kẻ nghiện ngập gây mất tinh thần của nó, những con dê tế thần quỷ quái của quốc gia, thì nó sẽ phát đạt. Lời chào mời là cao cả, vật chất và tinh thần, được trả bằng máu.
Vào tháng Sáu 2020, một báo cáo của Liên Hiệp Quốc gợi ý rằng hàng chục ngàn người có thể đã bị giết. Tòa án Hình sự Quốc tế, trong việc khởi động một cuộc điều tra về các tội ác do Duterte phạm, ước lượng rằng giữa 12.000 và 30.000 người đã bị giết. Những người này đã gồm hàng trăm nhà hoạt động nhân quyền, và hàng tá thẩm phán, thị trưởng, luật sư và nhà báo. Trong số những người bị giết, cảnh sát kể ‘công’ về 6.215 người cho đến tháng Mười 2021. Điều này gợi ý, thậm chí cho phép một số đáng kể vụ cảnh sát giết người được ngụy trang như những vụ dân phòng giết người, và cũng cho phép hoạt động của các đội tử thần phi chính thức, rằng giữa các cuộc tàn sát đã có nhiều vụ giết người tiêu khiển hay báo thù, và rằng nhiều công dân đã nghe và hành động theo lời biện hộ của Duterte cho sự thanh lọc giết người.42
V.
Tôi không thể chờ Trump cho phép chúng tôi bắt đầu đánh hung bạo bọn chúng bay.
– Scott Hess của Đảng Công nhân truyền thống, [nói] với những người biểu tình chống-Trump, tháng Giêng 201743
Trong tháng Hai 2020, khi cuộc tàn sát Delhi bắt đầu, Donald Trump thăm Ấn Độ cho chuyến đi namaste (cúi chào) Trump, một sự đáp lại sự kiện Howdy (Chào) Modi được tổ chức ở Texas năm trước. Cuối cuộc viếng thăm, ông dùng một buổi tối tại dinh tổng thống, nơi ông được thết đãi với ‘cam mandarin bọc vàng-dát, nấm rừng Himalaya morel, và quà tặng thảm lụa Kashmiri’. Cách xa sáu dặm, các đám đông bắt đầu cuộc tấn công của họ trong khi các sĩ quan cảnh sát giúp họ đập vỡ các camera CCTV.44 Những lễ cưới giữa Trump và Modi có lẽ đã không phải không có căng thẳng vì các chính sách ‘nước Mỹ Trên hết’ của Trump đã hạn chế sự tiếp cận của vốn và lao động Ấn Độ đến các thị trường Mỹ, nhưng chúng hợp logic chính trị, và được hoàn thành trong năm mà chủ nghĩa Trump cuối cùng được công nhận.
Tác động kích thích của bạo lực dân chúng lên chủ nghĩa Trump trong 2020, năm ham muốn tiên tri cho cánh hữu Mỹ, là khó để nói quá. Qua các dân quân phản đối cách ly Covid-19, ‘tuần tra’ các cuộc biểu tình Black Lives Matter và đe dọa xâm chiếm các trạm bỏ phiếu, cuối cùng Trump đã tìm thấy mối quan hệ cực đoan hóa lẫn nhau giữa ban lãnh đạo và cơ sở mà ông đã mong muốn kể từ vụ bạo loạn Charlottesville. Khi ông tìm thấy, phong trào đã bùng nổ thành một hoạt động chống-lật đổ điên cuồng mà đã mở rộng triệt để cơ sở cử tri của Trump và lên đỉnh điểm trong ‘cuộc nổi dậy’ ngày 6 tháng Giêng 2021, hay ‘Q-đảo chính’, một cuộc xâm nhập không gian thực của các Vendée (những người mua) online trong cuộc nổi loạn chống lại trật tự thức tỉnh (woke) mới. Cơn bùng phát tận thế này chống lại tính hợp pháp hiến định đã thuyết phục sử gia về chủ nghĩa phát xít Robert Paxton bỏ những sự bất bình của ông để gọi Trump là một tên phát xít.45 Việc nó dẫn đến chỉ năm cái chết đã phản ánh sự thiếu kinh nghiệm tương đối và sự vô kỷ luật chính trị của đám đông phản động.
Chiến thắng bất ngờ của Trump trong 2016, khi ông biến các tiểu bang như Florida, Pennsylvania, Michigan và Wisconsin thành các tiểu bang đỏ, đã thúc đẩy các làn sóng địa chấn ăn mừng từ ‘những người theo chủ nghĩa thực tế chủng tộc’, những người theo Chủ nghĩa Bản sắc Kitô giáo, các thành viên 3K, các nhà hoạt động cực hữu, những kẻ huyên thuyên online và những người theo của ‘Kek’, Three Percenters, Oath Keepers, American Vanguard, Proud Boys, Identity Evropa và những kẻ hầu cận cánh hữu-mới nổi tiếng của chúng. Lõi của sự hấp dẫn rộng rãi của Trump là việc ông bác bỏ các hiệp định thương mại và hứa về một chính sách công nghiệp dân tộc chủ nghĩa mà sẽ dùng các khuyến khích chính phủ, kiểu-Gujarat để thúc đẩy đầu tư hạ tầng cơ sở 1 ngàn tỷ $, tạo ra 25 triệu việc làm. Nhưng đối với cực hữu, đây là một phương tiện cho một sự tái sinh chính trị mà sẽ tạo ra một khối bỏ phiếu dân tộc chủ nghĩa không thể bị tấn công và hủy hoại các kẻ thù chính trị của họ. Như Steve Bannon diễn đạt, ‘Nếu chúng ta giữ lời hứa … chúng ta sẽ cai trị trong năm mươi năm.’ Lễ kỷ niệm của họ được gắn với bạo lực: một sự tăng vọt của các cuộc tấn công kỳ thị chủng tộc, và các cuộc tấn công tình dục bởi những người đàn ông ‘túm-l. (pussy-grabbing)’, đã xảy ra trong các tuần trước khi ông được bầu. Trong năm 2016 số được báo cáo của các cuộc tấn công kỳ thị chủng tộc chống lại những người Muslim đã vượt tỷ lệ được trải nghiệm trong 2001.46
Không lâu sau đó, các đảng viên của Đảng Công nhân truyền thống ăn trưa với các đặc vụ Cộng hòa, thảo luận làm về thế nào giáo phái Nazi này có thể giúp ràng buộc những người da trắng bất mãn với một GOP (đảng Cộng hòa) được đại tu. Nhà dân tộc chủ nghĩa da trắng Richard Spencer nổi tiếng với kiểu chào phát xít trước một đám đông người ủng hộ, hô ‘Hail Trump’. Tại lễ nhậm chức của mình, Trump tự liên kết mình một cách hùng biện với truyền thống ‘nước Mỹ Trên hết -America First’, gợi lên khẩu hiệu đã được dùng bởi những người theo thuyết bản địa bài nhập cư (nativist) trước và trong Chiến tranh thế giới I, Ku Klux Klan trong các năm 1920 và những kẻ biện hộ cho chủ nghĩa phát xít trong các năm 1930. Khi tại chức, Trump khởi động nhiệm kỳ tổng thống của mình với một sự trình diễn quyền lực. Ông ban hành một trận bão tuyết các sắc lệnh hành pháp, nhấn mạnh sự cam kết của ông với một sự cấm du lịch Muslim và một bức tường biên giới. Ông bổ nhiệm các đồng minh, như nhà lý thuyết âm mưu bài Islam Tướng Michael Flynn và cựu tổng biên tập Breitbart và nhà dân tộc chủ nghĩa da trắng Steve Bannon, vào Hội đồng An ninh Quốc gia. Khi Tòa án Tối cao thách thức lệnh cấm Muslim của Trump, cố vấn của ông Stephen Miller phê bình: ‘Quyền lực của tổng thống để bảo vệ đất nước chúng ta là rất quan trọng và sẽ không bị nghi ngờ.’47
Sự thể hiện hiệu lực của Trump, cho là quyền lực hành pháp vượt quá quyền lực đó của chính quyền Bush, là rỗng tuếch. Ông đã không tự do để cai trị như ông muốn. Trong vòng ít hơn một năm, tổng thống đã phải phòng thủ từ mọi phía, bị quấn vào các trận chiến với media đại chúng, Tòa án Tối cao, các nhà điều tra FBI, những người Dân chủ và một ban lãnh đạo Cộng hòa chỉ cho phép ông cai quản nếu ông chấp nhận chương trình nghị sự của họ để cắt giảm thuế từ từ cho những người giàu. Ông đã chấp nhận một phiên bản chính sách đối ngoại của Obama bởi vì nó được Pentagon khuyến nghị: một sự quỳ gối đã báo hiệu trong tháng Tư 2017 với một vụ ném bom biểu tượng ở Syria. Chẳng bao lâu, ông bị buộc để mất các cố vấn của mình, Bannon và Flynn. Đầu tư hạ tầng cơ sở của ông đã chẳng bao giờ được thực hiện: thực ra, đầu tư vào đường sá, cầu, cảng, sân bay và hệ thống nước loạn chức năng của nước Mỹ, hoặc đã đình trệ hay sụt giảm. Phong trào đường phố, mà có thể lẽ ra đã tiếp sức sống cho chính quyền của ông, đã dừng lại sau cuộc biểu tình châm đuốc ‘Thống nhất cánh Hữu’ ở Charlottesville, Bắc Carolina, mà thực ra đã chia rẽ cánh hữu. Trump đã đủ khôn ngoan để báo hiệu cái Steve Bannon gọi là ‘lập trường mặc định’ vào ngày sau cuộc tàn sát nhà hoạt động chống-phát xít Heather Heyer, bằng việc tuyên bố rằng đã có ‘những người rất tốt ở cả hai bên’. Nhưng bạo lực đã chưa chín muồi về mặt chính trị, một biểu hiện của chủ nghĩa ý chí cực đoan của cực hữu. Cái nổi lên đã không phải là một nhà nước độc đoán mà là cái Dylan Riley gọi là nhà hành pháp ‘gia sản’, một vùng quyền lực bị bao bên trong nhà nước được cai trị bởi Trump như gia trưởng. Như Bannon than vãn, ‘Nhiệm kỳ tổng thống của Trump, mà chúng ta chiến đấu vì, và giành được, đã kết thúc’.48
Với cảm hứng của ông cạn kiệt, và Phòng Bầu dục được phức cảm Oedipus hóa một cách độc đáo của ông bị bao vây, Trump đối mặt với một phản ứng cử tri dữ dội và cay đắng trong các cuộc bầu cử giữa kỳ 2018, và nỗ lực thất bại của ông để khiến Roy Moore bị tố cáo hiếp dâm được bàu như một thượng nghị sĩ cho bang Alabama đã khiến ông trở nên ngớ ngẩn. Tỷ lệ chấp nhận của ông, chưa bao giờ rất cao, đã sụt xuống mức thấp nhất – tiết lộ rằng sự ủng hộ lõi cứng của ông đã khoảng 35 phần trăm cử tri. Tuy nhiên, đã có những dấu hiệu lên men cho cực hữu, với sự nổi lên của các nhóm QAnon và Proud Boys, một sự bùng phát của những cuộc tấn công và giết người của cực hữu, và một đống nhà thượng đẳng da trắng được chọn như các ứng viên Cộng hòa ở California, Bắc Carolina, Virginia và Illinois. Trump, bị cách ly trong văn phòng, đã dùng năng khiếu của ông cho những sự xuất hiện ngắn đột ngột của sự xúi giục lấp lửng của ông trên Twitter để tác động đến cơ sở của ông, kể cả với chiến dịch xúi giục chống lại ‘đội’ [Alexandria Ocasio-Cortez, Ilhan Omar, Ayanna Pressley, và Rashida Tlaib tại Hạ Viện] trong tháng Bảy 2019 mà đã báo trước Kulturkampf [đấu tranh văn hóa] của 2020. Để nhại lại ngôn ngữ Schmittian, chủ quyền twitter đã quyết định kẻ thù.
Trump bước vào năm 2020 sau khi chờ cuộc điều tra Mueller, và những cố gắng phế truất của đảng Dân chủ qua đi, đã ép sự bổ nhiệm Brett Kavanaugh vào Tòa án Tối cao và đã thấy tỷ lệ chấp thuận cá nhân của ông khôi phục từ 35 phần trăm lên mức cao 49 phần trăm. Một loạt định chế cánh hữu đã chuyển vào phe Trump, từ những người Bờ Tây theo [Leo] Strauss tại Viện Claremont [theo triết lý triết học hướng dẫn chính trị ngược với những người theo Strauss ở Bờ Đông tìm cách bảo vệ triết học khỏi chính trị], những người muộn hơn đã giúp soạn ‘1776 Report (Báo cáo 1776)’ dân tộc chủ nghĩa của Trump như một cú phản đòn với Black Lives Matter, với những người tân bảo thủ tại Hội nghị Hành động chính trị Bảo thủ (CPAC), một bộ đồ nghề Reaganite mà đã ưu ái Ted Cruz trong năm 2016. Ông hầu như đã không tạo ra ảnh hưởng trong lời hứa của ông về chủ nghĩa đế quốc dân tộc vạm vỡ, nhưng nền kinh tế có vẻ hoạt động khá tốt. Hầu hết cử tri, được thăm dò, nghĩ rằng Trump có lẽ sẽ thắng trong cuộc đấu sít sao với bất cứ ai được đảng Dân chủ đề cử.49 Và sau đó đại dịch nổ ra.
Ban đầu, phản ứng của Trump đã mâu thuẫn – coi thường ‘sự cuồng loạn’ Covid-19 như ‘trò lừa mới’ của những người Dân chủ, ông cũng đã mô tả đặc trưng virus như ‘cúm Trung quốc’ và cho rằng những người Dân chủ sẽ gây nguy hiểm cho cuộc sống Mỹ với ‘các biên giới mở’. Tiếng nhạc tâm trạng bên cánh hữu Mỹ ngay từ tháng Ba đã là mọi người thà chết cho tự do tư bản chủ nghĩa hơn là trải qua một cuộc phong tỏa làm hại nền kinh tế. Theo cách đó là Phó Thống đốc của tiểu bang Texas Dan Patrick, Brit Hume của Fox News, và Glenn Beck. Đối với Peggy Noonan của tờ Wall Street Journal, các công nhân ‘tiểu bang đỏ’, đã quen từ lâu với cuộc sống khó khăn, chịu đựng cái chết và nhưng vẫn lo về nền kinh tế, đã không cần sự phong tỏa từ ‘giai cấp trên’ chuyên nghiệp. Patrick Deneen, nhà thơ xoàng Công giáo của ‘chủ nghĩa bảo thủ giai cấp-lao động’ đồng ý: đó là ‘các elite’ bảo vệ cuộc sống quá mức đối lại ‘quần chúng’ yêu xác chết. Đối với Brett Stephens của New York Times, các biện pháp giãn cách-xã hội đã là ‘các quy tắc New York’. Cánh hữu tôn giáo đã thần thánh hóa sự ủng hộ Thanatos (bản năng chết) của họ. Nhà báo bình luận của tờ National Review Alexandra DeSanctis than khóc rằng chủ nghĩa thế tục đã sinh ra ‘một nỗi sợ quá mức về cái chết như cái ác cuối cùng’. R. R. Reno, nhà trí thức công giáo và biên tập viên của tờ First Things, đồng ý rằng cách ly xã hội là một ‘cuộc thập tự chinh không được suy ngẫm kỹ chống lại sự hữu hạn con người’, trong khi khẩu trang bị ‘ép buộc cho kẻ hèn nhát’.50
Trump, mặc dù khăng khăng rằng ông sẽ không bị ‘media dòng què quặt’ bắt nạt, đã không có khả năng kết nối ngay lập tức vào sự bốc đồng tự tử này. Ông đã không thể chấp nhận lập trường từ chối dứt khoát của Jair Bolsonaro hay phối hợp một sự tập trung quyền lực độc đoán theo cách của Narendra Modi. Với các doanh nghiệp Mỹ rơi vào suy thoái, ông đã miễn cưỡng buộc phải ủng hộ một sự phong tỏa ngắn và một gói kích thích kinh tế lớn. Những việc này, để thêm vào sự khó khăn, đã là các biện pháp phổ biến rộng rãi. Trump đã quay lại, ngay tức khắc, với lời rao hàng bán bất động sản của ông. Covid-19 sẽ hết vào tháng Tư, nhờ cái nóng. ‘Nó sẽ biến mất một ngày. Giống một phép màu.’51
Vì Trump đã không tự do để cai trị như ông muốn, ông đã dựa vào sự huy động cơ sở của mình để xây dựng quyền lực bên ngoài chính phủ. Ngay trong tháng Ba, đã có một hình mẫu kháng cự với các biện pháp an toàn Covid-19 địa phương. Trong các phần của Hoa Kỳ, được ủng hộ bởi một tầng lớp trung lưu rộng lớn, các cảnh sát trưởng và các công chức đã bỏ qua hay từ chối hợp tác với các quan chức ý tế công cộng. Các nhà hoạt động cánh-hữu và các thành viên dân quân đã hình thành một đội quân tiên phong phân tán phản đối những người ra lệnh phong tòa. Các nhà hoạt động đã hiên ngang và gửi các lời đe dọa giết các quan chức y tế công cộng ra lệnh phong tỏa, lên án họ ấp ủ một chương trình nghị sự cộng sản. Một nghiên cứu của Đại học Johns Hopkins đã thấy rằng 57 phần trăm của các sở y tế đã nhận được những lời đe dọa và sự quấy rầy. Các cuộc phản kháng có vũ trang tại các cuộc mít tinh tòa thị chính và công khai đã mang theo các phần tử của chủ nghĩa trả thù Reaganite, những người theo phái Phúc âm, các dân quân thượng đẳng da trắng, Proud Boys, Hội đồng Trao đổi Lập pháp Mỹ, FreedomWorks và các thành viên Nhà Trắng của Trump. Vào giữa-tháng Tư, khi số bị nhiễm ở đỉnh cao, Trump đã tuyên bố công khai ủng hộ những người phản kháng: ‘Hãy giải phóng Michigan!’, ‘Hãy giải phóng Minnesota!’, ‘Hãy giải phóng Virginia!’ Trump lại một lần nữa dùng chức vụ của ông để phổ biến và bắt đầu coi các nhóm và các ý tưởng hết sức thiểu số như dòng chính.52
Trong tháng Năm, đất nước bị lôi kéo vào phong trào phản kháng lớn nhất chưa từng có về việc cảnh sát kỳ thị chủng tộc giết George Floyd. Nó đã là một phong trào bất bạo động áp đảo: 93 phần trăm các cuộc biểu tình đã hoàn toàn yên bình. Nhưng đã có sự ủng hộ công khai rộng rãi ban đầu cho một số hành động bạo lực biểu tượng: một cuộc thăm dò tìm thấy rằng 54 phần trăm người Mỹ tin việc đốt phân khu cảnh sát Minneapolis được biện minh. Điều này, một phong trào chống-phân biệt chủng tộc bình dân mang theo công luận với nó, và thách thức nền tảng của chính trị luật-và-trật tự, là một diễn tiến cực kỳ đe dọa cho cánh hữu Mỹ. Trump cần tiếp sinh lực lại cho sự sợ hãi xã hội về sự mất trật tự da đen. Ông đã bắt đầu cảnh cáo sớm: ‘khi sự cướp bóc bắt đầu, sự nổ súng bắt đầu’ – một cụm từ với một loại phân biệt chủng tộc cũ rõ ràng trong chính trị Hoa Kỳ.53
Sau khi đã hoan hô các đội viên dân phòng cánh hữu có vũ trang phản kháng sự phong tỏa, ông đang tìm cùng các dân quân để tuần tra các cuộc biểu tình. Họ đã làm điều này, thường với sự biết ơn của cảnh sát. Tại Kenosha, Wisconsin, cảnh sát được ghi lại cảm ơn các dân quân: ‘Chúng tôi đánh giá cao sự có mặt của các bạn ở đây.’ Một số dân quân, như nhóm Utah Citizens’ Alarm (Cảnh báo của các Công dân Utah) có 15.000-thành viên mạnh, được hình thành hầu như qua một đêm qua media xã hội. Tiếp sau, như một kết quả, là hàng tháng của những sự kiện đẫm máu và khó tin. Các nhà hoạt động, mà đã quen với sự phản ứng cảnh sát thường xuyên bạo lực, cũng đã phải đối phó với việc bị đâm, bị bắn hay bị xe cán trong một trong hàng tá cuộc tấn công bằng xe của các nhà hoạt động cực-hữu rõ ràng lấy gợi ý của họ từ kẻ giết cô Heather Heyer. Sói đơn độc đã trở thành shitstorm có vũ trang. Sự săn phù thủy được kết nối mạng đã bùng nổ trong thế giới thực.
Trong sự cực đoan hóa lẫn nhau này, đó là bước tiếp theo của chính quyền Trump. Nó phải được thấy ở bên của shitstorm có vũ trang. Chẳng bao lâu, bằng việc tố cáo các chính quyền Dân chủ không muốn áp đặt luật và trật tự, Trump đã bổ sung lực lượng bán quân sự ad hoc trên đường phố bằng các lực lượng bán quân sự liên bang được Bộ Nội an phái đến.* Với sự tức giận kinh ngạc của các nhà chức trách địa phương, họ bắt đầu bắt cóc những người biểu tình Black Lives Matter. Chiến lược của chính quyền về bổ sung bạo lực dân phòng được minh họa bởi việc hành quyết hoàn toàn phi pháp nhà hoạt động ‘antifa’ Michael Reinoehl, được Trump mô tả như ‘sự báo thù’ cho việc Reinoehl bị cho là giết Aaron Danielson thành viên của Patriot Prayer.54
Và sau đó, cánh hữu báo thù tìm thấy anh hùng dân gian của họ. Trong tháng Tám 2020, một dân phòng trẻ từ Illinois, Kyle Rittenhouse, đã đến Kenosha với một súng kiểu AR-15, đã bắn chết hai người biểu tình và làm bị thương một người. Rittenhouse ngay lập tức trở thành chàng trai poster của bạo lực cứu chuộc cho cánh hữu Mỹ. Trump đã bảo vệ anh ta, cánh hữu Kitô giáo đã quyên tiền cho sự bảo vệ pháp lý của anh ta, mẹ anh được chào đón tại các sự kiện Cộng hòa, và các nhà báo cánh-hữu như Tucker Carlson và Ann Coulter đã ca ngợi anh ta vì những cố gắng của anh ta để bảo vệ công chúng khỏi bọn thấp hèn cánh tả. ‘Tôi muốn anh ta là tổng thống của tôi,’ Coulter nói. Nhà Trắng chỉ thị Bộ Nội An đồng cảm với Rittenhouse trong các tuyên bố công khai. Rittenhouse, như một dân phòng trẻ, da trắng, thuộc tầng lớp trung lưu và sáng sủa, đã nhân cách hóa sự tự-vệ vô tội của những người Mỹ bảo thủ chống lại một kẻ ‘Marxist’ đê tiện, ‘khủng bố’ mà cảnh sát đã không có khả năng khống chế. Có lẽ nó cũng đã giúp, về mặt chính trị, rằng các nạn nhân của anh ta đã không phải là những người da đen – không giống đa số những người bị giết trong các cuộc biểu tình. Chiến dịch bầu cử cộng hòa, được tiếp sinh lực, được xoay trục sang một sự bảo vệ toàn diện cho công chúng có vũ trang như tuyến bảo vệ cuối cùng của trật tự chống lại sự hỗn loạn. Sau khi đã vận động trong 2016 về tuyên bố cơ bản đúng rằng Clinton là một người có hiểu biết sâu sắc về hoạt động của chính phủ Hoa Kỳ và đã không quan tâm đến những người Mỹ giai cấp-lao động, Trump đã xoay trục tới việc cho rằng những người Dân chủ thực sự bị những người cộng sản vận hành tìm cách phá hủy nước Mỹ.55
Cánh hữu Mỹ bị bạo lực của chính nó kích thích. Một chức tổng thống trôi dạt đột nhiên trở thành tiêu điểm. Cái đã chia rẽ cánh hữu trong 2017 đã thống nhất nó trong 2020. Mùa hè của bạo lực chống-lật đổ đã là một điều kiện cần cho cơn mê sảng ‘Ngừng Ăn cắp’ mà đã tiếp sau và mưu toan đảo chính mềm của Trump, được chứng minh bằng tư liệu bởi Ủy ban 6 tháng Giêng. Trump đã biết ông có thể dựa vào một cơ sở được huy động, kêu gọi các nhà hoạt động để theo dõi các phòng phiếu tìm bằng chứng về một sự thao túng: một lời kêu gọi được chú ý thích đáng bởi các neo-Nazi và Proud Boys, và bởi các đội viên dân phòng có vũ trang đe dọa xuống các trạm bỏ phiếu. Sau khi ông thua Joe Biden, Trump đã có thể dựa vào các làn sóng biểu tình bịp bợm và một chiến dịch đe dọa đánh bom giết các chính trị gia và các viên chức bầu cử, như ông đã gây áp lực lên một số quan chức để ‘tìm’ cho ông số phiếu ông cần hay để không xác nhận chiến thắng của Biden, đòi Bộ Tư pháp nói ‘cuộc bầu cử đã thối nát và để phần còn lại cho tôi’, và đã phát triển các kế hoạch cùng với những đồng minh liên kết với lực lượng dân quân Oath Keepers cho các sắc lệnh hành pháp chỉ thị quân đội để tịch thu các máy bỏ phiếu. Các liên minh hình thành giữa Nhà Trắng và các lực lượng dân quân cực-hữu trong mùa hè và mùa thu đảm bảo rằng khi Trump kêu gọi một ‘cuộc biểu tình lớn’ ở Washington, DC vào ngày 6 tháng Giêng 2021, các đồng minh thân thiết của ông có thể dựa vào những mối tiếp xúc trực tiếp với Oath Keepers và Proud Boys để giúp điều phối các sự kiện vào ngày đó. Việc này cho Trump sự tự tin để bỏ qua những lời cảnh cáo lặp đi lặp lại về bạo lực vũ trang, biết rằng ‘họ ở đây không phải để làm tổn thương tôi’.56 Nếu việc này thành công, nếu Trump giữ được quyền lực bất chấp bị đánh bại, thì các kẻ thù của ông sẽ bị suy yếu chí tử. Nếu nó thành công, thì Reich (Đế chế) năm mươi năm của Bannon rốt cuộc đã có thể trở thành hiện thực.
Cuối cùng, ‘cuộc khởi nghĩa’ đã là một sự với quá. Thật mỉa mai, lại rơi vào người kế nhiệm của ông để thực hiện một phiên bản của chính sách công nghiệp dân tộc chủ nghĩa của ông mà Trump đã không có khả năng thực hiện (mặc dù dựa vào cơ sở tư bản-xanh hơn là tư bản-hóa thạch công khai), tăng tốc chiến tranh thương mại của ông với Trung Quốc và yên lặng duy trì các định hướng chính sách đối ngoại của ông liên quan đến Trung Đông (các Thỏa ước Abraham cộng Jerusalem như ‘thủ đô’ của Israel), đến Afghanistan (rút quân) và đến tiểu lục địa Ấn Độ. Nhưng như một cuộc tấn công cánh hữu trực tiếp chống lại tính hợp pháp, nó vẫn có thể chứng tỏ là một bước đột phá biểu tượng so sánh được với cuộc diễu hành cựu chiến binh cực-hữu vào quốc hội Pháp trong năm 1934, hay gần đây hơn với sự phá hủy thánh đường Babri Masjid bởi các chiến binh BJP và RSS trong năm 1992. Bây giờ, cuộc khởi nghĩa đã gây thiệt hại đáng kể cho cánh vũ trang của cánh hữu Mỹ, vì các lãnh đạo đã bị bỏ tù và toàn bộ các tăng hội và chi nhánh của các phong trào dân quân bị đóng cửa. Tuy vậy, vào 2022, ngay cả khi các lực lượng dân quân bị suy yếu, số các nhóm không-dân quân cánh hữu đã tăng vọt, như sự tuyên truyền thượng đẳng da trắng và tội ác thù hận đã tăng trong các thành phố lớn. Hàng chục ngàn ‘nhà quan sát bầu cử’, có thể được thuyết phục rằng Trump đã thắng cuộc bầu cử 2020, đang được những người Cộng hòa huấn luyện để xuống các trạm bỏ phiếu.57
‘Hệ thống giữ vững, nhưng chỉ ở mức thấp nhất,’ Dân biểu Adam Schiff nói, phát biểu cho Ủy ban 6 tháng Giêng.58 Đấy rất có thể là một mô tả mẫu mực về trạng thái của nền dân chủ đương thời. Vì nếu một hệ thống dân chủ hầu như không đứng vững đối lại một nhóm mị dân cực-hữu không được biết đến vì năng lực của họ, và một phong trào sơ sinh rõ ràng không được chuẩn bị cho quyền lực, thì làm sao nó có thể tồn tại chống lại một đối thủ phát triển và gắn kết hơn? Nếu hệ thống hầu như không giữ vững, thì nhu cầu cho sự thay đổi hệ thống không thể rõ ràng hơn. Nếu không có gì khác, cần sự thay đổi đủ để rút cạn các nguồn lực của sự cực đoan hóa cực-hữu. Thế nhưng chính quyền mới đã tồn tại chính xác để tránh sự thay đổi hệ thống. Và nó chẳng bao lâu thấy bản thân mình liên minh với cánh hữu cộng hòa và trong sự đồng lõa công khai, toàn tâm toàn ý với một chính phủ cực-hữu khi nó bắt tay vào sự diệt chủng.
- SHITSTORM CÓ VŨ TRANG: CHỦ NGHĨA DÂN TỘC GIẾT NGƯỜI
- 1. Được trích trong Chetan Bhatt, Hindu Nationalism: Origins, Ideologies and Modern Myths, Berg, New York, 2001, p. 106.
- 2. Parvis Ghassem-Fachandi, Pogrom in Gujarat: Hindu Nationalism and Anti-Muslim Violence in India, Princeton University Press, Princeton and Oxford, 2012, p. 75; Crime against Humanity, Volume II: An Inquiry into the Carnage in Gujarat, Findings and Recommendations, Concerned Citizens Tribunal – Gujarat, 2002, pp. 40–1; Eamon Murphy, ‘“We have no orders to save you’: State terrorism, politics and communal violence in the Indian state of Gujarat, 2002’, trong Richard Jackson, Eamon Murphy and Scott Poynting, eds, Contemporary State Terrorism: Theory and practice, Routledge, London and New York, 2010, p. 87.
- 3. Tanika Sarkar, ‘Semiotics of Terror: Muslim Children and Women in Hindu Rashtra’, Economic and Political Weekly, 13 July 2002, pp. 2872–6; Martha Nussbaum, The Clash Within: Democracy, Religious Violence, and India’s Future, Harvard University Press, Cambridge, MA and London, 2007, p. 186; Tanika Sarkar, ‘Violent and Violated Women in Hindu Extremist Politics’, trong Wendy Doniger and Martha C. Nussbaum, eds, Pluralism and Democracy in India: Debating the Hindu Right, Oxford University Press, Oxford and New York, 2015, p. 292; Achin Vanaik, ‘India’s Two Hegemonies’, New Left Review 112 (July/August 2018); Barbara Ehrenreich, introduction to Theweleit, Male Fantasies, p. xiv.
- 4. ‘Godhra train fire accidental: Banerjee report’, Times of India, 4 March 2006; Crime against Humanity, Volume I: An Inquiry into the Carnage in Gujarat: List of Incidents and Evidence, Concerned Citizens Tribunal – Gujarat, 2002, 23–5; Ruth Baldwin, ‘Gujarat’s Gendered Violence’, Nation, 16 September 2002; Paul R. Brass, The Production of Hindu-Muslim Violence in Contemporary India, University of Washington Press, Seattle and London, 2003, p. 388; Ashutosh Varshney, ‘Understanding Gujarat Violence’, Items, Social Sciences Research Council, 3 March 2020.
- 5. Những người hưởng lợi khác đã có thể gồm các doanh nhân Hindu giàu được biết đến để lấy tài sản bị bỏ trống của những người Muslim sau đó, hoặc lợi dụng thảm họa để bóc lột các công nhân bị trạng thái hỗn loạn và lệnh giới nghiêm làm cho bấp bênh. Một số kẻ tội phạm được cho là được trả tiền để đâm người trong bạo loạn cộng đồng, đôi khi như một dấu hiệu cho cuộc tấn công tập thể để bắt đầu. Raheel Dhattiwala, Keeping the Peace: Spatial Differences in Hindu–Muslim Violence in Gujarat in 2002, Cambridge University Press, Cambridge, 2019, chapter 3; R. Dhattiwala and M. Biggs, ‘The Political Logic of Ethnic Violence: The Anti-Muslim Pogrom in Gujarat, 2002’, Politics and Society 40: 4 (2012), pp. 483–516; Rana Ayyub, Gujarat Files: Anatomy of a Cover Up, 2016 Kindle loc. 93–107; Dexter Filkins, ‘Blood and Soil in Narendra Modi’s India’, New Yorker, 9 December 2019; Sriya Iyer and Anand Shrivastava, ‘Religious riots and electoral politics in India’, Journal of Development Economics, Volume 131, March 2018, pp. 104–22; Paul R. Brass, Forms of Collective Violence: Riots, Pogroms, Genocide in Modern India, Three Essays Collective, 2005, pp. 3–5; Suhani Singh, ‘Narendra Modi is India’s most eligible bachelor, says Mallika Sherawat’, India Today, 9 September 2013; Lhendup G. Bhutia, ‘The Modi hotness quotient’, Open, 15 May 2014; ‘Bush White House was against denying visa to Modi in 2005: Ex deputy NSA’, Hindustan Times, 23 July 2016; A. Patel, D. Padgaonkar, and B. G. Verghese, Ordeal by Fire in the Killing Fields of Gujarat: Editors Guild Fact Finding Mission Report, Editors Guild of India, 2002; Modi’s speech được trích trong Ritika Popli, ‘The Politics of Remembering and Forgetting: The Gujarat Development Model and the 2002 Gujarat Pogrom’, Southern Communication Journal, 2021.
- 6. Brass, The Production of Hindu-Muslim Violence in Contemporary India, pp. 207–8 and 278–9; Leon Trotsky, 1905, Haymarket, Chicago, IL, 2017, p. 113; bản dịc được trích, mà tôi thích hơn, được thấy trong Arthur Rosenberg, ‘Fascism as a Mass Movement (1934)’, Historical Materialism 20: 1 (2012), pp. 144–89.
- 7. Leonard Weinberg, Right-Wing Violence in the Western World Since World War II, World Scientific, New Jersey and London, 2021, p. 96.
- 8. Pedro Mathias and Mariana Mouro, ‘Irmão diz que apoiador de Lula assassinado por bolsonarista era “alegre, tranquilo e brincalhão”: “Ele não era fanático”’, G1, 9 September 2022; Bruno Paes Manso, ‘A ligação do clã Bolsonaro com paramilitares e milicianos se estreitou com a eleição de Flávio’, El País, 24 April 2021; Guilherme Boulos, ‘Armed Bolsonaro Supporters Are Threatening Their Opponents. I Was One of Them’, Time, 16 September 2022; Glenn Greenwald and Victor Pougy, ‘Video: As Brazil’s Jair Bolsonaro Prepares to Meet Donald Trump, His Family’s Close Ties to Notorious Paramilitary Gangs Draw Scrutiny and Outrage’, Intercept, 18 March 2019; Andrea Downie, ‘Brazil: Killing of Lula’s party treasurer raises fears of violent run-up to election’, Guardian, 15 July 2022; Tom Phillips, ‘“Bolsonaro promotes hatred”: Violence stalks run-up to crucial Brazil election’, Guardian, 15 September 2022; Tom Phillips, ‘“They were in ecstasy”: How Bolsonaro mob’s orgy of violence rocked Brasília’, Guardian, 9 January 2023; Ueslei Marcelino and Victor Borges, ‘Supporters of Brazil’s defeated Bolsonaro attack police headquarters’, Reuters, 13 December 2022; ‘Political Violence During Brazil’s 2022 General Elections’, ACLED, 17 October 2022.
- 9. Orly Noy, ‘The pogrom is the point’, +972 Magazine, 27 February 2023; Andrew Stroehlein, ‘A “Pogrom” in Palestine’, Human Rights Watch Daily Brief, 1 March 2023; ‘Israel/OPT: Settler violence in Huwara is “ugly reality” of Israeli apartheid’, Amnesty International UK press release, 3 May 2023; Yuval Ibrahim, ‘Joint militias: How settlers and soldiers teamed up to kill four Palestinans’, +972 Magazine, 15 July 2021; ‘The Turmusaya Pogrom: Settlers and soldiers attacked residents. A special police force killed a Palestinan youth’, B’TSelem, 24 August 2023; ‘The pogroms deliver: Another Palestinan community was forcibly transferred yesterday’, B’TSelem, 11 July 2023.
- 10. Shira Rubin, ‘Emboldened by Israel’s far right, Jewish settlers fan the flames of chaos’, Washington Post, 28 February 2023; ‘Israeli attack wounds Palestinans as settlers and soldiers dance’, Al Jazeera, 7 Match 2023; Chen Maanit and Ben Samuels, ‘Palestinan “Village of Hawara Needs to Be Wiped Out”: Israel’s Far-right Finance Minister Justifies “Disproportionate” Response to Terrorism’, Haaretz, 1 March 2023; ‘Israeli minister warns of Palestinan “holocaust”’, Guardian, 29 April 2008.
- 11. Michael J. Pfeifer, Global Lynching and Collective Violence: Asia, Africa, and the Middle East Volume I, University of Illinois Press, Chicago and Springfield, 2017, pp. 9–12; Stephen P. Frank, ‘Unofficial Justice and Community in Rural Russia, 1856–1914’, trong Michael J. Pfeifer, Global Lynching and Collective Violence: The Americas and Europe, Volume II, University of Illinois Press, Chicago and Springfield, 2017; Nicholas Rush Smith, ‘New Situations Demand Old Magic: Necklacing in South Africa, Past and Present’, trong Michael J. Pfeifer, Global Lynching Volume II; Uğur Ümit Üngör, Paramilitarism: Mass Violence in the Shadow of the State, Oxford University Press, Oxford and New York, 2020, pp. 24–5; Richard Saull, Capital, Race and Space, Volume I: The Far Right from Bonapartism to Fascism, Studies in Critical Social Sciences, Volume 245, Brill, Leiden, 2023.
- 12. John Doyle Klier and Shlomo Lambroza, eds, Pogroms: Anti-Jewish Violence in Modern Russian History, Cambridge University Press, 1992, pp. 225–31; George L. Mosse, Fallen Soldiers: Reshaping the Memory of the World Wars, Oxford University Press, Oxford and New York, 1990, pp. 3–11; Leonard Weinberg, Right-Wing Violence in the Western World Since World War II, World Scientific, New Jersey and London, 2021, Kindle loc. 774–80; Daniel Siemens, Stormtroopers: A New History of Hitler’s Brownshirts, Yale University Press, New Haven, CT, 2017, pp. xxxix, 8 and 9; Mann, Fascists, Kindle loc. 285–9.
- 13. Edward Weisband, The Macabresque: Human Violation and Hate in Genocide, Mass Atrocity, and Enemy-Making, Oxford University Press, Oxford and New York, 2018, p. 4, 10–15; Giulia Albanese, The March on Rome: Violence and the Rise of Italian Fascism, Routledge, London and New York, 2019, p. x; Daniel Siemens, Stormtroopers, pp. xiv–xv; về việc cấm sự tàn bạo vô cớ và tính dai dẳng của nó bất chấp những khó khăn chiến lược nghiêm trọng nó gây ra, xem Raul Hilberg, The Destruction of the European Jews, Volume I, Holmes and Meier, New York and London, 1985, pp. 326–7.
- 14. Aristotle A. Kallis, Fascism and Genocide: The Eliminationist Drive in Fascist Europe, Routledge, London and New York, 2009, p. 47.
- 15. Theodor Adorno, Else Frenkel-Brunswik, Daniel J. Levinson, et al., The Authoritarian Personality, Verso, London and New York, 2019, Kindle loc. 17549–63; Ian Kershaw, The End: Germany, 1944-45, Penguin, New York, 2011; Dan Stone, The Holocaust: An Unfinished History, Penguin, New York, 2023, p. xxxix; Goebbels được trích trong Mark B. Salter, Barbarians and Civilization in International Relations, Pluto Press, London and Sterling, VA, 2002, p. 110; Gilles Deleuze and Félix Guattari, A Thousand Plateaus: Capitalism and Schizophrenia, University of Minnesota Press, Minneapolis, MN, 1987, pp. 230–1.
- 16. Ugo Palheta, ‘Fascism, Fascisation, Antifascism’, Historical Materialism, 7 January 2021.
- 17. Otto Dov Kulka, ‘Popular Opinion in Nazi Germany as a Factor in the Policy of the “Solution of the Jewish Question”: The Nuremberg Laws and the Reichskristallnacht’, in German Jews in the Era of the ‘Final Solution’: Essays on Jewish and Universal History, De Gruyter Oldenbourg, Magnes, 2020; Ian Kershaw, ‘Consensus, Coercion and Popular Opinion in the Third Reich: Some Reflections’, trong Paul Corner, ed., Popular Opinion in Totalitarian Regimes: Fascism, Nazism, Communism, Oxford University Press, Oxford and New York, 2009; Robert Gellately, Backing Hitler: Consent and Coercion in Nazi Germany, Oxford University Press, Oxford and New York, 2001, Kindle loc. 763.
- 18. Geoff Eley, Nazism as Fascism: Violence, Ideology, and the Ground of Consent in Germany, 1930-1945, Routledge, London and New York, 2013, pp. 36–58; Ian Kershaw, ‘Consensus, Coercion and Popular Opinion in the Third Reich: Some Reflections’, trong Paul Corner, ed., Popular Opinion in Totalitarian Regimes: Fascism, Nazism, Communism, Oxford University Press, Oxford and New York, 2009; Paul Corner, The Fascist Party and Popular Opinion in Mussolini’s Italy, Oxford University Press, Oxford, 2012; Paul Corner, ‘Fascist Italy in the 1930s: Popular Opinion in the Provinces’, trong Paul Corner, ed., Popular Opinion in Totalitarian Regimes: Fascism, Nazism, Communism, Oxford University Press, Oxford and New York, 2009.
- 19. Richard Grunberg, A Social History of the Third Reich, Weidenfeld and Nicholson, London, 1971, p. 36; Thomas Kühne, Belonging and Genocide: Hitler’s Community, 1918–1945, Yale University Press, New Haven and London, 2010, p. 1.
- 20. Faiza Patel, ‘Ending the “National Security” Excuse for Racial and Religious Profiling’, Brennan Center for Justice, 22 July 2021; Fahid Qureshi, ‘The Prevent strategy and the UK “war on terror”: embedding infrastructures of surveillance in Muslim communities’, Palgrave Communications 4, article number 17 (2018); ‘Burqa ban passes French lower house overwhelmingly’, CNN, 13 July 2020; ‘France: Abuses Under State of Emergency’, Human Rights Watch, 3 February 2016; ‘When a Temporary State of Emergency becomes Permanent: France as a Case Study’, Transnational Institute, Amsterdam, November 2020.
- 21. ‘Bush White House was against denying visa to Modi in 2005: Ex deputy NSA’, Hindustan Times, 23 July 2016.
- 22. Manoj Mitta, Modi and Godhra: The Fiction of Fact Finding, HarperCollins, New York, 2014; Manoj Mitta, ‘“Preplanned inhuman collective violent act of terrorism”: What Modi got away with in the Godhra case’, Scroll, 27 February 2017.
- 23. Chetan Bhatt, ‘Them Again’, Outlook India, 5 February 2022; ‘India: No justice yet for police killings in Gujarat’, Amnesty International, 1 December 2011; Harsh Mander, ‘The Many Deaths of Ishrat Jahan’, Wire, 26 May 2016.
- 24. Ravinder Kaur, Brand New Nation: Capitalist Dreams and Nationalist Designs in Twenty-First-Century India, Stanford University Press, Stanford, CA, 2020, pp. 8–16.
- 25. ‘Congress advertisement in Gujarat praises Narendra Modi!’, India Today, 27 January 2012; ‘Rajiv Gandhi Foundation finds Gujarat No 1 state’, Economic Times, 21 May 2005; ‘Congress leader praises Gujarat model’, Deccan Herald, 16 August 2013; R. Nagaraj and Shruti Pandey, ‘Have Gujarat and Bihar Outperformed the Rest of India?’, Economic and Political Weekly 48: 39 (28 September 2013); Maitreesh Ghatak Sanchari Roy, ‘Did Gujarat’s Growth Rate Accelerate under Modi?’, Economic and Political Weekly 18: 15 (12 April 2014); Indira Hirway, ‘The Truth Behind the Gujarat Growth Model’, Wire, 8 December 2017; Mohan Guruswamy, ‘Myth of the Gujarat model miracle’, Observer Research Foundation, 13 February 2013.
- 26. Ishani Duttagupta, ‘Barack Obama’s call to Narendra Modi signals US willingness to work with him’, Economic Times, 22 May 2014; ‘President Obama Invites Narendra Modi to the U.S. Despite Visa Ban under Religious Freedom Law’, Reuters, 20 May 2014; Justin Worland, ‘Narendra Modi Wins Reader Poll for TIME Person of the Year’, Time, 8 December 2014; ‘India’s strongman’, Economist, 22 May 2014; Emma Agyemang, ‘Why India Is Worth It’, Investor’s Chronicle, 23 March 2017.
- 27. M. N. Parth, ‘“It was his birthday”: Muslim lynched over beef in western India’, Al Jazeera, 20 June 2023; Cecilia Jacob and Mujeeb Kanth, ‘“Kill Two Million of Them”: Institutionalised Hate Speech, Impunity and 21st Century Atrocities in India’, Global Responsibility to Protect, 9 March 2023; K. N. Ninan, ‘Poverty, inequality have risen in the Modi years’, Deccan Herald, 3 November 2022; Jayati Ghosh, ‘Hindutva, Economic Neoliberalism and the Abuse of Economic Statistics in India’, Samaj 24/25, 2020; S. Chowdhury, ‘Economics and politics under Modi government: A synoptic view’, Human Geography 16: 2 (2023), pp. 146–61; ‘The Rising Discrepancies in Indian GDP Data Point to a False Growth Story, Say Experts’, Wire, 7 September 2023.
- 28. Hannah Ellis-Petersen, ‘Inside Delhi: beaten, lynched and burnt alive’, Observer, 1 March 2020.
- 29. Fahad Shah, ‘“The Government Has Done This”: Inside India’s Muslim Pogrom’, Nation, 5 March 2020; Hannah Ellis-Petersen, ‘Inside Delhi: beaten, lynched and burnt alive’, Guardian, 1 March 2020; ‘Delhi Riots Began With Kapil Mishra’s Speech, Yet No Case Against Him: Minority Commission Report’, Wire, 16 July 2020; Ravi Agrawal, ‘Delhi’s Violence Could Presage Something Far Worse’, Foreign Policy, 3 March 2020; Samantha Subramanian, ‘How the Indian Government Watched Delhi Burn’, New Yorker, 27 February 2020; Delhi Violence 2020: Chronology of Events, Foundation the London Story 11/1/20; Delhi Minority Commission, ‘Report of the DMC fact-finding Committee on North-East Delhi Riots of February 2020’, 27 June 2020; ‘“Shoot the Traitors”: Discrimination Against Muslims under India’s New Citizenship Policy’, Human Rights Watch, April 2020; Amnesty International India, ‘India: Six Months Since Delhi Riots, Delhi Police Continue To Enjoy Impunity Despite Evidence Of Human Rights Violations’, Amnesty International India, 28 August 2020; Hate Speech And Delhi Pogrom 2020, Hindutva Watch, 5 September 2023; Newley Purnell and Jeff Horwitz, ‘Facebook Services Are Used to Spread Religious Hatred in India, Internal Documents Show’, Wall Street Journal, 23 October 2021; Mujib Mashal, Suhasini Raj and Hari Kumar, ‘As Officials Look Away, Hate Speech in India Nears Dangerous Levels’, New York Times, 8 February 2022; ‘India transformed in less than a decade; different from 2013’, Times of India, 31 May 2023; Michael Mitsanas and Zoë Richards, ‘Biden hosts Indian Prime Minister Modi at White House’, ABC News, 22 June 2023.
- 30. Eviane Leidig and Cas Mudde, ‘Bharatiya Janata Party (BJP): The overlooked populist radical right party’, Journal of Language and Politics 22: 3 (June 2023), pp. 360–77; Arman Bhatnagaar, ‘In 10 charts: How BJP became world’s largest political party’, Times of India, 6 April 2022.
- 31. Karl Romano and Luis Liwanag, ‘UN, Rights Groups Slam Duterte Over Statement on Extrajudicial Killings’, BenarNews, 28 September 2018; Camille Elemia, ‘EXPLAINER: Duterte’s high ratings despite poor COVID-19 response’, Rappler, 5 October 2020; Richard Javad Heydarian, ‘Why Duterte is the world’s most popular leader’, Asia Times, 9 October 2020; Arianne Merez, ‘Almost half of Pinoys satisfied with Duterte’s coronavirus response: online poll’, ABS-CBN News, 8 May 2020; Llanesca T. Panti, ‘92% of Pinoys approve of Duterte’s actions vs. COVID-19 spread’, GMA News, 8 October 2020; John Reed, ‘Duterte maintains firm support despite mishandling of Covid-19’, Financial Times, 28 January 2021; Ronald D. Holmes, ‘Who Supports Rodrigo Duterte?’, in Curato, ed., Duterte Reader, p. 43; Ronald U. Mendoza and Tristan Canare, ‘Herd Behavior and Approval Bubbles: A Closer Look at Duterte’s Popularity’, Diplomat, 29 January 2020; Jayson S. Lamchek, ‘Mandate for Mass Killings? Public Support for Duterte’s War on Drugs’, trong Curato, ed., Duterte Reader, p. 106.
- 32. Yascha Mounk and Roberto Foa, ‘The Danger of Deconsolidation: The Democratic Disconnect’, Journal of Democracy 27: 3 (July 2016), pp. 5–17.
- 33. Hyung Jun You, ‘The Philippines Mystery: Rodrigo Duterte’s Popularity’, Cornell International Affairs Review 11, Spain, 2018.
- 34. Hyung Jun You, ‘The Philippines Mystery: Rodrigo Duterte’s Popularity’, Cornell International Affairs Review 11, Spain, 2018; Pauline Eadie, ‘The Philippines, Duterte, and the Undeserving Poor’, The Asia Dialogue, 21 February 2017.
- 35. Duncan McCargo, ‘Duterte’s Mediated Populism’, Contemporary Southeast Asia 38: 2, pp. 185–90.
- 36. Ninotchka Rosca, ‘Duterte: Nada in the Heart of Bluster’, Vijay Prashad ed., Strongmen, p. 111; Julio C. Teehankee, ‘Was Duterte’s Rise Inevitable?’, trong Curato, ed., Duterte Reader, p. 32
- 37. Miriam Grace, ‘Despite huge margin, Duterte sweeps only 3 regions’, The Grappler, 11 May 2016; Hyung Jun You, ‘Philippines Mystery’; Christina Mendez, ‘Rody’s job offer to OFWs: Kill drug addicts’, Philippine Star, 17 April 2017.
- 38. Phelim Kine, ‘The Philippines’ Duterte Incites Vigilante Violence’, Human Rights Watch, 19 April 2017; ‘Philippines: Officials “Red-Tagging” Indigenous Leaders, Activists’, Human Rights Watch, 26 January 2023; ‘Philippines: Sharp rise in “vigilante” killings as human rights activist’s death remains unsolved’, Amnesty International, AI Asia-Pacific website, February 2005; Peter Kreuzer, ‘“If they resist, kill them all”: Police Vigilantism in the Philippines’, Peace Research Institute Frankfurt, PRIF Report No. 142, 2016.
- 39. ‘Report on Investigations Related to the Anti-Illegal Drug Campaign (with Analysis on Regions NCR, III, and IV–A)’, Republic of the Philippines, Commission on Human Rights, September 2021; ‘“License to Kill”: Philippine Police Killings in Duterte’s “War on Drugs”’, Human Rights Watch, 2 March 2017; Jayson S. Lamchek, ‘Mandate for Mass Killings? Public Support for Duterte’s War on Drugs’, in Curato, ed., Duterte Reader, p. 113.
- 40. Richard Bernstein, ‘The Paradox of Rodrigo Duterte’, Atlantic, 23 February 2020.
- 41. Pia Ranada, ‘Duterte to businessmen: Davao City is my Exhibit A’, Rappler, 14 January 2016.
- 42. ‘Situation of human rights in the Philippines’, Annual report of the United Nations High Commissioner for Human Rights and reports of the Office of the High Commissioner and the Secretary-General, 29 June 2020; Georgi Engelbrecht, ‘Philippines: The International Criminal Court Goes After Duterte’s Drug War’, International Crisis Group, 17 September 2021; ‘A bloody trail: People we lost under Duterte’, Rappler, 21 December 2021.
- 43. Được trích trong Vegas Tenold, ‘When the White Nationalists Came to Washington’, New Republic, 23 January 2017.
- 44. Samantha Subramanian, ‘How the Indian Government Watched Delhi Burn’, New Yorker, 27 February 2020; Anik Joshi, ‘Trump Doesn’t Love Modi Back’, Foreign Policy, 28 July 2020.
- 45. Paxton had previously cautioned against characterising Trump as a fascist. Robert O. Paxton, ‘American Duce’, Harper’s, May 2017; ông đã công khai rút lại trong Robert O. Paxton, ‘I’ve Hesitated to Call Donald Trump a Fascist. Until Now’, Newsweek, 11 January 2021.
- 46. Amber Phillips, ‘“They’re rapists.” President Trump’s campaign launch speech two years later, annotated’, Washington Post, 26 June 2016; Trump ban đầu ‘đã từ chối’ sự ủng hộ của Duke nhưng, ngẫm nghĩ lại, quyết định ông đã không biết đủ để làm vậy, bất chấp trước đó đã biểu lộ sự hiểu biết hoàn hảo về dòng dõi của Duke – rằng Trump đã trực cảm đúng rằng sự ủng hộ của Duke sẽ không làm hại ông. ‘Trump declines to denounce David Duke and the KKK’, CBS Evening News, 28 February 2016; Louis Nelson, ‘Steve Bannon hails Trump’s “economic nationalist” agenda’, Politico, 18 November 2018; ‘Ten Days After: Harassment and Intimidation in the Aftermath of the Election’, Southern Poverty Law Center, 29 November 2016; Katayoun Kishi, ‘Assaults against Muslims in U.S. surpass 2001 level’, Pew Research Center, 15 November 2017.
- 47. Vegas Tenold, ‘When the White Nationalists Came to Washington’, New Republic, 31 January 2017; Aaron Blake, ‘Stephen Miller’s authoritarian declaration: Trump’s national security actions “will not be questioned”’, Washington Post, 13 February 2017.
- 48. Jeff Stein, ‘Trump’s 2016 campaign pledges on infrastructure have fallen short, creating opening for Biden’, Washington Post, 18 October 2020; Rosie Gray, ‘Trump Defends White-Nationalist Protesters: “Some Very Fine People on Both Sides”’, Atlantic, 15 August 2017; Dylan Riley, ‘What is Trump?’, New Left Review 114 (November/December 2018); Cristiana Lima, ‘Bannon: “Trump presidency that we fought for, and won, is over”’, Politico, 18 August 2017.
- 49. Elizabeth Zerofsky, ‘How the Claremont Institute Became a Nerve Center of the American Right’, New York Times, 3 August 2022; ‘The 1776 Report: The President’s Advisory 1776 Commission’, Claremont Institute, January 2021; Laura K. Field, ‘What the Hell Happened to the Claremont Institute?’, Bulwark, 13 July 2021; Matthew Sitman and Sam Adler-Bell, ‘Midnight in the Garden of American Heroes’, Know Your Enemy, 11 February 2021; Eliza Collins, ‘Cruz wins CPAC straw poll’, Politico, 5 March 2016; Kevin Freking, ‘Trump rouses right with prediction of a big 2020 win at Conservative Political Action Conference’, PBS, 2 March 2019; Fred Backus, ‘CBS News poll: Most voters expect Trump will be reelected’, CBS News, 23 February 2020.
- 50. Maanvi Singh, ‘“We need the Wall!”: Trump twists coronavirus fears to push his own agenda’, Guardian, 11 March 2020; Laura Egan, ‘Trump calls coronavirus Democrats’ “new hoax”’, NBC News, 29 February 2020; Dr Mishal Reja, ‘Trump’s “Chinese Virus” tweet helped lead to rise in racist anti-Asian Twitter content: Study’, ABC News, 18 March 2021; Lois Beckett, ‘Older people would rather die than let Covid-19 harm US economy – Texas official’, Guardian, 24 March 2020; Matthew Rosza, ‘Fox News’ Brit Hume: “Entirely reasonable” for elderly to risk getting coronavirus to save economy’, Salon, 25 March 2020; Joe Concha, ‘Glenn Beck: “I’d rather die” from coronavirus “than kill the country” from economic shutdown’, Hill, 25 March 2020; Peggy Noonan, ‘Scenes From the Class Struggle in Lockdown’, Wall Street Journal, 14 May 2020; Sam Adler-Bell, ‘Conservative Incoherence’, Dissent, Summer 2020; Brett Stephens, ‘America Shouldn’t Have to Play by New York Rules’, New York Times, 24 April 2020; Matthew Sitman, ‘Why the Pandemic Is Driving Conservative Intellectuals Mad’, New Republic, 21 May 2020; R. R. Reno, ‘Say “No” to Death’s Dominion’, First Things, 23 March 2020.
- 51. Clare Foran, Manu Raju, Haley Byrd and Ted Barrett, ‘Trump signs historic $2 trillion stimulus after Congress passes it Friday’, CNN, 27 March 2020; Maegan Vazquez and Caroline Kelly, ‘Trump says coronavirus will “disappear” eventually’, CNN, 27 February 2020; Bess Levin, ‘Trump Claims Coronavirus Will “Miraculously” Go Away by April’, Vanity Fair, 11 February 2020; Bill Chappell, ‘8 In 10 Americans Support COVID-19 Shutdown, Kaiser Health Poll Finds’, NPR, 23 April 2020.
- 52. Robert Handa, ‘Santa Cruz County Health Officer Receives Death Threats Over COVID-19 Closures’, NBC, 4 September 2020; Julie Bosman, ‘Health Officials Had to Face a Pandemic. Then Came the Death Threats’, New York Times, 22 June 2020; Salvador Rizzo, ‘Local health officials report threats, vandalism and harassment during the pandemic, study finds’, Washington Post, 17 March 2022; Jane Coaston, ‘FreedomWorks is supporting the anti-shutdown protests — and applying for government funding’, Vox, 24 April 2020; Jason Wilson, ‘The rightwing groups behind wave of protests against Covid-19 restrictions’, Guardian, 17 April 2020; Kenneth P. Vogel, Jim Rutenberg and Lisa Lerer, ‘The Quiet Hand of Conservative Groups in the Anti-Lockdown Protests’, New York Times, 21 April 2020.
- 53. Larry Buchanan, Quoctrung Bui and Jugal K. Patel, ‘Black Lives Matter May Be the Largest Movement in U.S. History’, New York Times, 3 July 2020; Roudabeh Kishi and Sam Jones, ‘Demonstrations and Political Violence in America: New Data for Summer 2020’, ACLED, 3 September 2020; Matthew Impelli, ‘54 Percent of Americans Think Burning Down Minneapolis Police Precinct Was Justified After George Floyd’s Death’, Newsweek, 3 June 2020; Tony Romm and Alison Chiu, ‘Twitter flags Trump, White House for “glorifying violence” after tweeting Minneapolis looting will lead to “shooting”’, Washington Post, 29 May 2020; Barbara Sprunt, ‘The History Behind “When The Looting Starts, The Shooting Starts”’, NPR, 29 May 2020.
- 54. M. J. Chaudhary and J. Richardson, ‘Violence against Black Lives Matter Protestors: A Review’, Current Trauma Reports 8: 96–104 (2022); Mark Osbourne, ‘4 stabbed in skirmishes at DC protests, while 1 person shot at clashes in Washington state’, ABC News, 13 December 2020; Lawrence Tribe, ‘“A Profoundly Un-American Attack On Civil Society”: Why Trump’s Paramilitary Force Is Unconstitutional’, WBUR, 23 July 2020.
- 55. Tom Boggioni, ‘Christian fundraising site has raised over $250,000 for accused Kenosha shooter Kyle Rittenhouse’, Salon, 30 August 2020; Alana Wise, ‘Trump Defends Kenosha Shooting Suspect’, NPR, 31 August 2020; Gina Barton, ‘Kenosha shootings launch conspiracy theories, harassment and threats – continuing a frightening pattern after high-profile events’, Milwaukee Journal Sentinel, 18 September 2020; Eli Yokely, ‘Rittenhouse Trial Verdict Divides Americans Along Partisan, Racial Lines’, Morning Consult Pro, 22 November 2021; Shane Burley, ‘Trump and the GOP are using Kyle Rittenhouse in last-ditch 2020 voter strategy’, NBC, 4 October 2020; Jess Bigwood, ‘The car becomes the weapon’, Boston Globe, 31 October 2021; Chaudhary and Richardson, Violence against Black Lives Matter Protestors; Charles Creitz, ‘Giuliani calls on Trump to declare Black Lives Matter a domestic terror organization’, Fox News, 17 August 2020.
- 56. Ed Pilkington and Sam Levine, ‘“It’s surreal”: The US officials facing violent threats as Trump claims voter fraud’, Guardian, 10 December 2022; Graig Graziosi, ‘Alex Jones leads Trump supporters on march into Georgia capitol building as top elections official faces death threats’, Independent, 18 November 2020; Jonathan Allen, ‘“They’re not here to hurt me”: Former aide says Trump knew Jan. 6 crowd was armed’, NBC News, 28 June 2022; Nicholas Reiman, ‘Jan. 6 Hearings: Roger Stone Discussed Security With Extremist Before Riot, Committee Says’, Forbes, 12 July 2022; Nicki McCann Ramirez, ‘Trump’s Team Said His Call for Capitol March Was a Surprise. They Lied’, Rolling Stone, 12 July 2022; ‘WATCH: Far-right extremist groups coordinated with Trump associates ahead of Jan. 6, committee shows’, PBS News Hour, 12 July 2022.
- 57. Edward Wong, ‘On U.S. Foreign Policy, the New Boss Acts a Lot Like the Old One’, New York Times, 24 July 2022; Masood Farivar, ‘Report: Even as Militias Disbanded, Anti-Government Groups Surged in US’, Voice of America, 7 June 2023; ‘White Supremacist Propaganda Soars to All-Time High in 2022’, ADL, 3 August 2023; Russell Contreras, ‘Report: Hate crimes surged in most big cities in 2022’, Axios, 30 August 2023; Ned Parker, Linda So and Moira Warburton, ‘Insight: “Stop the steal” supporters train thousands of U.S. poll observers’, Reuters, 13 October 2022.
- 58. Kyle Cheney and Nicholas Wu, ‘“The system held, but barely”: Jan. 6 hearings highlight a handful of close calls’, Politico, 22 June 2022.
* Shitstorm là một từ rất tục (nghĩa đen là bão cứt) ám chỉ sự tranh cãi kịch liệt
* Chúng ta thật dễ hiểu khi thấy việc Trump phái vệ binh quốc gia đến Los Engeles, Washington D.C, trong năm 2025 chỉ như sự tiếp tục kiểu chính sách này trong nhiệm kỳ trước của ông.