Đọc thơ Nguyễn Viện

Nguyễn Đông A

 

KHI NGÔN NGỮ TRỞ MÌNH GIỮA CÕI TỤC VÀ CÕI THIÊNG

Nguyễn Viện là một hiện tượng lạ lùng và thách thức trong thi ca Việt đương đại – một thi sĩ đứng giữa biên giới mong manh của thiêng và tục, của triết học và thân xác, của nỗi đau hiện sinh và tiếng cười dân gian. Đọc thơ anh, người ta không chỉ đọc chữ, mà đọc một thứ chất sống thô mộc, khai nguyên, chưa kịp gọt giũa; nơi ngôn ngữ rịn ra mùi của đất, của người, của hơi men và nước mắt. Đó không phải là thứ thơ để thưởng ngoạn, mà là để va đập, để bị thương, để nhận ra linh hồn mình còn biết đau giữa cõi đời đã quen giả tạo.

Nguyễn Viện không dựng nên thơ bằng tứ hay bằng điển, mà bằng nhịp thở. Mỗi bài của anh là một nhịp sinh học – co, giãn, vỡ, và im. “Cái chết màu hổ phách” (1) là một khối tĩnh lặng trong veo, nơi cái chết không phải kết thúc mà là hóa thạch của linh hồn; “Một thoáng trần gian em thoát thai” (2) lại là cơn mộng giao hoan giữa bản năng và linh tính; “Đ.M.” (3) thì phun trào như nham thạch ngôn ngữ – thô, rát, mà sáng rực nhân bản; còn “Thơ gởi các vĩ nhân” (4) lại hạ giọng, bình dị như lời khuyên của một người từng đi qua cõi phù hoa. Tất cả những cung bậc ấy hòa lại, thành một tiếng nói thơ không giống ai – vừa dữ vừa hiền, vừa tục vừa thanh, vừa ngông vừa ngộ.

Điều đáng nói nhất ở Nguyễn Viện là bút pháp phản ngữ pháp – một cách viết như “vỡ câu”, “chặt hơi”, “thả chữ”. Anh không tin vào cú pháp, mà tin vào nhịp điệu của cảm xúc. Chữ trong thơ anh không đứng thành hàng mà trôi, rơi, rỉ, vỡ – như mưa, như mồ hôi, như máu. Nhịp thơ ngắt đoạn, chấm dở, tạo cảm giác như tiếng thở hụt, tiếng tim vấp giữa cơn say. Chính sự đứt gãy đó lại làm nên nhạc tính – thứ nhạc của thân thể, không phải của vần luật. Nhiều từ trong thơ anh – ngần ngại, hoang dại, xa ngái – không chỉ để miêu tả mà để ngân, để rung, để tạo nhịp mơ hồ như hơi gió qua thân thể chữ.

Bút pháp của Nguyễn Viện còn đặc biệt ở chỗ: anh tái thiêng hóa cái tục, và tái tục hóa cái thiêng. “Đ.M.” là minh chứng rực rỡ. Anh đem tiếng chửi – một dạng ngôn ngữ bị xã hội khai trừ – lên bàn thờ thi ca, và trong tay anh, tiếng chửi trở thành một thứ kinh cầu của linh hồn trần gian. “Đụ má” trong thơ anh không còn là báng bổ, mà là cách nói thẳng, nói thật, nói bằng toàn thân. Ở đó, ta nhận ra tinh thần Nam Bộ rõ rệt: hào sảng, hồn nhiên, dám sống, dám chửi, dám cười. Nhưng cái chửi của Nguyễn Viện không phải cộc cằn, mà triết lý bằng xương thịt: chửi để giải thoát, để gột rửa, để giữ lại một chút phẩm giá giữa cơn nhiễu nhương của nhân gian.

Ngược lại, ở “Cái chết màu hổ phách” hay “Một thoáng trần gian em thoát thai”, cái đẹp được kéo xuống mặt đất, trộn với mùi mồ hôi và nước mưa. Anh nhìn cái chết, cái dục, cái sống không bằng lăng kính đạo đức, mà bằng con mắt của người đã đi qua tận cùng của cảm giác. Hình ảnh “tôi ngồi chết như một gốc cây vừa bị đốn” hay “thơ buồn đái” là những cú chạm thi ca táo bạo – nơi cái đẹp được sinh ra từ cái dơ, và cái thánh lóe lên trong bùn. Cái “thơ buồn đái” nghe qua tưởng tục, mà thực ra là cách anh trả thơ về đúng bản thể – một sinh thể biết rỉ ra, biết thải, biết sống. Ở đó, thơ không còn là ngôn ngữ, mà là một phản ứng sinh học của linh hồn.

Trong khi đó, “Thơ gởi các vĩ nhân” cho thấy mặt khác của Nguyễn Viện – giọng điệu trào tiếu mà thấm thía. Anh chối từ mọi thứ vĩ đại, trả đời sống về với ly sữa đậu nành, ly nước mía, tiếng chửi thề và nụ cười. Anh tin rằng sự giản dị là đỉnh cao của minh triết. “Và được viết như đi đái” – câu kết nghe vừa tục vừa an nhiên – chính là tuyên ngôn thẩm mỹ của Nguyễn Viện: Viết là sống, là bài tiết, là giải thoát. Thơ không phải nghi lễ, mà là phản xạ trung thực của cơ thể và tâm linh.

Có thể nói, thi pháp Nguyễn Viện là thi pháp của phản chuẩn và phản trọng lực. Anh làm nhẹ hóa cái cao siêu, và nâng đỡ cái tầm thường. Thơ anh không hướng lên, mà hướng ngang – trải ra trên mặt đất, trên bàn nhậu, bên cồn xưa, dưới mưa dầm, nơi tiếng chửi thề cũng hóa thành đạo lý. Đó là thi pháp của sự bình dân đã khai ngộ, một thứ minh triết Nam Bộ trong dáng dấp hậu hiện đại: vừa bỡn cợt, vừa bi tráng, vừa phóng túng, vừa chính trực.

Tư tưởng xuyên suốt trong thơ Nguyễn Viện là tư tưởng giải thiêng để tìm lại linh hồn con người. Anh không tin vào những tượng đài – vì tượng nào cũng mỏi. Anh chỉ tin vào cơn mưa, mùi đất, tiếng cười, và giọt bia đắng. Ở anh, con người được định nghĩa không phải bằng đạo lý, mà bằng khả năng còn biết rung động trước điều thật. Từ đó, anh tạo ra một thứ mỹ học riêng: mỹ học của cái thật thô – mà thanh, của cái cười tục – mà thánh.

Thơ Nguyễn Viện, suy cho cùng, là một hành trình trở về: từ tri thức đến bản năng, từ lý trí đến xác thịt, từ thánh đến người. Anh không tìm cách cứu rỗi, mà chỉ chỉ ra rằng: chính khi ta dám nhìn vào cái tục, ta mới chạm được tới phần thiêng của mình. Và đó là lý do vì sao, giữa một nền thi ca ngày càng bóng bẩy, thơ Nguyễn Viện vẫn cứ khác người – bởi nó mang hơi người thật, mùi đất thật, và ánh sáng thật của linh hồn đang tự vật lộn để tồn tại giữa trần gian.

Một tiếng chửi, một giọt mưa, một câu thơ đứt đoạn – tất cả trong tay anh đều có thể trở thành minh triết. Bởi Nguyễn Viện, hơn ai hết, đã chứng minh rằng: thơ không cần phải trong, chỉ cần thật.

Và trong cái thật ấy, anh đã dựng nên cả một vũ trụ – vừa hoang dại, vừa linh thiêng – của ngôn ngữ Việt.

 

VỀ CHÙM THƠ NGŨ BÁT CỦA NGUYỄN VIỆN: NHỮNG KHÚC LINH HỒN NGŨ BÁT TRONG BÓNG NHÂN GIAN

Đọc chùm thơ ngũ bát (5) của Nguyễn Viện, người ta như lạc vào một miền mộng thực – nơi tiếng thở dài của phận người hòa cùng tiếng cười giễu nhại của kiếp sống. Từng bài thơ là một chiếc gương nhỏ, phản chiếu những tầng sâu u mặc của linh hồn, nơi cái bi và cái hài đứng cạnh nhau như hai mặt của một đồng xu định mệnh. Ở Nguyễn Viện, ngôn từ không còn là công cụ, mà là sinh thể – vừa thở, vừa nhói, vừa rực rỡ trong cái dằn vặt làm người.

Trong “Nẻo linh hồn về”, anh như một kẻ du hành cô độc giữa trời cao đất thấp, nơi mọi đường biên của tử sinh đều nhập nhòa. Cái “mưa ướt đẫm nẻo linh hồn về” không chỉ là một hình ảnh, mà là một tiếng vọng – ẩm ướt, mênh mang, thấm vào từng thớ cảm xúc. Từ láy “lê thê”, “mảy may” được anh sử dụng nhuần nhuyễn, vừa có tính nhạc, vừa mang nhịp đập chậm rãi của nỗi cô đơn. Ở đó, người đọc cảm thấy như hồn thơ đang tan ra trong sương, để cái “mong nhớ đến bàn tay em” trở thành sợi dây cuối cùng ràng rịt giữa tồn tại và hư vô. Nguyễn Viện không diễn tả cái chết, anh đi qua nó bằng nhịp điệu của nhớ thương, nhẹ nhàng mà day dứt, mênh mông mà không cần kêu than.

Sang “Cá mú, hoa hường và tôi”, thơ anh lại chuyển qua một cung khác – giễu nhại, tếu táo, nhưng vẫn lấp lánh triết lý. Cái cá mú “đang bơi trên đường” và “hoa hường rụng cánh” là hai hình ảnh phi lý mà hợp lý, tạo nên thứ hiện thực ngược, nơi mọi giới hạn giữa người và vật, mộng và thực đều bị đảo tung. Ở đó, cái chất đặc trưng trong thơ anh trỗi dậy rõ rệt – hóm hỉnh, tưng tửng mà đau đáu. Chữ “mùi người” được lặp lại như một khúc ngân bí ẩn, vừa trần tục vừa siêu hình: mùi người – thứ linh khí phảng phất, khi mất đi thì cả vũ trụ cũng trở nên vô nghĩa.

Đến “Sau cơn mưa”, nhịp thơ chậm lại, như tiếng thở dài của một linh hồn đã mỏi. Câu “tự tôi kiếp trước đặt điều kiếp sau” là một câu thơ tuyệt kỹ, ngắn mà sâu như một triết ngữ của Phật. Trong cái ngắn ngủi đó là một vòng luân hồi khép kín – con người bị giam trong chính cái nghiệp của mình, trong trò chơi vô tận của tạo hóa. Và “sắc màu nhân gian” ở cuối bài không phải là màu sắc cụ thể, mà là một ánh sáng – một thứ giác ngộ sau bao nhiêu cơn đau.

“Chỗ ở nhân gian” là một khúc cười cay. Cái nhìn của Nguyễn Viện không hướng lên mà hướng xuống – vỉa hè, cõi người ta, nơi “anh hùng hảo hớn cũng ma cà rồng”. Chất châm biếm được đẩy đến tận cùng bằng sự tỉnh táo. Từ “cà bông”, “cà chớn” làm mềm câu thơ, nhưng chính cái mềm đó lại tạo ra độ sắc. Anh chửi thương, thương chửi, chạm đến bi kịch của nhân sinh bằng cách giả vờ giỡn chơi. Cái “thương em cà chớn chổng mông giữa đường” là một trong những câu thơ tưởng tục mà thiêng – thiêng ở chỗ nó nói thẳng vào thân phận, không cần hóa trang.

Và rồi “Vũng lầy” – bài thơ khép lại như một nốt trầm. Cái “hiện sinh một vũng lầy” là tuyên ngôn của kẻ hiểu rõ định phận con người: sinh ra đã lầy, yêu thương cũng lầy, cuộc vui cũng lầy. Nhưng thay vì tuyệt vọng, Nguyễn Viện lại đứng “chôn chân”, đối diện và chấp nhận, như một cách tẩy rửa linh hồn.

Chùm thơ ngũ bát này chứng minh bút pháp Nguyễn Viện đạt đến độ tự nhiên như thở. Thơ anh vừa phóng khoáng vừa kỷ luật, vừa dân dã vừa triết học, nhịp điệu đậm đặc mà vẫn bay bổng. Cấu trúc ngũ bát được anh sử dụng linh hoạt như một dòng chảy, khi rơi về tĩnh lặng, khi bật lên tiếng cười – luôn có sự di động tinh tế giữa thô và tinh, giữa xác thịt và linh hồn.

Nguyễn Viện, trong chùm thơ này, không còn là người đứng ngoài nhân gian để viết, mà là kẻ đang đi trong cơn mưa của chính mình, vừa say, vừa tỉnh, vừa chạm, vừa buông. Thơ anh là tiếng thở dài biết mỉm cười – một giọng từng trải, nghịch ngợm mà trữ tình, một điệu hồn vừa phiêu vừa thật, như chính cuộc đời: trầy trật, mê mải và luôn rực sáng trong bóng tối.

Đọc Nguyễn Viện để thấy thơ vẫn có thể vừa thô, vừa đẹp, vừa khùng, vừa thánh. Một thứ đẹp đã đi qua biên giới của thơ ca mà trở thành nỗi đồng cảm của linh hồn.

(10/2025)

(1)

CÁI CHẾT MÀU HỔ PHÁCH

1.

Phía sau biển

em ngã xuống

tôi trôi đi như một giấc mơ

2.

Phía sau núi

em ngã xuống

tôi ngồi chết như một gốc cây vừa bị đốn

3.

Phía sau con đường

em ngã xuống

trong vòng tay tôi chỉ còn là một khoảng trống

(3/8/2025)

(2)

MỘT THOÁNG TRẦN GIAN EM THOÁT THAI

Bên cồn bữa ấy thơ buồn đái

mùa xuân. cỏ ướt. mây vàng phai

bữa ấy tôi say mưa ngần ngại

mùi của cồn xưa thơ rất khai

bên ấy còn không mùi cỏ dại

mưa đã sang mùa mưa ngày mai

em đã về đâu? thơ còn đái

mùa xuân hoa lá những dặm dài

cồn của hoàng hoa hay của ai

tôi về mất dấu mùi hoang dại

mưa ở cồn xưa mưa xa ngái

một thoáng trần gian em thoát thai.

19/9/2025

(3)

Đ.M.

anh thích em văng tục trong quán nhậu

anh thích em văng tục khi ngồi café

một cơn mưa bất chợt, em chửi thề thời tiết

một ngọn gió trong lành, em chửi thề hư không

khi tỏ tình, em đụ má anh xạo

khi tặng quà, em đụ má anh hết sảy

cuộc đời không phải lúc nào cũng đẹp

em đụ má cơn xui

em đụ má nỗi buồn

uống bia, em đụ má thiên thu mộng ảo

những nịnh hót không biết ngượng, em đụ má con người

bữa nay anh ế độ, không biết đụ má ai.

29/9/2025

(4)

THƠ GỞI CÁC VĨ NHÂN

Bởi vì rồi ai cũng mỏi

Thưa các vĩ nhân, hãy ngồi xuống

Uống với tôi một ly sữa đậu nanh nóng

Hay một ly nước mía mát lạnh

Niềm vui của chúng ta không phải là bắt nạt người khác

Ước mơ của chúng ta không phải là ngồi lên đầu thiên hạ

Hạnh phúc của chúng ta không phải là nỗi đau của những người yếu thế

Đứng lâu mỏi chân

Thưa các vĩ nhân, hãy tìm một chỗ ngồi

Và nhìn mây trắng bay

Niềm vui của chúng ta là vợ con khoẻ mạnh

Ước mơ của chúng ta cùng nhau hạnh phúc

Và hạnh phúc của chúng ta là được nghỉ ngơi trong an bình

Một ngày không phải lo

Một đêm không phải sợ

Lừa đảo trộm cướp và bắt bớ

Với tôi đã là tuyệt

Một ngày được cười nói và chửi thề

Chém gió cùng bạn bè café ăn nhậu mà không phải nhìn mặt ai

Là một ngày ý nghĩa

Thưa các vĩ nhân, đừng nói với tôi những điều vĩ đại

Cho dù tôi biết giấc mơ không tốn tiền

Nhưng tôi chỉ ước ao những điều nhỏ nhặt

Và được viết như đi đái.

7/10/2025

(5)

NẺO LINH HỒN VỀ

Là tôi giữa hình hài

trời cao đất thấp canh bài tử sinh

Là tôi nỗi một mình

cơn mưa ướt đẫm nẻo linh hồn về

Là tôi lỡ hôn mê

khát khao thèm chết giữa lê thê ngày

Là tôi lúc mảy may

đã mong nhớ đến bàn tay em… cầm

15/7/2025

CÁ MÚ, HOA HƯỜNG VÀ TÔI

Một hôm xuống phố chơi

thấy con cá mú đang bơi trên đường

Một hôm ngắm hoa hường

thấy em gái tựa nõn nường gốc cây

Tôi về ngủ trên mây

cho mưa đổ hột cho gầy chiêm bao

Một mai lỡ tuyệt giao

còn tôi đứng ngóng thanh cao mùi người

Con cá mú trêu ngươi

hoa hường rụng cánh. mùi người còn không?

17/7/2025

SAU CƠN MƯA

Đã về chưa về chưa

thiên di ướt cánh. mù mưa ban chiều

đã qua những cơn liều

tự tôi kiếp trước đặt điều kiếp sau

người về? hết cơn đau

để tôi chào đón sắc màu nhân gian

21/7/2025

CHỖ Ở NHÂN GIAN

Vỉa hè, chỗ ta ngồi

ngó trời đất rộng, nghía đồi núi xa

vỉa hè, cõi người ta

ngó đi nghía lại, nhìn ra ta bà

nhân gian thuở tịch tà

anh hùng hảo hớn cũng ma cà rồng

trăm năm vẫn cà bông

thương em cà chớn chổng mông giữa đường…

24/7/2025

VŨNG LẦY

Cũng đành đứng chôn chân

một hồn hoang địa, một thân lưu đày

hiện sinh một vũng lầy

dấu yêu đoạn nỗi còn bày cuộc vui

29/7/2025

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.