“Đô Mỹ”, “ký họa” và những sứ quân làng

Nguyễn Hoàng Văn

“Đô Mỹ” đang lang chạ với bản thế vì bất thành của “ký họa” và đây chỉ là một thí dụ nhỏ nhoi cho tình trạng bát nháo của tiếng Việt mà một trong những nguyên nhân là sự hống hách của những sứ quân rất… làng.

“Đô Mỹ” hình thành sau khi ông Paul Doumer đến Việt Nam nhậm chức Toàn quyền Đông Dương vào năm 1897. Không nói đến năng lực thực dân, chỉ riêng cái tên của ông ta thôi đã khiến các bậc đại thần của triều Huế khốn khổ với cảm giác bẩn mồm khi phải “Kính thưa quan lớn Đu Me”. Họ khổ tâm mãi như thế cho đến lúc ai đó nảy ra sáng kiến Hán Việt hóa cái tên để, thay vì ngập ngừng “Đu Me”, có thể bình thản cái sự thanh bạch miệng mồm bằng “Đô Mỹ”. [1]

Còn bản thế vì của “ký họa” lại là chuyện của 70 năm sau, 1967, khi Hồ Chí Minh đến dự cuộc triển lãm những ký họa gởi ra từ chiến trường miền Nam. Cho rằng từ “ký họa” này cao vời quá, “khó hiểu với “đông đảo đồng bào” quá, Hồ Chí Minh yêu cầu trưởng ban tổ chức Bảo Định Giang nên tìm chữ gì khác thay thế. Tuy nhiên lần này thì lời bác cũng như cơn gió thoảng qua tai bởi, cả tác giả câu “Tháp Mười đẹp nhất bông sen / Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ” cũng phải làm ngơ khi biết phải “đại chúng hóa” thế nào đây, “vẽ ghi” hay “vẽ chép”? Nếu người Việt thông minh như sách vở vẫn đều đặn dạy dỗ con trẻ, sự thể đâu có khó khăn gì? Chỉ cần nhìn vào một tác phẩm thôi là sẽ hiểu ngay thế nào là “ký họa”, bất quá thì thêm một lời giải thích ngắn gọn là có thể nâng trình độ nhân dân lên, sao phải kềm giữ mãi ở tầng bậc thấp? Mà, kể ra, Hồ Chí Minh cũng không tự tin với đề nghị này lắm nên chẳng mấy quyết đoán, kiên trì. Ông ta mà mạnh mẽ can thiệp hay bỏ thì giờ nhắc nhở thì đâu có chuyện, trong cuộc triển lãm thứ hai vào năm 1968, ký họa vẫn là… ký họa, cho đến ngày nay. [2]

Quyền lực chính trị, như thế, đã không xoay chuyển được ngôn ngữ và, trên phương diện này, ông Phạm Văn Đồng là người biết phận. Năm 1963, khi đến dự hội thảo về “Tiếng Việt trên sách báo” tại trụ sở báo Nhân Dân trong vai trò đồng chủ toạ cùng với nguyên Tổng biên tập Hoàng Tùng, ông ta đã vội vàng đứng dậy chắp tay vái lạy nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn, không cho nói hết lời. Ai đó đề cập đến cái sai của từ “trụ sở” trên sách báo và, như đùa như thật, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng đề nghị thủ tướng hãy ban hành một chỉ thị để, vì sự trong sáng của tiếng Việt, buộc tất cả phải dùng từ “trú sở”, tuy nhiên ông ta đã vái lạy, bảo đừng có “xúi dại” bởi quyền lực không thể giải quyết được vấn đề ngôn ngữ. [3]

Xem ra, trên khía cạnh này, hai nhà chính trị Việt đã thua xa Tần Thủy Hoàng. Phạm Văn Đồng thì bỏ cuộc, từ đầu. Hồ Chí Minh lại can thiệp dè dặt, chẳng kết quả gì. Còn Tần Thủy Hoàng thì mạnh bạo, quyết đoán, nhắm đến chữ nào là thay đổi số mạng chữ đó, tới tận hôm nay. Bỏ qua danh hiệu “Thái Hoàng” do triều thần đề nghị, Tần Thủy Hoàng kết hợp “Tam Hoàng” và “Ngũ Đế”, tự chọn lấy danh xưng “Hoàng Đế” cho “xứng với cái công lao đã làm được và truyền cho đời sau”. Tần Thủy Hoàng giành hẳn độc quyền khi cấm người dân xưng “trẫm”, buộc họ phải nói về minh là “tôi” để thể hiện thân phận tôi tớ, tôi đòi và, do đó, đã thay đổi cách xưng hô của cả dân tộc Trung Hoa. [4] Tần Thủy Hoàng lại thống nhất chữ viết, ra lệnh Lý Tư biên soạn bộ văn tự tiêu chuẩn, xóa bỏ tình trạng bát nháo ở đó mỗi bang quốc mỗi kiểu văn tự khác nhau, chẳng ai đọc được ai.

Tiếng Việt chúng ta thì, ngược lại, ngày càng bát nháo và hỗn loạn vì sự mạnh bạo của quá nhiều… Tần Thủy Hoàng. Nhưng nếu “hoàng đế” chỉ có một thì những thủ phạm gây ra tình trạng này chỉ là hạng cỏn con, cỡ sứ quân. Nghe thì thật là ghê nhưng đó, bất quá, cũng chỉ là hiện tượng… làng, như một hiện tượng tiểu nông, sứ quân làng hay sứ quân tiểu nông.

Thử bắt đầu bằng những kinh nghiệm riêng, từ một người bạn của tôi, vào thập niên 1980. Dở dang việc học do lý lịch nên, có một thời gian ngắn, người bạn làm việc văn phòng cho một hợp tác xã để rồi, cứ mỗi lần gặp nhau, là một lần chua chát xả ra những ẩn ức khi phải làm việc với một “lũ ngu”. Và thường, đó là cái ngu về chữ nghĩa, như “nguyên cứu” chẳng hạn. Ngày nọ, không rõ học từ đâu, viên chủ nhiệm quả quyết rằng việc “nghiên cứu” nào cũng cốt để tìm ra “nguyên nhân” của vấn đề nên, do đó, phải sử dụng từ này cho đúng với… gốc rễ của nó. “Nhất Chủ nhiệm nhì Trời”, trong cái lãnh địa mà ông ta có thể thay Trời, thì phải là “nguyên cứu”, muốn “nghiên cứu” thì xéo đi chỗ khác.

Song song với “nguyên cứu”, thời ấy lớp tuổi chúng tôi trở lên, ở quê tôi, còn nặng đầu với ám ảnh “thu dung”, nghĩa là phải làm việc như tù khổ sai dưới sự giám sát của công an tại “trại thu dung” ở những công trình thủy lợi rất cần nhân lực. “Đi thu dung”, có thể là những thành phần bất hảo, cờ bạc hay trộm cắp vặt nhưng không nhất thiết phải đưa ra toà. Cũng có thể là những cái mồm hay “phát biểu linh tinh”, nghĩa là báng bổ chính quyền nhưng chưa đến mức phải quy kết “phản động”. Cũng có thể là những thành phần không tốt không xấu, chỉ là không có chân trong biên chế nhà nước mà lại phè phởn ăn chơi khiến giới chức quyền địa phương ngứa mắt hay ganh tỵ. Và cũng có thể đơn giản là những nạn nhân vô tội, bị ảnh hưởng từ từ ân oán lưu truyền từ cha đời mẹ với những chức sắc địa phương, v.v. “Thu dung”, ở đây, gần như là “trừng giới” nhưng sao lại như thế thì tôi mù tịt. Và tôi cũng mù tịt cái sự phổ biến của nó, được áp dụng trên toàn quốc hay chỉ là một “đặc sản” địa phương?

“Thu dung”, theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh là “thu nhận và dung nạp” và “cảnh sắc mùa thu”; theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học (2004), là “thu nhận và cho ở”. Tra cứu rộng hơn từ những bộ từ điển của Lê Văn Đức hay Thanh Nghị thì chỉ là “cảnh sắc mùa thu”.

Xoay chuyển giữa “cảnh sắc mùa thu” và “thu nhận, dung nạp” thì, đùng một cái, “thu dung” lại trở thành “trừng giới” hay “cải tạo tại chỗ”, cái gì đã khiến nó bị trục hồn kinh khủng như thế? Tôi nghĩ đến vị “sứ quân” nào đó, trong ngành an ninh – chính trị địa phương thời đó. “Thu dung” này có ra đời thì cũng giống như “nguyên cứu” của viên chủ nhiệm hợp tác xã đã khiến bạn tôi bực dọc, chửi thề. Rồi tôi nghĩ đến đội ngũ sứ quân trùng điệp trên đất nước chúng ta – những nhà báo, những chuyên gia soạn thảo pháp lý, những trợ lý chuyên viết diễn văn cho các quan chức trọng trách, những “Vua Tiếng Việt” đang hống hách theo kiểu điếc không sợ súng trên đài truyền hình trung ương, v.v. [5] Mỗi sứ quân mỗi cõi và, tất cả, với sự tự tin hay hống hách nực cười của mình, đang băm vằm tiếng mẹ của chúng ta ra, như cám.

Trong vấn nạn… cám hóa tiếng Việt này có sự lang chạ dơi chuột giữa “Đô Mỹ” với bản thế vì bất thành của “ký họa” mà chúng ta đã nhẵn tai từ bao nhiêu năm nay như “thăm quan”, “lính thủy đánh bộ”, “cố nhà thơ”, “cố nhà văn”, v.v. hay, mới nhất, là “cỗ xe tam ngựa” của ông Nguyễn Trường Lưu, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư TP HCM. [6] Ông này làm cái nghề mà, ngoài kỹ năng … kiến trúc, đòi hỏi cả kỹ năng thương lượng để dung hòa những ý tưởng thẩm mỹ của mình với những đòi hỏi thực dụng của khách hàng. Để làm như thế thì phải nói cho hay, phải biết cách vận dụng ngôn ngữ huống hồ đây lại là một Kiến trúc sư – Chủ tịch, không những phải biện luận với từng khách hàng mà với cả một thành phố, cả một bộ máy chính quyền, cả một đội ngũ đồng nghiệp đông đảo, vậy mà…

Những điều như thế đang khiến tiếng Việt của chúng ta ngày càng… giả đi, nói theo cố Giáo sư Nguyễn Đình Hòa, nguyên là Trưởng ban Anh văn của Đại học Văn khoa Sài Gòn vào thập niên 1960. Một người quen của tôi, từng là sinh viên tại đây cho biết buổi giảng nào người thầy này cũng mang theo một tờ báo Anh ngữ phát hành tại Sài Gòn để phân tích rằng đó là tiếng Anh giả. Thì đó là tiếng Anh, nhưng của… người Việt, chưa thực sự nghiệm sinh với ngôn ngữ mình đang sử dụng để kiếm cơm và điều này hoàn toàn có thể hiểu được. Nhưng khi tiếng Việt của người Việt mà vẫn… giả như thể là ngôn ngữ thứ hai thì, phải chăng, trong cách sống, chúng ta không hề sống thật?

Câu hỏi này làm tôi nhớ đến câu chuyện dở khóc dở cười khác, vào cuối thiên niên kỷ qua, khi cùng một vài bạn học đến thăm cô giáo Anh văn. Ba mẹ cô có một căn nhà cổ nổi tiếng và cô than thở việc thấy cha mẹ cô mở quán cà phê thu hút được nhiều du khách, những nhà khác cũng lăng xăng sơn phết, tôn tạo, giả làm nhà cổ để cạnh tranh. Nghe vậy, một người bạn của tôi thẳng băng: “Em xin lỗi cô, thời này mà có thứ gì không giả, gái trinh mà còn giả được, nhà cổ giả là chuyện thường”. Quả thật đất nước đang trải qua thời kỳ giả, bằng cấp giả, học vấn giả, lịch sử giả, khoa học giả, tu hành giả, đồ cổ giả, trinh tiết giả, phẩm chất cách mạng giả, giai cấp vô sản giả, v.v. Đã có ai phân tích rạch ròi bao nhiêu cái giả trong lịch sử, như Lê Văn Tám, như Võ Thị Sáu? Đã có ai thống kê đã có bao nhiêu nhà đạo đức từng lên lớp cho cả nước những bài học về phẩm chất cách mạng liên tiếp bị lộ, bị hạ bệ và bị bỏ tù? Và đã có ai thống kê đầy đủ số lượng tài phiệt giàu sụ nhưng lại mang danh là “đại biểu ưu tú của giai cấp vô sản”?

Cái giả còn dẫn đến cái thừa và tiếng Việt hiện tại đang nhếch nhác, đang nhão nhoẹt ra với những cách diễn đạt dư thừa. Bắt một nghi can “để điều tra” thì thừa thãi là “để phục vụ cho công tác điều tra”. Diễn tả ai đó đang “lái xe” trên đường thì luộm thuộm là “tham gia giao thông” hay, như mới đây, khi cô nàng nào đó của giới trình diễn bị bắt vì cáo buộc “kinh doanh thực phẩm chức năng giả”, báo chí của chúng ta lại ề à trong hàng tít lẽ ra phải ngắn gọn là “kinh doanh thực phẩm chức năng là hàng giả.”

Sự thừa thãi nào trông cũng vô duyên và, kệch cỡm nhất, là nạn hàn lâm giả, qua cách tu từ ngô nghê hay cách lạm dụng tiếng Hán Việt một cách sai lạc, từ “hỗ trợ” đến “công cụ hỗ trợ”, “bão kinh điển”, “tác động vật lý”, “thực hiện hóa”, v.v. Đây, có lẽ, là hiện tượng mà, trong một bài tạp văn, nhà phê bình Vương Trí Nhàn” diễn tả là “lại gạo”?

Những cái bánh chưng hay bánh tét, đã nấu chín rồi nhưng để lâu ngày sẽ “sống” lại, hạt nếp chín trở lại nguyên hình là gạo nếp như khi chưa nấu. Còn ở đây là sự “sống lại” trong niềm tin, trong nhân sinh quan, qua câu chuyện mà nhà văn Nguyễn Khải diễn tả trong bài tạp văn “Chiến binh khi đã về già”. Thời trẻ từng oai phong đứng trước đám đông hùng hồn về tương lai cách mạng, về nhu cầu đập phá những cái xấu xa hủ lậu của chế độ đương thời nhưng, đến lúc về già, họ “quay trở lại với những gì từng lên án và xem là cổ hủ, lạc hậu” một cách “thành tâm, tự nguyện” và, thậm chí, còn “sung sướng đến nở lòng nở ruột”. [7]

Đâu đó Tô Hoài, tôi nhớ, từng viết về hiện tượng tương tự với xuất thân, gia thế. Thập niên 1950-60, người Hà Nội hãnh diện khoe tổ tiên ba đời ở đợ thì, đến thập niên 1990, lại xoay ngược, khoe khoang gia tộc mấy đời đỗ đạt, làm quan. Trong cái thời “dĩ vô sản vi trung” ấy, cũng theo Tô Hoài, giới học thức như nhà văn Nguyễn Huy Tưởng phải giả giọng, cố tình “bần nông hóa” cách phát âm các danh từ ngoại quốc thì, khi thời thế thay đổi, tiếng Việt cũng bị rối tung với xu hướng quay ngược này.

Trong cái không khí Maoist hay Stalinist ngột ngạt kia thì, để được yên thân, phải tránh việc làm nổi, phải hòa tan mình vào khối đông đại chúng. Học thức hay địa vị cao càng cao, càng phải nhún mình và những thành phần tinh hoa thời ấy có rụt rè, không dám nhận lãnh vai trò dẫn dắt công chúng cũng là điều dễ hiểu. Nhưng thời thế thay đổi thì, trong cách nói và cách viết, dẫu chưa có đủ tố chất tinh hoa, người ta cũng cố ngoi lên làm nổi với phong cách “tinh hoa”. Sử dụng tiếng Hán Việt cho sang nhưng sử dụng bừa bãi, dẫu không hiểu rõ thực nghĩa. Và họ vung bút với điệu bộ “hàn lâm” nhưng, vì thiếu thực chất, lại đâm ra sáo rỗng, thừa thãi, và vô duyên. [8]

Nói theo Ferdinand de Saussure, nhà ngôn ngữ học cấu trúc tiên phong, chúng ta phải “đóng băng” tiếng Việt đang được sử dụng thì mới nhận ra sự thay đổi rõ rệt trong cấu trúc ngôn từ. Nhưng nếu làm theo Claude Lévi-Strauss – nhà nhân chủng học cấu trúc – hãy bắt chộp một vài sáo ngữ đã thành mốt, chúng ta sẽ thấy rằng cấu trúc của cộng đồng chúng ta cũng chẳng thay đổi gì.

Cấu trúc là trật tự, là quan hệ giữa các yếu tố cấu thành một thực thể nào đó, một ngôn ngữ, một cộng đồng, một tổ chức chính trị, một xã hội hay một quốc gia. Đó là quan hệ giữa những yếu tố riêng lẻ với nhau, giữa từng yếu tố riêng lẻ với hệ thống, hệ thống con hay hệ thống mẹ, và giữa các hệ thống con với nhau, v.v. Một hệ thống với những thành tố rời rạc là một hệ thống vô hồn và chính cấu trúc, hay quan hệ giữa những yếu tố mới làm nên sức sống của nó, mới khiến cho cái toàn thể lớn hơn tổng số.

Bắt chộp tiếng Việt hiện tại, trên báo chí và trong giao tiếp hành chánh, chúng ta sẽ thấy sự thay đổi rõ rệt trong trật tự, trong mối quan hệ chính phụ giữa những đơn vị ngôn từ: “nhà văn nữ” và “nữ nhà văn”, v.v. Nếu những nhà cấu trúc luận cho rằng cấu trúc ngôn ngữ là một cấu trúc thống trị, ràng buộc chúng ta như những tù nhân, không cho chúng ta suy nghĩ đến bất cứ điều gì nằm bên ngoài những quy tắc của nó thì, nhìn từ bề ngoài, khi đã phá tung những trói buộc ấy, chúng ta có thể thoát khỏi thân phận tù đày?

Câu trả lời là không và, cũng qua nhưng bằng chứng ngôn ngữ học, chúng ta vẫn là tù nhân trong một cái làng hay một “tập hợp làng” với những sinh hoạt tiểu nông rất vặt.

Như những biến tấu mới nhất của sáo ngữ “vừa thiết kế vừa thi công” nhàm tai một thời. Đó là dấu ấn của văn hóa tiểu nông mà, trong quy hoạch đô thị, hiện vẫn đều đều bộc lộ khi… mưa đến. Do cách quy hoạch tùy tiện, bừa bãi, rất… làng nên, chỉ một trận mưa rào thôi, Hà Nội hay Sài Gòn, Cần Thơ, Đà Nẵng và thậm chí cả Đà Lạt lại lâm cảnh phố hóa thành sông. Phong cách làng này, cho đến hiện tại, cũng thống trị cả lĩnh vực pháp lý với sáo ngữ: “Quan điểm của tôi là xử đúng người đúng tội, sai đến đâu xử đến đó!”

“Sai đến đâu xử đến đó”, đây có khác nào một biến tấu của“vừa thiết kế vừa thi công”? Còn “xử đúng người đúng tội” thì lại là một chân lý hiển nhiên nên thành ra vô duyên, thừa thãi: có thứ pháp luật nào mà chủ trương xét xử “sai người, sai tội”? Vô duyên, dư thừa nó trở nên trịch thượng với cung cách lão làng: “Quan điểm của tôi”. Tội vạ thế nào thì có luật pháp quốc gia, có tòa án, nhưng nếu quan chức kia có một “quan điểm” khác thì pháp luật và tòa án sẽ bị gác qua một bên hay chăng? Đây chính là dấu vết của não trạng tiểu nông bởi lão làng nào, đầu tiên, cũng tin rằng mình là hiện thân của lệ làng, có trước và đặt trên phép vua, phép nước.

Cấu trúc, theo những nhà cấu trúc luận, là cốt tủy đặc trưng, là thứ khó thay đổi nhất của một xã hội, cộng đồng. Và cái không thể thay đổi ở đây cấu trúc, là lệ làng để phép vua cũng phải bó tay. Cấp trung ương thua làng từ khi vua Lê Thánh Tông gia tăng mức độ tập quyền, đưa các xã quan về tận làng để thay mặt triều đình mà không phá vỡ được cấu trúc quyền lực làng. Thực dân Pháp cũng đã chào thua với quyền lực làng qua những cuộc “cải lương hương chính” để rồi, khi Doumer đến, nhà thực dân tinh ranh này phát hiện ra rằng cách hay nhất là duy trì quyền lực làng, lợi dụng quyền lực và cấu trúc làng để gia tăng công cuộc thực dân hóa mà không phải trực tiếp đối đầu với người dân. [9]

Bây giờ làng, nhìn ở bề ngoài, đã thay đổi rất nhiều. Làng đã bê tông hóa, cả “cháo lòng tiết canh” mà còn được điện toán hóa như là chalotica.com thế nhưng cấu trúc quyền lực vẫn y như cũ. Chỉ là thay ông chánh tổng bằng ông bí thư. Là thay ông lý bằng ông trưởng thôn, là thay tên trương tuần bằng viên công an xã và, luôn luôn, phép vua vẫn thua lệ làng. Và trong sự thay đổi đến chóng mặt đó chúng ta vẫn chứng kiến sự tồn tại của “cấu trúc làng” trên phương diện ngôn ngữ. Mỗi tờ báo là một làng. Mỗi ông phát ngôn viên của một bộ, một ủy ban nhân dân nào đó cũng là một làng. Cả một thiết chế trung ương, với danh vị trung ương là “vua tiếng Việt”, cũng chỉ là một cái làng, làng VTV3. Bất kể quy chuẩn của ngôn ngữ quốc gia, bất kể giới ngôn ngữ học lên tiếng thế nào, mỗi làng một kiểu, họ thản nhiên bát nháo hóa tiếng Việt theo “lệ” của mình.

Tiếng Việt đang rối tung lên vì những sứ quân cấp làng như thế. Trật tự và cấu trúc ngôn ngữ có thể bị đảo tung đây đó nhưng, thực chất, đây cũng là hệ lụy từ việc chúng ta vẫn tiếp tục là tù nhân của văn hóa làng, văn hóa tiểu nông.

Tham khảo:

1. Vương Hồng Sển (2014). Dỡ mắm – di cảo. NXB Trẻ, tr. 55-56.

2. Bảo Định Giang (2001) Bác Hồ, Bác Tôn và Các Anh. NXB Chính trị Quốc gia, tr. 15.

3. “Anh Tô – Hồi ký về cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng” của Hoàng Phê trong: http://vanhoagiaitri.vnn.vn/sacmauvanhoa/VanXuoi-C.asp?PostID=1554.

Nguyên thuỷ, đây là bài báo đăng trên Văn Nghệ (3. 2000) và sau được bổ sung thành bài “Anh Tô, Những kỷ niệm khó quên” đăng trong Phạm Văn Đồng trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế, NXB Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 881-887.

“Tại hội nghị, có người thắc mắc nên nói trụ sở (cơ quan) hay trú sở đúng hơn, bởi vì đây là một từ Hán-Việt, đúng âm phải nói trú như trong trú ngụ, trú quán, cư trú, nội trú, tạm trú, thường trú, v.v. Anh Nguyễn Tài Cẩn có ý kiến nói nửa đùa nửa thật rằng ‘nếu như thủ tướng ra một chỉ thị từ nay phải dùng trú sở thay cho trụ sở, thì có thể chỉ sau một thời gian sách báo đều viết trú sở hết thôi…’’ Anh Nguyễn Tài Cẩn chưa kịp nói hết ý kiến, Anh Tô đã đứng phắt dậy, chắp tay vái và nói: ‘Tôi lạy anh, anh đừng xúi dại tôi.’ Và anh cười to một cách thoải mái, làm cả hội nghị đều cười.”

4. Sử ký của Tư Mã Thiên, chương “Tần Thủy Hoàng bản kỷ”, bản dịch của Nhữ Thành:

“Quả nhân, một người nhỏ bé hưng binh trừ khử bọn bạo nghịch làm loạn. Nhờ uy linh của tôn miếu, sáu nước đều chịu tội, thiên hạ bình định. Nay nếu không thay đổi danh hiệu thì không sao xứng với cái công lao đã làm được và truyền cho đời sau. Các ngươi hãy bàn nên đặt hiệu đế như thế nào.”

Thừa tướng là Vương Quán, ngự sử đại phu Phùng Kiếp, đình úy Lý Tư đều tâu: “Ngũ Đế ngày xưa đất chỉ vuông ngàn dặm, ngoài ra là đất đai của chư hầu và của man di, họ vào chầu hay không thiên tử cũng không cai quản được. Nay bệ hạ dấy nghĩa binh, giết bọn tàn ác và nghịch tặc, bình định được thiên hạ, bốn biển thành quận và huyện, pháp luật và mệnh lệnh đều thống nhất ở một nơi, từ thượng cổ đến nay chưa hề có, Ngũ đế đều không bằng. Bọn thần sau khi bàn bạc kỹ lưỡng với các bậc sĩ thấy rằng: Ngày xưa có Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Thái Hoàng, nhưng Thái Hoàng là cao quý nhất. Bọn thần liều chết xin dâng tôn hiệu của nhà vua là Thái Hoàng, mệnh ban ra gọi là “chế”, lệnh ban ra gọi là “chiếu”, thiên tử tự xưng gọi là “trẫm” (1).

Nhà vua nói:

“Ta bỏ chữ “thái”, lấy chữ “ hoàng”, thêm chữ “đế”, của những vị đế thời thượng cổ hiệu gọi là Hoàng đế còn những điều khác thì như lời các khanh tâu.”

……………………..

(1). Các đời trước không dùng danh từ “chế” và “chiếu”. “Chế” quan trọng hơn “chiếu”, chỉ nhà vua mới được dùng chữ ấy, còn Thái hậu thì có khi dùng chữ “chiếu” khi thay thế nhà vua trị dân, nếu gọi là “chế” tức là có ý muốn làm vua. “Trẫm” trước là một đại từ chỉ ngôi thứ nhất dành cho mọi người. Sách đạo giáo dùng chữ trẫm để chỉ một lực lượng siêu tự nhiên, một đấng không ai trông thấy. Bọn Lý Tư đề nghị dùng chữ này là vì thế.”

……”

5. Những sai sót của “Vua Tiếng Việt” đã được nhà nghiên cứu Hoàng Tuấn Công kiên trì phân tích trên blog của mình. https://tuancongthuphong.blogspot.com/search/label/Ho%C3%A0ng%20Tu%E1%BA%A5n%20C%C3%B4ng

6. Phát biểu ngô nghê này được báo Tuổi Trẻ đăng lại nguyên xi, trong bài báo “’TP. HCM mới như cỗ xe tam ngựa, ngựa nào cũng khỏe nhưng chạy ra 3 hướng thì rất nghiêm trọng’”, Có lẽ bị chế nhạo, báo Tuổi Trẻ đã sửa chữa sai sót này, nhưng nguyên bản vẫn còn tại địa chỉ này:

https://www.msn.com/vi-vn/news/national/tp-hcm-m%E1%BB%9Bi-nh%C6%B0-c%E1%BB%97-xe-tam-ng%E1%BB%B1a-ng%E1%BB%B1a-n%C3%A0o-c%C5%A9ng-kh%E1%BB%8Fe-nh%C6%B0ng-ch%E1%BA%A1y-ra-3-h%C6%B0%E1%BB%9Bng-th%C3%AC-r%E1%BA%A5t-nghi%C3%AAm-tr%E1%BB%8Dng/ar-AA1KNwwl

7. Vương Trí Nhàn (2005), Nhân nào quả ấy. NXB Phụ Nữ, Hà Nội, tr. 140-145.

8. https://vanviet.info/trao-doi/ti-khai-sng-tieng-viet/

9. Paul Doumer (2016), Xứ Đông Dương, NXB Thế Giới, Hà Nội, tr. 267-271

Nguyên tác L’Indo-Chine française xuất bản lần đầu năm 1904, bản Việt ngữ của Lưu Đình Tuấn, Hiệu Constant, Lê Đình Chi, Hoàng Long, Vũ Thủy. Nguyễn Thừa Hỷ hiệu đính.

This entry was posted in Vấn đề hôm nay and tagged . Bookmark the permalink.