Chủ nghĩa dân tộc tai họa – sự sụp đổ của nền văn minh tự do (kỳ 3)

Tác giả: Richard Seymur

Việt dịch: Nguyễn Quang A

 Nhà xuất bản Dân Khí-2025

1.  Các Tai họa: Biết Quá Nhiều

Tôi cảm thấy vì tôi chắc chắn một tù nhân phải cảm thấy người đã bị kết án vào tù vì một tội anh ta đã không phạm.

– Thư từ một cư dân của Buffalo Creek gửi cho Kai T. Erikson, Everything in Its Path: Destruction of Community in buffalo Creek Flood1

I.

Tai họa mang đến sự tận thế theo sau nó: sự tận thế theo nghĩa về một ‘sự tiết lộ’, trao cho những người sống sót như một loại sự thấu hiểu về sự thật đáng kinh sợ của thế giới. Trong 1972, chẳng hạn, đã có một thảm họa công ty khét tiếng tại Buffalo Creek ở West Virginia, nơi một đập bị vỡ và một hồ chứa bùn độc hại do công ty khai mỏ duy trì đã tràn vào thung lũng, đã phá hủy nhà cửa và đã giết hơn một trăm người. ‘Thảm họa mà đã xảy ra với chúng tôi,’ một người sống sót của thảm họa Buffalo Creek giải thích, ‘tôi tin nó đã mở con mắt của rất nhiều người.’ Bà tiếp tục:

tôi tin sẽ có các cuộc chiến tranh, và sẽ có một thứ giống bom sẽ phá hủy nơi này thành từng mảnh. Ai đó, kẻ ngốc nào đó, sẽ cho nổ nó thành từng mảnh. Chắc chắn khi tôi ngồi đây và bạn ngồi đó, nó sẽ xảy ra … Đôi khi tôi sẽ đi ngủ và nghĩ về nó, bạn biết đấy, sự kết thúc của thời gian, sự phá hủy, những gì xảy ra trong chiến tranh. Nó giống sự lớn lên, tôi đoán.

Các thảm họa được cho là kéo chúng ta lại với nhau. Chúng được cho là tạo ra một làn sóng phởn phơ giữa những người sống sót một khi điều tồi tệ nhất đã qua, rèn một ‘thành phố bạn bè’ trong đống đổ nát. Rebecca Solnit cho chúng ta thấy các thảm họa có thể đẻ ra ‘các cộng đồng thảm họa’ như thế nào và thậm chí, bằng việc phá vỡ sự khốn khổ và sự xa lánh bình thường của cuộc sống hàng này, kích thích các tham vọng không tưởng.2

Nó không nhất thiết phải như thế. Một ‘thành phố bạn bè’ chỉ có khả năng xuất hiện trong các hoàn cảnh đặc biệt, nơi thảm họa không giải tán cộng đồng, nơi cộng đồng đã không bị chia tách rồi theo nhiều đường đứt gãy (giai cấp, chủng tộc, tôn giáo), nơi đã có rồi các truyền thống tự-lực, sự hỗ sinh và đoàn kết, và – trong một số trường hợp – nơi thảm họa không phải do những người khác gây ra. Điều gì xảy ra khi sự khốn khổ là do ‘tác động của con người’, các nguồn lực cho sự tự-lực là không đáng kể, sự tin cậy xã hội là rất thấp, và các phản ứng được kỳ vọng về sự tử tế và sự từ thiện không thành hiện thực?

Trong công trình của ông về các thảm họa trong nhiều thập kỷ, nhà xã hội học Kai Erikson lưu ý, ông đã chưa từng thấy tình trạng phởn phơ hoang đường hay ‘nền dân chủ đau khổ’ nào cả. Ngược lại, những người sống sót bị bối rối, cam chịu, căm tức, lặng thinh – trên hết, bị chấn thương. Thay vì khám phá ra cộng đồng, họ bị chia rẽ thành các phe phái cáo buộc lẫn nhau và rút lui vào các khu vực sống sót cá nhân.3 Chẳng hạn, thảm họa Buffalo Creek ở West Virginia, 1972, đã là một trận lụt ‘nhân-tạo’. Khi một làn sóng cao ngất trời của 0,49 triệu mét khối nước đen của công ty phá vỡ các bể chứa của công ty khai mỏ và trào qua con lạch, xé toạc hàng ngàn ngôi nhà và đã giết 125 người, là rõ rằng công ty đã mắc lỗi. Thay cho bày tỏ sự hối hận hay từ thiện nhỏ nhất, công ty đã rút lui đằng sau một đội luật sư, gọi thảm họa là một ‘thiên tai bất khả kháng’.

Cái cuối cùng thất vọng đến vậy về kinh nghiệm là phản ứng phi nhân dã man của công ty. Trong luật Mỹ ngày nay, các công ty được xác định như các (pháp) nhân, nhưng ở Buffalo Creek, như trong hầu hết những trường hợp thảm họa công ty khác, chúng tỏ ra là vô nhân đạo và bất khả xâm phạm khủng khiếp đối với sự hấp dẫn con người như các ngân hàng trong tiểu thuyết Grapes of Wrath (Những chùm Nho Phẫn nộ) của Steinbeck:

Các sinh vật đó không hít thở không khí, không ăn thịt ba chỉ. Chúng hít thở lợi nhuận; chúng ăn tiền lãi … Ngân hàng là cái gì đó khác con người. Tình cờ là mọi người trong một ngân hàng ghét những gì nó làm, thế nhưng ngân hàng vẫn làm. Ngân hàng là cái gì đó nhiều hơn con người, tôi nói với bạn. Nó là con quái vật. Con người tạo ra nó, nhưng họ không thể kiểm soát nó.4

Chính bạo lực đạo đức, và sự vắng mặt của bất kể sức bật cộng đồng nào để chống lại nó, là cái thực sự gây đau đớn. Những người trải qua một sự trải nghiệm phá vỡ-cuộc sống như vậy, từ chối lời xoa dịu công lý hay thậm chí sự từ thiện, sẽ bi quan. Họ sẽ có quyền để kết luận, như một nhân vật trong tiểu thuyết Stella Maris (Nữ thần Biển Cả-Ngôi sao Biển cả) [2022] của Cormac McCarthy diễn đạt, rằng ‘một con quỷ thâm hiểm và vĩnh cửu nằm tại lõi của thực tế’.5

Nó còn tồi tệ hơn khi, theo từ ngữ của Erikson, thảm họa sâu sắc chất đống trên đỉnh của thảm họa kinh niên. Một thảm họa kinh niên sẽ gồm những lực vô luật lệ của sự nghèo, sự suy sụp khu vực, sự thất nghiệp và trầm cảm dài hạn gây ra ‘những cái chết tuyệt vọng’. Một thảm họa như vậy tập hợp lực từ từ và ngấm ngầm, lẻn quanh những sự phòng thủ của người ta hơn là đập vỡ chúng. Người không có khả năng huy động những sự phòng thủ bình thường của mình chống lại mối đe dọa, đôi khi bởi vì hắn cố ý hay vô ý chọn để bỏ qua nó, đôi khi bởi vì hắn được thông tin sai về nó, và đôi khi bởi vì hắn chẳng thể làm gì để tránh nó dù sao đi nữa.6

Trong trường hợp Buffalo Creek, thảm họa đã được tích tụ hàng thập niên. Công ty khai mỏ mà trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh đã cai trị những người lao động của nó với bàn tay sắt, khủng bố những người tổ chức công đoàn với sự giúp đỡ của cảnh sát địa phương, đã khiến phần lớn lực lượng lao động của nó trở nên (đồ) có thể dùng một lần (rồi vứt đi) qua tự động hóa trong thời hậu-chiến. Dân cư suy giảm, và những người bị bỏ lại đằng sau đã có ít ‘kỹ năng có thể chuyển’, đã phải nổi loạn theo lối nói trại. Bị thương vì việc làm, ốm yếu với phổi đen, lo về con trai của họ làm việc trong các mỏ, những người bị bỏ lại phía sau thường cam chịu cuộc sống nhờ phụ cấp khuyết tật trong khi con cái của họ xây dựng cuộc sống ở nơi khác. Theo tường thuật của Erikson, họ không nghèo một cách tuyệt vọng – lương cho những người tiếp tục khai mỏ đã không nhỏ – nhưng họ đã giảm đi. Và khi thảm họa gay gắt giáng xuống, họ bị tác động mạnh. Họ bị rét, bị ướt và tê cóng. Họ lang thang đó đây hỏi han những người thân yêu. Rồi, họ bị phản ứng lạnh lùng của công ty làm cho sỉ nhục và bất lực một cách tàn bạo, họ trải nghiệm những gì, mà Erikson nói, tương đương với một ‘chấn động tâm lý’, tạo ra một sự san bằng cảm xúc, một ‘sự im lặng ảm đạm’, và một sự rút lui ẩn dật của kẻ sống sót sang rìa ngoài cuộc sống. Trong đó người sống sót bị bỏ lại với cái chuyên gia phục hồi thảm họa Lucy Easthope gọi bằng từ tiếng Welsh hiraeth: khao khát một nơi không có đường về.7 Rất giống như sự lớn lên.

Nếu đấy là cái thảm họa tạo ra, thì nỗi ám ảnh, chứng cuồng thảm họa (catastrophilia) của cách hữu, niềm vui sờ sờ mà với nó họ dự đoán ngày tận thế, sẽ dường như chẳng có mấy để chào mời cho những người sống sót. Hàng triệu người bình thường, mà cuộc sống của họ đã bị tan vỡ bởi các thảm họa lớn và nhỏ, xã hội và cá nhân, cấp tính và mãn tính, đã không bị cực đoan hóa sang bên hữu. Thế nhưng từ một quan điểm khác chứng cuồng thảm họa có thể là một phương thuốc cho bệnh trầm cảm. Đối với một số người, mà sự an toàn bản thể bị phá vỡ một cách đau đớn, nó có thể đưa ra một sự xoắn trị liệu của cảm giác lo lắng thành mong muốn. Nhà thần học Công giáo Thomas Merton đã cảnh báo, hàng thập niên trước, về những gì có thể xảy ra với những điềm lờ mờ về những con người giả trang như kiến thức tận thế: ‘Nỗi sợ hãi bệnh hoạn về sự kết thúc hung bạo … khi được khấy động đủ, thực sự trở thành một hy vọng được cải trang mỏng manh cho sự kết thúc hung bạo.’8

Điều này hấp dẫn với ai? Có lẽ chẳng ai khác ‘người đàn ông bé nhỏ’ mà Wilhelm Reich viết về trong nghiên cứu tâm thần sinh dục của chủ nghĩa phát xít trước chiến tranh. Trong chừng mực anh ta bị ám ảnh bởi ‘một sự hỗn hợp giữa các xúc cảm nổi loạn và các ý tưởng xã hội phản động’ và ‘bị nô dịch và khao khát quyền uy và tại cùng cuộc nổi loạn,’ anh ta cần một sự nổi loạn mà bảo vệ trật tự xã hội. Nhà tâm lý học xã hội Michael Billig, trong nghiên cứu của ông về ý thức hệ phát xít, đã tìm thấy rằng các đối tượng của ông theo hầu hết cách đã không phải là khác thường về tâm lý: họ không bị triệu chứng loạn thần cấp tính (floridly loạn tinh thần) cũng chẳng nhất thiết trong sự kìm kẹp của một ‘tính cách độc đoán’. Cái phân biệt họ là, đối diện với những thay đổi đột ngột và khó chịu, họ có khuynh hướng cá nhân hóa nỗi đau đớn. Những điều không may của chúng ta không phải là kết quả của các hệ thống hay các tình huống: sự kiện kẻ xấu nào đó đã làm điều này với chúng ta. Hoặc, như Michael Barkun diễn đạt: ‘Chẳng gì xảy ra ngẫu nhiên cả. Âm mưu ngụ ý một thế giới dựa vào sự chủ ý.’ Giống những người bị hoang tưởng được nhà phân tâm học Darian Leader mô tả, họ nhắm để ‘tố giác hoặc gây libido (ham muốn tình dục) xấu trong người Khác’.9

Thế giới quan âm mưu (conspiracism) giải thích vấn đề theo một cách có thể đòi hỏi sự báo thù đẫm máu, có thể thậm chí kéo theo một sự xét lại triệt để kết cấu của thực tế, nhưng vẫn né tránh sự cần thiết cho sự thay đổi xã hội triệt để. Cái cần bị phá hủy không phải là hệ thống, mà là nhân sự. Và nó cũng có nghĩa rằng mối đe dọa thảm khốc, còn xa mới tránh được, lại được hoan nghênh. Billig gợi ý rằng những kẻ phát xít có thể thậm chí thích được bị đe dọa: ‘tôi … chỉ muốn bị đe dọa một lần,’ một người được phỏng vấn giải thích. Bởi vì khi đó anh ta có thể ‘đánh lại’.10

Lợi thế xúc cảm của chủ nghĩa phát xít đã luôn là khả năng của nó để ghi nhận tính khốc liệt của thảm họa, tôn trọng nó và ‘đánh lại’ nó. Trump nhắc đến ‘sự chém giết Mỹ’ do ‘những kẻ chủ trương toàn cầu hóa’ gây ra. Tuyên truyền QAnon đổ lỗi ‘NHỮNG KẺ TỘI PHẠM’ cho ‘các nhà máy bị phá hủy, số việc làm giảm đi, những người ốm yếu hơn, các thuốc opioid, sự phá hủy Iraq, Syria và Yemen với chiến tranh vô nghĩa, sự di dời người vào châu Âu, ISIS, chủ nghĩa khủng bố, các chính phủ sụp đổ, nghèo khổ và nạn diệt chủng’. Theo lời của Clara Zetkin, chủ nghĩa phát xít ‘kích động và lôi cuốn các đám đông xã hội rộng mà đã mất sự an toàn trước kia về sự tồn tại của họ và với nó, thường, mất niềm tin của họ vào trật tự xã hội’.11 Noshwas hẹn rằng sự tin cậy và sự an toàn cộng đồng có thể được xây dựng lại, với sự đổ máu lớn nhưng với cái giá tối thiểu cho trật tự xã hội, bên trong không gian linh thiêng của một dân tộc được thanh lọc.

II.

Nếu giả như những người ở vùng nông thôn của bang Oregon đang tìm một mối đe dọa, nó đang hoành hành quanh họ ở nhiệt độ lên đến 800°C.12

Hành tinh, với ánh nắng, nhiên liệu hữu cơ, bầu không khí giàu oxy, và không khí rít với sét của nó, được xây dựng cho sự cháy định kỳ. Sét đánh xuống trái đất 100.000 lần một ngày, và 10 đến 20 phần trăm của các cú sét đánh này gây ra cháy. Trong vùng Tây Bắc Thái bình Dương, trong cái nóng mùa hè, nhiên liệu cạn kiệt và gió nóng khô thổi từ phía đông. Chỉ một tia lửa trong hoàn cảnh này có thể kích một ngọn lửa xé toạc rừng và bụi cây với những ngọn lửa dài hàng mét. Cháy rừng là một hiện tượng tư nhiên mà, trong hoàn cảnh bình thường, các hệ sinh thái thích nghi. Nhưng trong ba thập kỷ qua, cường độ, mức độ và độ dài của các vụ cháy rừng ở vùng Tây Bắc đã tăng lên do nhiệt độ nóng hơn do thay đổi khí hậu gây ra.13

Trong tháng Chín 2020, cháy rừng quét qua dãy núi Cascade ở miền Tây Oregon, cuốn lên các sườn núi phủ đầy những rừng thông giàu-nhiên liệu và các thú vật gấu, dê, chó sói và chuột marmot, bị oxy hóa và bị gió thái bình dương mạnh như bão đẩy qua các đỉnh dãy núi, cho đến khi nó tràn qua đồng bằng và các cánh rừng nông thôn như lava (dung nham). Gió mạnh đã thổi bùng các vụ cháy rừng hiện có thành các vụ đại hỏa hoạn và đánh sập đường dây điện tạo ra nhiều hỏa hoạn hơn. Vụ cháy này đã là một trong những mùa cháy rừng tồi tệ nhất trong lịch sử Oregon, và là một trải nghiệm siêu thực, gây chấn thương sâu sắc. Những người bị tác động tin cậy vào ai? Trong vùng nông thôn Oregon, hầu như không có tin tức địa phương, kết quả của hàng thập niên phá dỡ. Theo Trường Báo chí Medill của Đại học Tây Bắc, Hoa Kỳ ở trên đường để mất một phần ba số các tờ báo của nó vào năm 2025. Cũng chẳng có một sự tăng lên bù lại về chất lượng của các (báo) số thay thế. Những gì còn lại cho những người đói thực tế là các trang cộng đồng trên Facebook, hay các app như Nextdoor.14

Cùng với sự xuống cấp này của các hệ sinh thái thông tin, có thảm họa kinh niên được báo hiệu bởi sự nghèo đói, nghiện ngập, tự tử và ‘những cái chết tuyệt vọng’. Nông thôn Oregon đã chẳng bao giờ phục hồi từ đại Suy thoái 2008: tám năm sau suy thoái, việc làm đã vẫn 8,8 phần trăm dưới mức trước-suy thoái. Vì sự suy giảm của nghành gỗ của bang, công việc sẵn có trước suy thoái cũng đã chẳng trả nhiều tiền. Các việc làm ở các phần nông thôn của Oregon bị lệch theo hướng lương tối thiểu. Kết hợp với sự thiếu giao thông công cộng và chăm sóc sức khỏe, điều này đóng góp cho tỷ lệ nghèo chính thức cao trong các hạt nông thôn.15

Đối với nhiều người, một tai nạn khác của đại Suy thoái là ý chí để sống. Trong một bang nơi sự tự tử là nguyên nhân lớn thứ tám của cái chết, tỷ lệ tự tử tại các hạt nông thôn như hạt Deschutes đã tăng lên mỗi năm kể từ 2010. Những nông dân, ngư dân và thợ đốn gỗ là đặc biệt là những người dễ bị ảnh hưởng. Bang này có tỷ lệ nghiện hút cao thứ hai ở Hoa Kỳ, với riêng nạn nghiện rượu tác động đến 12 phần trăm dân Oregon trong 2020, đúng khi khủng hoảng nghiện Fentanyl cất-cánh. Khi Covid-19 đến trong năm đó, nó đã đặc biệt tàn bạo trong các hạt nông thôn. Trong khi sự lây truyền đã thấp hơn, tỷ lệ những người bị nhiễm chết vì virus – tỷ lệ tử vong ca bệnh – đã là 26 phần trăm cao hơn các hạt đô thị. Sức khỏe tâm thần đã tồi đi, và những người bị nghiện thường bị cho quá liều.16

Rồi có các thảm họa cấp tính. Trong mùa hè 2020, giữa sự khốn khổ của đại dịch Covid-19 và sau hàng tháng bị phong tỏa bắt buộc, nhiều người hơn bình thường đã nấu ăn ngoài trời, góp phần cho một bước nhảy về tỷ lệ của các vụ cháy rừng ‘do con người gây ra’ từ 70 phần trăm lên 90 phần trăm.17 Trong một mùa cháy rừng kỷ lục, tổng cộng 2.027 vụ cháy, thiêu rụi 1.221.324 mẫu. Số lượng đất được bảo vệ bị cháy là mười ba lần số trung bình trong thập niên trước. Hơn 400.000 người, khoảng 10 phần trăm dân số của bang, đã buộc phải sơ tán, và hàng ngàn ngôi nhà bị phá hủy. Ngang vùng Tây Bắc, 33 người bị chết trong các đám cháy.18 Ba năm muộn hơn, cư dân vẫn bị run rẩy. ‘Tôi vẫn có các cơn ác mộng mỗi đêm,’ một người nói. ‘Tôi sụp đổ,’ người khác giải thích, sau khi bà mất nhà mình. ‘Mọi thứ sau đó, cố gắng chiến đấu để có được sự hỗ trợ, cố gắng chiến đấu để có được thông tin … thật đúng làm cạn kiệt xúc cảm.’19

Với phần lớn Bờ Tây trong lửa, một số dân cư từ chối sơ tán. Họ nghe rằng các nhà hoạt động ‘Antifa’ đã cố ý gây ra các đám cháy như phần của một cuộc chiến tranh chống lại những người Oregon, bảo thủ, Kitô giáo, phần lớn da trắng nông thôn. Nó đã là ‘Chủ nghĩa khủng bố Nội địa của các lính đánh thuê của Đảng Dân chủ’. Và dân cư đã sẵn sàng liều mạng sống của họ để ở lại và chiến đấu. Các đội viên dân phòng dựng các điểm kiểm tra vũ trang. Graffiti cảnh báo, ‘Những kẻ cướp bóc sẽ bị bắn.’ Một người đàn ông, căn cứ vào lệnh sơ tán mức ba (có nghĩa rời đi ngay lập tức, hoặc đối mặt với nguy hiểm chết người), giải thích vì sao ông từ chối rời đi: ‘Tôi đang bảo vệ thành phố của mình. Nếu tôi thấy mọi người làm bậy, tôi sẽ làm họ tổn thương.’ Các tin đồn, bất chấp cảnh sát từ chối và FBI bác bỏ, đã có được ảnh hưởng tựa-chính thức. Tại Hạt Clackamas, một phó cảnh sát trưởng đã cảnh cáo trên radio địa phương rằng ‘bọn khốn Antifa đang gây ra địa ngục, và có rất nhiều cuộc sống bị đe dọa và rất nhiều tài sản của mọi người bị lâm nguy bởi vì bọn này có mối thù truyền kiếp nào đó.’ Không bao lâu sau, luận điệu được Tổng thống Trump tweet lại.20

Đây là một kỳ ảo tận thế tập thể, tự phát. Nó bắt đầu nổi lên từ nhiều tài khoản media xã hội ngày 4 tháng Chín: bên thứ ba báo cáo rằng ‘Antifa ở trong thị trấn’, cảnh hay các ảnh mơ hồ với các chuyện kể nham hiểm về các nhà hoạt động bị bắt với ‘rìu và lon gas’ gắn lại, một mô tả của một buổi phát thanh địa phương tường thuật rằng Antifa đã bắn vào những lính cứu hỏa. Antifa, viết tắt cho Antifascist Action (Hoạt động chống Phát xít), là một phong trào phân tán mà những người ủng hộ của nó đối mặt thể chất với cực hữu bất cứ nơi nào họ huy động. Nhưng trong các tin đồn này, họ giống một âm mưu nổi dậy hơn. Hình ảnh đó về sự nổi loạn Antifa được thiết lập tốt vào lúc các tin đồn bắt đầu. Trong mùa hè 2017, các YouTuber theo thuyết âm mưu bắt đầu tiên đoán một cuộc nổi dậy Antifa vào ngày 4 tháng Mười Một sẽ khủng bố những người da trắng, những người Kitô giáo và những người ủng hộ Trump. Mặc dù cuộc nổi dậy chẳng bao giờ xảy ra, ý tưởng đã thấm vào các văn hóa cực-hữu rộng hơn. Nó được hợp nhất vào tiểu-văn hóa QAnon trên 4chan, nơi ‘ các anon’ bắt đầu suy đoán – dựa vào các post của ai đó tự cho là được cấp phép (an ninh) mức-‘Q’ trong chính phủ – rằng Hillary Clinton sắp bị bắt, và quân luật được công bố: sự tiên đoán khác mà sự thất bại không thể tránh khỏi của nó đã chẳng làm gì để làm giảm sức tưởng tượng của nó đối với các tín đồ.21

Trong 2020, cuộc nổi dậy Black Lives Matter (BLM)– phong trào phản kháng lớn nhất trong lịch sử Mỹ, nổ ra sau khi cảnh sát giết George Floyd – cho ý tưởng sức mạnh mới. Khắp bốn mươi mốt thành phố, đã có tin đồn về xe bus chất đầy Antifa Black Lives Matter thâm nhập với kế hoạch để kích động bạo lực và sự cướp bóc. Lại lần nữa, câu chuyện được các YouTuber âm mưu dẫn dắt, nhưng đôi khi nó được hậu thuẫn ‘chính thức’, từ các nguồn đa dạng như Phòng Thương mại Sioux Falls, Tổng thống Trump và ứng viên đại biểu quốc hội ủng hộ-QAnon Marjorie Taylor Greene. Hơn nữa, các tài liệu bị rod rỉ cho thấy rằng các luận điệu vô căn cứ tương tự đã được cảnh sát, FBI, Bộ Nội An và các cơ quan chính thức khác theo đuổi hàng tháng trước các vụ cháy rừng. Ý tưởng về các nhà hoạt động gây ra hỏa hoạn cũng chẳng hoàn toàn bị bịa đặt. Đã có hàng tá trường hợp cố ý gây hỏa hoạn trong các cuộc phản kháng Black Lives Matter, và một số nhà hoạt động từ Seattle đã bị bắt ở Kenosha, Wisconsin, với các can xăng.22

Tuy nhiên, những tin đồn, sự nổi lên tự phát của chúng từ nhiều nguồn và tính bền bỉ của chúng đối mặt với sự bác bỏ của cảnh sát đòi hỏi sự giải thích nào đó. Lý do đầu tiên cho sự nghi ngờ của dân cư là đấy là một trong những mùa cháy rừng phá hủy nhất được ghi nhận cho tiểu bang. Như một post (bài đăng), được nhà địa lý học Laura Pulido trích dẫn, khăng khăng: ‘Các vụ hỏa hoạn này không chỉ bỗng ngẫu nhiên xuất hiện từ không đâu, đúng một số đã bắt đầu từ các vụ hỏng đường điện vân vân nhiều vụ hỏa hoạn này xảy ra đồng thời nói chung ‘là quá lạ.’ Người đăng đã đúng. Một số vụ hỏa hoạn đã bắt đầu từ các đường điện hỏng: trong năm 2023, PacifiCorp bị buộc phải trả 90 triệu $ thiệt hại vì quyết định liều lĩnh của nó để không cắt đường điện trong một cơn bão mạnh. Nhưng mức độ và tính nghiêm trọng của các vụ hỏa hoạn quả thực là ‘quá lạ’. Chẳng có gì tự nhiên về thảm họa cả. Như Ben Wisner và các đồng nghiệp của ông đã chứng minh, không có ‘thảm họa tự nhiên’ thuần túy nào vì tất cả chúng bị điều kiện hóa bởi ‘tính dễ bị tổn thương xã hội’. Các tính dễ bị tổn thương của những người Oregon nông thôn được gây ra về mặt xã hội bởi các lực trừu tượng và xa xôi hơn ngay cả chính phủ liên bang. Hơn nữa, đã có một cảm giác kỳ lại về ‘sự nén thời gian’ trong các sự kiện, như các khủng hoảng sâu sắc tiếp sau trong sự kế tiếp nhanh chóng, từ đại Suy thoái đến đại dịch. Trong riêng 2020, Covid-19 và những khó khăn của cái chết hàng loạt và sự phong tỏa đã tiếp sau bởi một cuộc nổi dậy chống-phân biệt chủng tộc mà những người Oregon bảo thủ trải nghiệm như một sự đổ vỡ đe dọa trật tự xã hội. Cảm giác thời gian tăng tốc này là kinh nghiệm điển hình trong những thời khắc tận thế.23

Là không chắc, ngay cả nếu họ có thể tin cậy vào một hệ thống tin tức địa phương sống động, rằng những người Oregon bảo thủ sẽ đổ lỗi sự biến đổi khí hậu cho các vụ hỏa hoạn tận thế. Nhiều cư dân muốn, và họ rõ ràng bị kích động bởi, một mối đe dọa giống hơn với một kẻ thù mà họ có thể chiến đấu với theo nghĩa đen. Một post điển hình gợi ý rằng Antifa đang chiến đấu bẩn thỉu bởi vì nó đã là ‘cách duy nhất họ có thể chiến đấu’ chống lại ‘những người thôn quê/bảo thủ hơn’ mà ‘sẽ chịu thua trong cuộc cãi lộn’. Biến đổi khí hậu là một sự trừu tượng mà các nguồn của nó chỉ có thể được mô tả với những sự trừu tượng thêm nữa, như ‘chủ nghĩa đế quốc hóa thạch’. Những sự trừu tượng chẳng thể bị kiện cũng chẳng thể bị bắn. Ngoài ra, nhiều người Oregon nghĩ chủ nghĩa môi trường là một cái cớ cho nhà nước tự do để kiểm soát đời sống của họ. Một hình mẫu tương tự đã diễn ra rồi trong mùa cháy rừng ở vùng nông thôn bắc California trong 2018. Nhiều người địa phương, miễn cưỡng để đổ lỗi cho sự biến đổi khí hậu, đã chia sẻ các tin đồn đổ lỗi cho chính phủ liên bang và những chính sách bảo vệ môi trường của nó. Một tin đồn cho rằng một người điều hành xe ủi ngoài phiên làm việc của sở Cứu hỏa Cali đã đề nghị dùng máy ủi của ông để kiểm soát ngọn lửa chỉ để bị một đặc vụ của chính quyền, một người bảo vệ công viên, cảnh cáo bởi vì nó sẽ tác động có hại đến những loài bản địa. Theo một phiên bản của tin đồn, ông thậm chí đã bị đe dọa bị bắt vì việc xâm phạm đất liên bang.24

Tuy vậy, trong trường hợp này sự phụ thuộc vào các nền tảng công nghiệp xã hội như Facebook và Nextdoor là cần thiết để tạo ra một cấu trúc niềm tin vào tin đồn. Niềm tin không phải là một hành động cô lập. Tất cả chúng ta đều tin vào hàng ngàn dữ kiện (fact-sự thực), mặc dù chúng ta không biết về bằng chứng cho chúng. Trong việc tin, chúng ta cho ai đó tín dụng trong niềm tin chắc rằng nó sẽ được hoàn trả. Và phần của lý do của chúng ta cho việc làm thế là chúng ta biết những người khác tin vào cùng thứ. Luôn luôn có cái mà Michel de Certeau gọi là một ‘mạng lưới bí mật’ của những tín đồ duy trì bất kể niềm tin nào, dù nó là niềm tin vào Chúa God, media, khoa học hay đồng tiền quốc gia. Vì sự sụp đổ của niềm tin vào ‘media dòng chính’ và sự đổ vỡ của các liên minh xã hội mà duy trì niềm tin, sự tin cậy có thể được đặt rõ ràng vào ‘các nguồn thay thế’ nếu một ngưỡng đủ của sự ủng hộ được trao một cách tự phát cho các lý thuyết không có chuyên mô của họ: đấy là logic của sự lây xã hội. Cảm giác rằng, đột nhiên, ‘tất cả mọi người đều nói cùng thứ’ là một chiều khác của kinh nghiệm tận thế.25

Trong lịch sử Hoa Kỳ, các tin đồn thành công tập trung vào các âm mưu đã hầu như luôn luôn là về chủng tộc. Terry Ann Knopf mô tả ‘các tường thuật rằng các nô lệ có kế hoạch đốt trụi thành phố New York; các cuộc họp được cho là khuyến khích các nô lệ cắt cổ các chủ nô của họ; các tiên đoán về nhiều nô lệ chạy trốn hơn, các cuộc bố ráp kiểu–John Brown và các cuộc nổi dậy nô lệ’. Nhưng các tin đồn cháy rừng đã không nhận diện sự nổi dậy da đen như mối đe dọa chính, cho dù chúng bị ám ảnh bởi bóng ma ‘diệt chủng da trắng’ do cực hữu tiên tri. Đúng hơn, chung với một truyền thống lâu dài của tư duy âm mưu Mỹ, chúng thấy một bàn tay đằng sau các sự kiện. Nó đã là ‘Đảng Dân chủ’, ‘báo chí dòng chính’ dối trá và ‘hệ thống’ mà đã ‘bảo vệ những kẻ khủng bố antifa và BLM’.26

Thế thì, sẽ là không đủ để bắn các nhà hoạt động Antifa ngay cả nếu giả như có thể tìm thấy họ, hơn sẽ là đủ chút nào cho các nhà hoạt động cánh-hữu để bắn những người biểu tình Black Lives Matter hoặc đâm họ bằng xe của mình (đã có ít nhất năm mươi trường hợp được ghi lại về việc này trong các cuộc biểu tình BLM).27 Theo ngụ ý, để chặn cuộc tấn công thảm khốc của chủ nghĩa khủng bố giai cấp-cai trị chống lại những người da trắng bảo thủ, toàn bộ cơ sở của quyền lực tự do phải bị phá hủy.

III.

Bất cứ nơi nào những thuyết âm mưu đột nhiên xuất hiện, chúng ta tự hỏi: Ai ở đằng sau việc này? Ai đang giật dây? Chúng ta trở thành những lý thuyết gia âm mưu của những thuyết âm mưu. Chúng ta nghĩ, để dùng từ ngữ của nhà báo Alexi Mostrous, rằng những người ủng hộ thuyết âm mưu có thể được chia thành giữa ‘các nạn nhân’ và ‘những kẻ thao túng’.28

Ngụ ý mong muốn là có các nhà sản xuất vô liêm sỉ và những người tiêu dùng dễ bị lừa. Những người cố tình gây lạc lối, vì lợi nhuận hay sự chú ý, và những người ngây thơ bị lừa dối. Những người sau có thể được cứu chỉ nếu chúng ta có thể làm mất tín nhiệm những người trước. Có lẽ khi media đại chúng là một hệ thống một-chiều, và tuyên truyền hoạt động trên nguyên tắc gợi ý, thì điều này là có vẻ hợp lý. Mặc dù ngay cả khi đó, Hannah Arendt chỉ ra rằng tuyên truyền đại chúng có thể luôn luôn giả thiết một sự sẵn lòng từ phía công chúng của nó để tin điều tồi tệ nhất. Và nếu một lời nói dối bị vạch trần, họ sẽ ‘phản đối rằng họ đã biết từ lâu rằng tuyên bố (của các nhà lãnh đạo) là một lời nói dối và thán phục các nhà lãnh đạo vì sự tài giỏi chiến thuật vượt trội của họ’.29 Trên internet, chúng ta là cả các nhà sản xuất và những người tiêu dùng, và chẳng ai vô tội cả.

Thuyết âm mưu, từ một góc nhìn, là tin đồn di căn. Và tin đồn không chỉ là thuyết không chuyên môn. Một tin đồn là một ước mơ, và một ước mơ là một sự thực hiện-mong muốn. Hặc, để diễn đạt theo cách khác, tin đồn sắp xếp sự thực hiện của một mong muốn không thể chấp nhận được, một mong muốn mà người ta không muốn. Các tin đồn bày tỏ, và giải quyết một xung đột cảm xúc sâu sắc trong thành ngữ giống ước mơ của chúng. Các tin đồn sẽ không di căn thành các thuyết âm mưu, tích lũy và giành được các tâm hồn, giả như không có đám đông người khát khao những gì chúng chào mời. Những khát khao như vậy, tất nhiên, không nổi lên có vũ trang đầy đủ và sẵn sàng cho cuộc chiến với nhà nước ngầm. Nhưng để cho các tin đồn được cải biến thành lợi nhuận và vốn chính trị, phải có những người mong muốn để được cải biến. Họ phải cảm thấy trong xương tủy của họ rằng họ cần thay đổi. ‘Chúng tôi muốn được cải biến’, nhà phân tâm học Adam Phillips viết, ‘bởi những người có thể rõ ràng giải quyết được các xung đột không thể chịu đựng được nhất của chúng tôi.’30

Hãy xét, chẳng hạn, một tin đồn gần đây về một ‘kẻ săn mồi phòng tắm’ chuyển giới. Cánh hữu Mỹ đã bị ám ảnh với ý tưởng này lâu trước khi có bất kể bằng chứng nào về bất kể ai đã từng bị một người phụ nữ chuyển giới hiếp trong phòng tắm, nói chi đến bằng chứng về điều này trở thành một xu hướng. Trong 2021, các nhà báo Fox News, các luật sư Cộng hòa và các nhà hoạt động Trump đã bị điện giật bởi tin đồn về một việc nhìn thấy được xác nhận về một con thú như vậy. Theo tin đồn, một cậu bé được nhận diện như ‘không nhị-giới’ đã bị một cô gái hiếp trong nhà tắm nữ ở trường học. Điều này đến đúng khi các trường sắp đưa vào một chính sách cho phép trẻ em chuyển giới tiếp cận phòng tắm phù hợp với bản sắc giới của họ. Quả thực đã có một vụ được cho là hiếp, nhưng phần về đứa trẻ ‘không nhị-giới’ đã sai. Vụ tấn công đã giống vụ hiếp hẹn hò hơn, một câu chuyện quen thuộc đáng buồn, hơn là sự tưởng tượng cánh hữu về những kẻ săn mồi chuyển giới.31 Hành vi của cậu con trai, điều này gợi ý, đã liên quan nhiều hơn với các các cậu con trai được hòa nhập xã hội để nghĩ về con gái và gới tính, hơn là với các quyền chuyển giới. Nhưng nếu những người tự do Mỹ sẽ xem việc này như ‘nam tính độc hại’, một sản phẩm dư thừa của trật tự tình dục mà những người ghét chuyển giới muốn bảo vệ, còn cánh hữu Mỹ cần nó để trở thành một khủng hoảng nữ tính độc hại: của các cậu con trai bị một chương trình nghị sự chuyển giới nham hiểm chuẩn bị và làm đồi bại.

Trong ví dụ này về nghề lái buôn-tin đồn bị công cụ hóa, thì ‘các nạn nhân’ và ‘những kẻ thao túng’ ở đâu? Là khó để xem Fox News và các nhà hoạt động Cộng hòa, chẳng hạn, như chỉ những kẻ ngu đần bị một người cha giận dữ lừa gạt (nguồn rõ ràng của chi tiết về kẻ bị cho là hiếp dâm là không-nhị giới). Và còn vô số tin đồn khác mà đã nhận được sự khẳng định rộng rãi thì sao? Tin đồn, dẫn đến một cuộc thảm sát chủng tộc ở East St Louis, Illinois, trong 1919, rằng những người da đen địa phương đang âm mưu để giết và hãm hiếp hàng ngàn người da trắng? Luận điệu, tại Orléans trong 1969, rằng các thương gia Do thái đang đánh thuốc mê các nữ khách hàng nhằm để bán họ làm nô lệ? Câu chuyện, kích động cuộc cuộc tàn sát gujarat ở bắc Ấn Độ trong 2002, rằng những người Muslim đã đánh bom cháy một tàu hỏa với những người Hindu hành hương ở nước ngoài? Hoặc cái gọi là tin đồn #pizzagate theo đó những người Dân chủ đang vận hành một ổ buôn trẻ em qua những đường hầm ngầm liên kết với một quán pizzeria ở thủ đô Washington, mà đã dẫn đến một cuộc tấn công vũ trang chống lại quán ăn sao chổi Ping Pong? Có thể thực sự rằng trong mỗi trường hợp có một tác giả ranh ma, tìm kiếm-sự chú ý, và tất cả những người khác là một kẻ ngây thơ bị bịp? Không.

Niềm tin chẳng bao giờ là vô tội cả. Như nhà thần học (và nhà phân tâm học được nhắc tới ở trước) Tad DeLay gợi ý, ‘niềm tin là sức tưởng tượng (fantasy)’ mà hợp lý hóa hành vi có gốc rễ trong những xung lực mờ đục hơn. Điều này không nhất thiết là một phê phán, vì là không thể để duy trì bất kể loại đời sống xã hội hay chính trị nào mà không có sức tưởng tượng chung. Chính qua fantasy mà chúng ta tổ chức và duy trì các mong muốn chung của chúng ta, và sự sụp đổ của các sức tưởng tượng tập thể không phải không liên quan đến sự giảm sưng tấy của mong mỏi và sự trầm cảm tràn lan được mô tả trong chương 1. Thuyết âm mưu, ở mức độ đó, đáp ứng với sự trầm cảm và sự chán nản của đời sống tư bản chủ nghĩa muộn, gợi ý những khả năng ẩn hay chưa được vét cạn trong một thời đại kiệt sức. Nó mô hình sự khao khát và làm cho cuộc sống thú vị trở lại. Nhưng ngang thế, không ai bị buộc để tham gia vào một fantasy. Nếu tôi đồng ý để tưởng tượng về các kịch bản khủng khiếp, đầy khêu gợi mà về tính thực tế của chúng tôi không có bằng chứng tốt nào, tôi không chỉ đơn giản thiếu ‘kỹ năng phê phán’ hoặc ‘hiểu biết media’: fantasy đang làm cái gì đó cho tôi. Nó đang sắp đăt cái tôi muốn, cho dù tôi không muốn để muốn nó. Và nếu fantasy đó sau đó được rất nhiều người khác chấp nhận, vì không lý do chính đáng nào, thì mong muốn rõ ràng không thể quy giản về bệnh học tâm lý cá nhân mà có gốc rễ trong một điều kiện xã hội chung.

Ví dụ, tiếp sau sự đổ vỡ tài chính toàn cầu 2008 và các thảm họa nảy sinh từ chính sách khắc khổ, đã có sự tăng nổi bật về khối lượng của các fantasy chống-Soros. George Soros đầu tiên đã xuất hiện như một cột-đánh-đòn (whipping post) và kẻ ăn tội (sin-eater) đối với cánh hữu ở Đông Âu sau sự sụp đổ của Liên Xô. Chủ nghĩa dân tộc chống-semitic bùng phát từ vỏ bọc hư nát của sự chuyên quyền duy lý hình thức nhưng tùy tiện của chủ nghĩa Stalin được phóng vào tầng bình lưu bởi các chính sách ‘liệu pháp sốc’ tai họa được áp đặt lên các nền kinh tế do nhà nước-quản lý trước kia với mệnh lệnh của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Việc này đã làm giàu cho một nomenklatura mới, nhưng cũng gây ra hàng trăm ngàn cái chết dư dôi và một sự tăng vọt về tội phạm anomic (phi chuẩn mực) như giết người.

Tại Hungary, nơi sinh của Soros, các hậu quả còn xa mới là tồi tệ nhất, nhưng tiền lương thực tế tuy nhiên đã giảm 14 phần trăm giữa 1990 và 1992, trong khi tội giết người đã tăng 43 phần trăm giữa 1989 và 1991. Soros đã khởi xướng Quỹ Xã hội Mở của ông trong năm 1979, nhắm để quảng bá quan niệm của Karl Popper về ‘xã hội mở’ dựa vào chủ nghĩa đế quốc và nền dân chủ tự do, và ông đã làm việc với chế độ Kádár János của Hungary và Tướng Wojciech Jaruzelski ở Ba Lan để thúc đẩy cải cách dựa vào-thị trường. Thật mỉa mai, một trong những người hưởng lợi từ ông là kẻ bất lương tương lai của ông, Orbán Viktor, mà đã nhận trợ cấp Xã hội Mở để nghiên cứu tại Pembroke College, Oxford. Từ đầu các năm 1990, media cánh hữu Hungari đã làm việc để ‘vạch trần’ mục tiêu bí mật của Soros để nghiền nát ‘ý thức quốc gia Hungari’. Csurka István, một chính trị gia hàng đầu của Diễn đàn Dân chủ Hungari, mô tả Soros như bù nhìn của ‘Jerusalem’. Đồng minh của ông Zacsek Gyula nói rằng Soros đang xây dựng một ‘đế chế’. Những phép chuyển nghĩa tương tự nổi lên ở Rumania láng giềng, nơi cực hữu dân tộc chủ nghĩa đã là dòng chính hơn nhiều. Cái khiến Soros đặc biệt khó chịu với cánh hữu Hungari, tận tâm khôi phục danh dự của chế độ giữa hai cuộc chiến tranh của Đô đốc Horthy Miklós, là ông (Soros) là một người sống sót Holocaust trong một nước nơi chính phủ Horthy đã bận rộn với việc giải thoát đất nước khỏi những người Do thái của nó và đã trao hơn nửa triệu người Do thái cho bọn Nazi.

Tuy nhiên, chỉ đến những năm 2010 thì các lý thuyết như thế mới trở nên toàn cầu. Ở nước Nga, khi Putin liên minh với cực hữu để đánh bại các đối thủ của ông bên cánh tả, Soros bị đổ lỗi cho các phong trào chống-chính phủ. Ở Hungary, khi Orbán áp đặt một sự gián đoạn hiến pháp nhồi (người của mình vào) các tòa án, kiểm soát báo chí và rút lại sự thẩm vấn nghị viện, Soros bị lên án vì cố gắng đưa ‘một triệu người Muslim’ vào châu Âu ‘mỗi năm’. Kể từ đó, ảnh hưởng của ông ở mọi nơi đều bị lên án vì mọi thứ mà cách hữu ghét. Trump đổ lỗi cho ông vì việc điều phối các cuộc phản kháng chống lại sự xác nhận Brett Kavanaugh như một thẩm phán Tòa án Tối Cao. Benjamin Netanyahu cáo buộc ông lan truyền tuyên truyền chống-Likud ở Israel, và con trai ông Yair Netanyahu cáo buộc rằng ông ta (Soros) đang ‘phá hủy Israel từ bên trong’. Sorin Grindeanu của chính quyền Rumania cáo buộc ông ta vì các cuộc biểu tình chống-tham nhũng. Vladimir Putin cáo buộc các cuộc biểu tình xã hội dân sự của nước Nga cho các NGO do Soros tài trợ. Ở Hungary, nơi Soros sinh ra, Orbán Viktor và đảng Fidesz của ông vẽ chân dung Soros như ‘kẻ điều khiển con rối’ di cư Muslim đến Đông Âu. Mỗi ngày 12 tháng Tám, vào ngày sinh nhật của George Soros, cực hữu quốc tế bây giờ tổ chức ‘Ngày Quốc tế Chống lại George Soros’.32 Soros là một nhân vật tương phản hữu ích cho cực hữu bởi vì ông ta rất giàu có, đầy quyền lực và sẵn sàng dùng quyền lực đó để ủng hộ sự nghiệp tự do. Tuy nhiên các tin đồn chẳng bao giờ có thể bén rễ nếu nhiều khủng hoảng kinh tế và xã hội, không nhắc đến làn sóng phạm tội của giai cấp-cai trị không bị trừng phạt trước sự sụp đổ tài chính, đã không thiết lập các điều kiện thèm muốn cho sự hấp thu chúng. Nói cách khác, những người tin đã không chỉ là những người bị bịp: họ đã muốn nó.

Từ một góc nhìn khác, thuyết âm mưu là chuyện hoang đường. Chuyện hoang đường, bất chấp các bước lặp âm mưu của nó và vai trò lịch sử của huyền thoại trong ý thức hệ phát xít, không nhất thiết là một lời nói dối. Như Mary Midgley diễn đạt, các huyền thoại là ‘các hình mẫu tưởng tượng … gợi ý những cách cá biệt để diễn giải thế giới’. Chúng đi vòng quanh, và đẻ ra các biểu tượng về các khía cạnh bí ẩn của sự tồn tại, như sự sinh, giới tích và cái chết. Các chuyện hoang đường phân biệt chủng tộc, như ‘kẻ hiếp dâm da đen’ hay ‘người Indian ăn thịt người’, thường ám chỉ đến một trong những bí ẩn này. Chúng hầu như luôn luôn bén rễ, Karen Armstrong viết, ‘vào kinh nghiệm chết và nỗi sợ tuyệt chủng’, như trong chuyện hoang đường đương thời về ‘sự diệt chủng da trắng’.33

 ‘Kẻ săn mồi phòng tắm’ rõ ràng là một chuyện hoang đường theo nghĩa này. Bất chấp sự giả khoa học của những người ghét chuyển giới, mà theo họ giới được xác định về mặt sinh học, chuyện hoang đường không thực sự liên quan đến sinh học. Nó là việc kiểm soát bằng cảnh sát các khía cạnh biểu tượng, xã hội của giới tính. ‘Kẻ săn mồi phòng tắm’ tóm tắt mối đe dọa mà văn học ghét chuyển giới nói những người phụ nữ chuyển giới là: một sự chiếm, và cuối cùng sự trụy lạc và vi phạm, không gian nữ, bởi đàn ông lệch lạc. Điều này có thể được xem cho cái nó là: không chỉ chuyện hoang đường mà là ảo tưởng (fantasy) thủ dâm. Và, giống tất cả các ảo tưởng như vậy, theo Jamieson Webster, đề cập một cách tĩnh lược với các vấn đề về ý nghĩa của giới, đàn ông, đàn bà, các ông bố, các bà mẹ, sự thụ tinh và sự sinh đẻ.34

Trong khía cạnh này, chuyện hoang đường ‘kẻ săn mồi phòng tắm’ có một mối quan hệ nổi bật với huyền thoại đô thị về ‘cậu bé bị thiến’ mà đầu tiên trở nên nổi tiếng với các bà mẹ ở Bắc Mỹ trong các năm sáu mươi. Trong hầu hết các phiên bản của huyền thoại này, một cậu bé năm tuổi đi thăm một trung tâm mua sắm với mẹ nó đã đi vào phòng tắm. Sau một thời gian trôi qua, bà mẹ lo âu nhờ ai đó điều tra, và cậu bé được tìm thấy nằm trên sàn nhà, máu đầm đìa và bị thiến. Trong hầu hết, nhưng không phải tất cả, các phiên bản của câu chuyện này kẻ tấn công là da đen và nạn nhân là da trắng. Rằng không chuyện nào như thế đã từng xảy ra đã không chặn huyền thoại xuất hiện khắp nơi, có lẽ bởi vì tính Oedipality [tính phức cảm Oedipú] (thủ phạm dường như là người thay thế cho cha, mà bản thân ông chỉ là một sứ giả của sự khao khát mâu thuẫn của bà mẹ) hầu như sáo rỗng của nó.35 Như chúng ta sẽ thấy trong chương 3, các thuyết âm mưu bị ám ảnh với các kịch bản gợi tình như vậy.

Các chuyện hoang đường chính trị hiện đại mạnh mẽ nhất, tuy vậy, là về quyền lực và cách mạng. Tại gốc của thế giới quan âm mưu chính trị hiện đại là một huyền thoại về sức mạnh lật đổ, được bịa ra để đối phó với cách mạng Pháp. Trong năm 1797, hai cuốn sách xuất hiện đồng thời. Đấy là cuốn năm-tập Mémoire pour servietterr à l’histoire du jacobinisme (Hồi ức phục vụ cho lịch sử chủ nghĩa jacobin) của Abbé Barruel, và Proofs of a conspiracy against all the religions and governments of Europe, carried on in the secret meetings of Free Masons, Illuminati and Reading Societies (Bằng chứng về một âm mưu chống lại tất cả các tôn giáo và chính phủ Âu châu, được thông qua trong các cuộc họp kín của các Hội Tam Điểm, Illuminati và Đọc) của John Robison. Cả hai đã quy trách nhiệm cách mạng cho một âm mưu lâu-hàng thế kỷ của các hội kín (từ Order of Templars [Dòng Đền] đến hội Tam Điểm), vì sự tấn công lên tôn giáo và uy quyền chính trị. Ở đây là một thế giới chính quyền hình thành trong bí mật. Vào 1806, thành phần của âm mưu Do thái được thêm bởi một phóng viên bí ẩn có tên J. B. Simonini, mà đã bảo Barruel rằng ông ta đã là đương sự của âm mưu của họ, và rằng họ đã tích lũy vàng và bạc để chi trả cho một cuộc nổi dậy mà sẽ phá hủy các triều đại cai trị của châu Âu và tước quyền chiếm hữu của những Kitô hữu.36

Lý thuyết này về chế độ toàn trị avant la laettere (chưa hoàn bị) là khuôn mẫu mà từ đó các chuyện kể âm mưu hiện đại – từ Protocols of the Elders of Zion (Các biên bản của các Bô lão Zion) đến ‘New World Order-Trật tự Thế giới Mới’ – được tạo ra. Thật lạ lùng nó mường tượng trước chủ nghĩa phát xít ‘chống-phát xít’ của, chẳng hạn, những người cực-hữu phủ nhận Covid cảm thấy mình là những người nổi loạn chống lại chế độ toàn trị xảo quyệt được việc đeo khẩu trang minh họa bằng thí dụ (và vài trong số họ, bất chấp sự tham gia của họ trong các phong trào cực-hữu, thậm chí đã tự gọi mình là ‘Hoa Hồng Trắng (The White Rose)’ theo tên của phong trào đối lập bất bạo động ở nước Đức Nazi).37 Các lý thuyết cực-hữu đương thời về sự tiếp quản toàn trị, của một ‘Đế chế (Reich) thứ Tư [Reich thứ Ba là của Hitler]’ hay một cuộc đảo chính cộng sản do Covid-gây ra, trong chừng mực này chỉ là việc xào lại và sửa lại tư liệu cũ-hàng thế kỷ. Người ta có thể hỏi nếu có một sự an ủi trong những niềm tin như vậy, mà ngụ ý rằng ít nhất có ai đó chịu trách nhiệm mà biết chính xác cái gì đang xảy ra.

Các giấc mộng thảm họa ma quỷ học như vậy không nhất thiết luôn luôn là một ‘lệnh diệt chủng’, như Norman Cohn diễn đạt trong lịch sử thuyết âm mưu chống-semitic của ông. Sự hấp dẫn văn hóa to lớn của thế giới quan âm mưu, và những biểu hiện khác nhau của cái ác âm mưu (các cơ quan tình báo trong phim The Conversation, các công ty trong phim The Parallax View, một giai cấp cai trị nước ngoài trong They Live, giáo hội công giáo trong The Da Vinci Code) cho thấy là mơ hồ về mặt chính trị hơn một lời phán quyết như vậy sẽ gợi ý. Cho dù thế giới quan âm mưu có khuynh hướng cần các quái vật, những sự tưởng tượng của nó không cần luôn là phân biệt chủng tộc hay loại trừ: các tiểu văn hóa âm mưu của các năm 1990, chẳng hạn, đã thấm đẫm một sự cởi mở mơ hồ với ‘alt’ và ‘alien (ngoại kiều)’, và chúng chảy lộn xộn vào phong trào chống-chiến tranh của thập niên tiếp.

Thuyết âm mưu ngày nay, Fredric Jameson nói, là một cố gắng để đại diện cho ‘toàn bộ xã hội’ ở mức tưởng tượng theo cách tránh ‘kiểm duyệt tự do và chống-chính trị’. Dù lý thuyết có loạn trí đến thế nào, nó có thể nghi vấn một cách triệt để các định chế chi phối mà, quả thực, phải chịu trách nhiệm. Trong những câu chuyện dân gian công nghệ cao của thế giới quan âm mưu đương thời, pha trộn ma thuật, khoa học và công nghệ, chính các công ty dược khổng lồ, các hãng viễn thông, và tỉ phú Bill Gates có nghĩa là cái ác. Vaccine Covid-19, theo Naomi Wolf, là một hình thức làm mất tính người của chiến tranh sinh học, làm tê liệt các công trình tâm linh của chúng ta, hủy hoại năng lực của chúng ta để yêu, thậm chí loại bỏ mùi người riêng biệt của chúng ta: chúng ta trở thành những con ma. Các trạm phát sóng 5G mới, David Icke nói, là các trụ điện phát ra một ‘đám bức xạ độc do công nghệ điện-từ tạo ra’ hủy hoại hệ thống miễn dịch của những người già và gây ra những cái chết bị quy cho Covid-19. Các vaccine, theo thuyết âm mưu ID2020, chứa một chip nhận dạng tần số radio – được đặt cho cái tên là ‘dấu của thú’ – mà cho phép Bill Gates theo dõi mọi người sống trên trái đất.38

Có sự thật ẩn dụ nào đó trong những sự đảo ngược biện chứng của dreamwork* này, trong đó y khoa làm chúng ta ốm yếu và truyền thông giữ chúng ta xa cách. Các công ty dược khổng lồ không chỉ giả mạo các kết quả thử nghiệm – chúng cũng phịa ra sự nhận thức về bệnh tật: ‘lái buôn-bệnh tật’ đã là một thực hành thương mại khét tiếng từ lâu. Còn về truyền thông, là không khó để xem các nền tảng mạng xã hội, tự nhận là đưa chúng ta lại với nhau, cũng hoạt động để giữa chúng ta cô lập: ‘một mình cùng nhau (alone together)’, như Sherry Turkle diễn đạt.39 Cũng đơn giản đúng thế rằng các công ty công nghệ lớn, được nhân cách hóa trong chuyện hoang đường bởi một Bill Gates Quỷ quái, theo dõi sự chuyển động của chúng ta. Tuy vậy, câu hỏi là vì sao các vấn đề này nên được ẩn dụ hóa trước hết. Có lợi lộc gì?

Như Naomi Klein chỉ ra, quái vật tự do quá hiển nhiên rằng ‘các dụng cụ theo dõi ở trong điện thoại của chúng ta, ngốc ạ’ không bắt đầu phát hiện ra nguyên nhân của nó: chúng biết điều đó rồi. Nhưng phân tích giấc mơ đã biến đổi các vấn đề chính trị thành các sức tưởng tượng gợi tình về sự thâm nhập thân thể, sự bày tỏ cả về ham muốn và một sự phản công chống lại ham muốn. Nhưng ham muốn nào hoạt động ở đây? Sự diễn giải Freudian về phân tích-giấc mơ là rõ ràng rằng ham muốn vô thức không được tiết lộ trong ‘nội dung giấc mơ tiềm ẩn’, dù nó có khó chịu hay gợi tình đến thế nào. Đúng hơn, ham muốn, như Slavoj Žižek diễn đạt, ‘tự đan xen vào khoảng trống giữa ý nghĩ tiềm ẩn và văn bản rõ ràng’. Chính trong công việc bóp méo, các cơ chế hóan dụ và ẩn dụ, mà ham muốn vô thức giấu bản thân mình. Điều đó đang xảy ra trong phân tích-giấc mơ này, chẳng hạn khi ý tưởng về các công ty big tech theo dõi chúng ta trở thành một sự tưởng tượng về sự thâm nhập; kết quả là để biến đổi một mạng lưới của các quyền lực thường ganh đua, cả tư bản chủ nghĩa và nhà nước, mà sự bất lực của chúng để làm chủ các hệ thống làm lợi cho chúng bị phơi bày trong nhiều khủng hoảng, thành một trung tâm chỉ huy toàn năng và thông suốt mọi thứ. Tiền cược ở đây là ham muốn mâu thuẫn của nhà âm mưu về chế độ toàn trị, như một giải pháp cho khủng hoảng uy quyền.40

Không ngạc nhiên rằng trong thực tiễn các chuyện hoang đường này gây ra một lực kéo tới cánh hữu, đúng như Roland Barthes thấy rằng các chuyện hoang đường nói chung tích tụ bên cánh hữu. Thế giới quan âm mưu đương thời thường hoạt động ‘theo đường chéo’, để dùng thuật ngữ của phong trào Querdenken chống-phong tỏa của Đức. Nó thu hút những sự quan tâm có thể được những người tiến bộ có giáo dục, hoài nghi nhưng nhanh chóng kéo họ vào thế giới quan của cánh hữu tận thế. Querdenken là một ví dụ xuất sắc về xu hướng này. Ban lãnh đạo của phong trào gồm các cá nhân đủ loại từ cánh hữu bí truyền, chống-semitic hay Nazi-mới. Nhưng việc nó huy động chuyện hoang đường, về một sự hợp nhất toàn trị của quyền lực nhà nước và dược phẩm đe dọa tự do cá nhân bằng việc xâm nhập vào thân thể, đã hấp dẫn nhiều người tiến bộ mơ hồ trong thời đại tân tự do.

Vào đầu các cuộc biểu tình chống-phong tỏa ở Đức, khi hàng chục ngàn người tụ tập ở Berlin trong tháng Tám 2020, hầu hết những người ủng hộ Querdenken đã ít quan tâm đến cực hữu. Trước đây họ đã bỏ phiếu trắng hay cho các đảng như đảng xanh hay đảng Die Linke. Nhưng bây giờ, họ tìm kiếm một sự bày tỏ chính trị mới: 92 phần trăm nói họ sẽ không bỏ phiếu cho bất kể đảng ‘dòng chính’ nào. Trung bình họ hết sức có giáo dục và thuộc tầng lớp trung lưu mạnh mẽ, với những người làm việc-tự do được đại diện đặc biệt quá mức. Họ ngờ vực sự xâm nhập của chính phủ, vaccine, media và các nhà khoa học. Trong một chừng mực, như William Callison và Quinn Slobodian diễn đạt, họ đã làm việc cùng nhau ‘để được bỏ lại một mình’.41

Ham muốn này đã có thể tương thích hoàn hảo với chủ nghĩa tiến bộ bien pensant (phải đạo) trong một thời đại tân tự do bị chi phối bởi chuyện hoang đường cá nhân tự chủ. Là chuyện hoang đường, vì cá nhân đã chưa bao giờ yếu, chưa bao giờ bị vùi dập đến thế bởi các lực vô cảm, phi-cá nhân, trừu tượng như ‘thị trường’. Nhưng trong cấu trúc của cảm giác do chuyện hoang đường gây ra, người ta luôn phải tính lợi thế của mình đối lại những người khác: những người khác luôn luôn là rủi ro. Trong thời đại dịch, chúng ta biết để xem bản thân mình như một rủi ro tiềm năng cho những người khác, một lập trường đòi hỏi sự hy sinh cá nhân. Chủ quyền cá nhân đột ngột trở thành phản-văn hóa. Cảm giác hoảng loạn về sự mất chủ quyền cộng hưởng với chứng sợ xã hội thịnh hành của cực hữu, kéo theo khẳng định rằng bất kể sự hạn chế cộng đồng nào của các quyền tự do cá nhân đều là chuyên chế: ‘cách ly xã hội là chủ nghĩa cộng sản’ và ‘khẩu trang là sự bịt mõm’. Điều này cũng chẳng hoàn toàn mới: nỗi sợ về cá nhân bị hủy diệt bởi quần chúng phát xít thống nhất từ Pierre Drieu de La Rochelle đến José Antonio Primo de Rivera, nhà sáng lập của nhóm dân tộc chủ nghĩa cực đoan Falange. Rochelle nhắm để ‘giết chủ nghĩa nhà nước bằng việc dùng nhà nước’. Đối với Rivera, ‘Chúng tôi chống-Marxist bởi vì chúng tôi kinh hãi … về việc trở thành một động vật thấp kém trong tổ kiến.’42

Trong các tiểu văn hóa Telegram phát đạt mà qua đó hàng trăm ngàn người ủng hộ Querdenken nhận được thông tin của họ, tư liệu được chia sẻ bị áp đảo không cân xứng từ các nguồn tân-phát xít hay QAnon. Phong trào đã là một bộ máy cải biến, biến sự hoảng sợ đối với chủ nghĩa cá nhân bị đe dọa thành ham muốn độc đoán. Dù nó có đóng góp hay không cho sự giết một nhân viên trạm xăng Đức từ chối phục vụ một khách hàng từ chối đeo khẩu trang, hay đã khiêu khích vô số sự đe dọa giết người chống lại các bác sĩ Đức ủng hộ vaccine, hay xui khiến những người Querdenken sử dụng Telegram để lập kế hoạch ám sát một nhà lãnh đạo bang Saxony vì việc ủng hộ những hạn chế đối với người không tiêm vaccin, nó có thể được xem như một sự dịch chuyển dứt khoát theo hướng tới cánh hữu rộng rãi mà, vào 2023, đã thấy đảng cực-hữu Alternative für Deutschland (AfD) dấy lên vị trí thứ hai trong các cuộc bỏ phiếu trước đảng Dân chủ Xã hội.43

Sự đại diện quá của tầng lớp trung lưu trong các phong trào như vậy thật ấn tượng, vì chuyện hoang đường mạnh nhất bên cánh hữu là về một ‘tầng lớp trung lưu đức hạnh’ bị ép giữa một elite bội bạc và một tầng lớp hạ lưu hèn hạ. Dù nó lấy hình thức nào, chuyện hoang đường phản động về cơ bản là phản-lật đổ, khi nó đổ lỗi liên minh hung ác này giữa các elite cướp bóc và loài-dưới-người nổi loạn để phá hủy một xã hội truyền thống hạnh phúc hơn. Có một mối quan hệ thu hút lẫn nhau giữa các truyện hoang đường phản-lật đổ này, nhắm tới những người Do thái, Muslim, phụ nữ, da màu, những người ngoài, những công nhân cấp tiến và những người cộng sản, và khoa ma quỷ học âm mưu. Cả hai tham gia vào cái Joel Kovel và Michael Rogin mô tả, dùng các thuật ngữ phân tâm học Kleinian, như ‘chia tách-splitting’: nơi các phần không thể chấp nhận được, bạo lực và loạn chức năng của xã hội bị chia tách ra và bị phóng chiếu vào một người ngoài xâm lấn mà phải bị diệt.44

Trong một sự biện chứng kỳ lạ, những người ủng hộ thuyết âm mưu cuối cùng thường ủng hộ một phiên bản của chủ nghĩa độc đoán mà họ được cho là phản đối. Các giấc mơ thảm họa về những bị đau đớn có thể được xem theo cách này như một loại lập kế hoạch trước đầy sức tưởng tưởng, một sự chuẩn bị tâm lý cho việc trích máu (bloodletting).

IV.

Ý tưởng mong muốn rằng những người ủng hộ thuyết âm mưu có thể được chia ra giữa những bị bịp và những kẻ man trá là một cố gắng tuyệt vọng để bảo vệ cái Jean Baudrillard gọi là ‘nguyên tắc thực tế’.

Theo Baudrillard, ‘nguyên tắc thực tế’, mà với nó có thể phân biệt giữa ‘thực’ và ‘giả’, bị tấn công. Như ông đã viết trong đầu các năm 1980 rồi, loài người bị chìm trong một biển của các hình ảnh-hàng hóa, từ Hollywood đến Disneyland, mà đã không đại diện mấy một thực tế cơ sở như mô hình một siêu-thực tế mới về mặt thuật toán. Trong lãnh địa này, không có sự khác biệt giữa thật và giả.45 Baudrillard đã có thể không đoán trước sự nổi lên của các nền tảng mạng xã hội như Facebook và TikTok, mà qua đó bây giờ hàng tỷ người tiến hành cuộc sống xã hội của họ, và trên đó cuộc sống xã hội được trung gian hóa bởi một dòng chảy của các hình ảnh số được những người dùng tạo ra một cách tập thể. Các vật thay thế giả tạo đã tiếp quản theo một cách chưa từng thấy. Thường nghe nói rằng internet không phải là ‘cuộc sống thật’, nhưng đối với hàng tỷ người nó là thực tế được trải qua của họ, và thường là một thực tế sống động hơn các đồ hay những người thân yêu quanh họ.

Chiến lược của các chính phủ và media di sản nhắm để khẳng định nguyên tắc thực tế gồm ‘fact-checking (việc kiểm tra-dữ kiện)’ miệt mài và thúc đẩy ‘hiểu biết media’. Chiến dịch này, được tiến hành trên địa hình của các vật thay thế giả tạo, thường có hiệu quả như một ấm trà sô cô la. Tuy vậy, phù hợp với cách tiếp cận đó, một số nghiên cứu gần đây gợi ý rằng lý do mọi người tin sự tung thông tin sai lệch (disinformation) trên internet là bởi vì họ đơn giản quá tin cậy: họ là những người bị bịp, sẵn sàng bị những kẻ man trá gây lầm lạc. Theo những phát hiện này, các thế hệ già hơn thiếu hiểu biết media chắc ít có khả năng kiểm tra các nguồn (tin) của họ. Họ cho rằng bất kể tuyên bố nghe có vẻ có thẩm quyền nào đều phải chính xác. Ngụ ý rằng, những sự cải thiện thế hệ về sự hiểu biết sẽ kiến cuộc sống khó hơn cho những kẻ nói dối.46

Một vấn đề với những nghiên cứu như vậy là chúng dựa vào thói quen tự-báo cáo của người dùng, mà không nhất thiết là đáng tin cậy. Những nghiên cứu khác dùng các phương pháp khác tìm thấy rằng những người dùng trẻ hơn trên cũng có khả năng chia sẻ sự tung thông tin sai lệch, như được gợi ý bởi những người trẻ trên TikTok giải thích rằng Helen Keller đã không tồn tại, tự nhận là những người sống sót của một hình thức lạm dụng sùng bái được biết đến như ‘RAMCOA’ (ritual abuse, mind control and organised abuse [sự lạm dụng nghi lễ, kiểm soát tâm trí và sự lạm dụng có tổ chức], một sự cập nhật về quan niệm bị mất uy tín của Satanic Ritual Abuse [sự Lạm dụng Nghi lễ Satanic]), hay việc gia nhập thế giới dữ tợn của sự hâm mộ Andrew Tate.47 Một vấn đề lớn hơn nhiều là sự tin cậy chắc không có khả năng là nguồn sẵn sàng để tin sự tung thông tin sai lệch.

Tri thức là một vấn đề về đức tin. Hầu hết tri thức của chúng ta phụ thuộc vào sự tin cậy vào những người khác, và sự tin cậy phải ít nhất là mù một phần. Điều này là ngược với trực giác: Làm sao chúng ta có thể biết bất cứ thứ gì mà về nó chúng ta ở trong bóng tối? Nhưng điều đó đúng, và đúng trên hết vì các nhà khoa học mà phụ thuộc vào tính chuyên nghiệp và và đạo đức của các đồng nghiệp của họ, đặc biệt khi mỗi lĩnh vực nghiên cứu trở nên phức tạp hơn. Ví dụ, một nghiên cứu về đo lường các hạt duyên dáng (charm particles-là các hạt cơ bản hardron do các quark charm hay các quark khác tạo ra) cần chín mươi chín tác giả với những chuyên môn khác nhau bởi vì tính phức tạp của mỗi bước trong quá trình đo. Họ đã không thể đạt bất cứ thứ gì nếu họ không có được sự tin cậy của các đồng nghiệp của họ. Như John Hardwig diễn đạt trong nghiên cứu của ông về tri thức khoa học:

Những người mà không có sự tin cậy không thể biết; những người mà không có sự tin cậy không thể có bằng chứng tốt nhất cho các niềm tin của họ … Thế thì, sự biết thường không phải là một trạng thái tâm lý học đặc quyền. Nếu nó có là một trạng thái đặc quyền chút nào, nó là một trạng thái xã hội đặc quyền.48

Cái áp dụng cho các nhà khoa học chắc chắn mô tả phần còn lại của chúng ta, mà phải chấp nhận về sự tin cậy một dải rộng các tuyên bố về chiến tranh, môi trường tự nhiên, khoa học, lịch sử thế giới hay nền kinh tế. Chúng ta có thể có các lý do khách quan tuyệt vời cho việc tin cậy các nguồn của chúng ta, nhưng sự tin cậy cũng được neo vào một hình thức của cuộc sống tập thể kỳ lạ. Sự tin cậy xã hội phụ thuộc vào một sức tưởng tượng về các giá trị chung và lịch sử, một không gian công mà các nhà phân tâm học Lacanian gọi là ‘cái Khác lớn (big Other)’, và mà có thể là hạn độ (measure) của đời sống của chúng ta và sự thừa nhận các quyết định của chúng ta. Điều này, chính ý tưởng rằng chúng ta có bất cứ thứ gì chung chút nào ngoài các bộ lạc văn hóa của chúng ta, là cái bị phá vỡ trong những năm gần đây.49

Nếu tri thức là một ‘trạng thái xã hội’, thì sự thoái hóa của tri thức là một hệ quả của sự xói mòn xã hội đó. Trong các khoa học thực nghiệm, sự tin cậy đã bị xói mòn bởi sự tăng nhanh của sự thông thái rởm, các bài báo được các công ty thuê viết và sự câu kết của giới hạn lâm được cho là độc lập trong các chiến lược marketing của các công ty họ hợp tác với. Trong media, sự tin cậy đã bị xói mòn bởi sự thiên vị chính trị rõ ràng của các chủ sở hữu, ảnh hưởng của các nhà quảng cáo, sự hợp nhất của tin tức với thông tin giải trí, sự lên của ‘churnalism (churn+ jouralism) làm báo sao chép)’ và các nền tảng mạng xã hội thịnh vượng nhờ chuyển sự tăng sự chú ý do thông tin giải trí gây nghiện tạo ra thành thu nhập quảng cáo. Trong cuộc sống hàng ngày, sự suy đồi của sự tin cậy giữa cá nhân, mà có vẻ hơi tiến bộ hơn giữa các thế hệ trẻ hơn, khiến thậm chí lời chứng của các hàng xóm của chúng ta là đáng ngờ.50 Những gì còn lại trong tình huống này, được nói trại một cách đáng thương như ‘post-truth (hậu-sự thật)’? sự tin cậy ủy thác, cuối cùng là trong sự minh bạch (sự trong suốt) của thực tế với sự phản ánh có ý thức: nếu không ai khác nói sự thật cho tôi, chí ít tôi có thể thấy nó cho bản thân mình. Và còn lại cái gì từ đó khi các vật thay thế giả tạo tiếp quản?

Chủ nghĩa phát xít lịch sử đã đặt sự tin cậy của nó vào chuyện hoang đường. Chủ nghĩa dân tộc tai họa, đến tuổi trưởng thành trong thời đại internet, tin cậy vào các vật thay thế giả tạo. Đối với phong trào phát xít giữa hai cuộc chiến tranh, sự thật đã không phải là bất cứ thứ gì có thể được các khoa học thực nghiệm nhận thức rõ, các phát hiện của chúng đã chỉ tình cờ đúng sự thực. Nó cũng đã chẳng là bất cứ thứ gì vượt qua được lưới của tính dễ hiểu duy lý. Như Federico Finchelstein mô tả nó, sự thật được đồng nhất với ‘một chuyện hoang đường huyền ảo có gốc rễ trong vô thức tập thể’ của một dân tộc chờ đợi sự hiện thân trong ‘ý thức về một lãnh tụ’. Những biểu hiện cuối cùng của sự thật này đã không phải là trong tư duy, mà trong hành động: bạo lực bán-quân sự, các cuộc tàn sát, đảo chính, thanh lọc giết người.51

Điều đó vẫn mô tả thích đáng những kẻ phát xít mới bám chặt vào các phiên bản của ‘Âm mưu Thế giới Do thái-Tam điểm’, các Zionist cánh-hữu với huyền thoại ‘máu và đất’ của họ và các nhà dân tộc chủ nghĩa Hindu với sự tôn sùng Hindutva của họ. Nhưng chủ nghĩa dân tộc tai họa ngày nay được phân biệt bởi cố gắng của nó để biến một tác phẩm cóp nhặt của các chuyện hoang đường quen thuộc thành siêu thực tế. Nó bắt đầu bằng việc tận dụng triệt để một sự không tin cậy thực tế nảy sinh từ cách theo đó các mối quan hệ xã hội ngày càng được các hình ảnh số dàn xếp. Những người ủng hộ Donald Trump, chẳng hạn, có thể cho rằng các cuộc trò chuyện được ghi lại trong đó ông thú nhận sở hữu các tài liệu bí mật chắc có khả năng là ‘các deepfake-đồ giả do AI tạo ra như thật ’. Điều này là đáng ngờ nhưng, trong một khung cảnh trong đó chiến dịch của Ron DeSantis trong cuộc bầu cử sơ bộ cộng hòa bị tóm khi dùng các ảnh do AI-tạo ra về Trump ôm Dr Anthony Fauci, thì không thực sự vô lý.52 Thế thì mọi thứ đều có khả năng là một ‘deepfake’. Mọi thứ từ các cuộc tấn công khủng bố lên World Trade Centre và Lầu Năm góc, đến tư cách công dân của Obama, sự đồng thuận khoa học về biến đổi khí hậu, đại dịch covid-19, sự hạ cánh xuống mặt trăng, kết quả của cuộc bầu cử tổng thống 2020 và thậm chí (hay đặc biệt) Holocaust có thể được ‘nhìn thấu’ như các thực tế bị thao túng.

Ví dụ, một câu chuyện trang bìa trên một tờ báo âm mưu cực-hữu Anh, The Light, hỏi: ‘Tất cả chúng ta đều bị tẩy não ư?’ Nó hỏi: ‘Làm sao bạn biết, nếu tất cả mọi người đều trải qua cùng sự thao túng … rằng bạn thực sự trong một giáo phái đa số?’ Nó tiếp tục để trích các ví dụ như ‘cuộc khủng hoảng khí hậu giả’ và một tình huống trong đó những người đàn ông ‘có thể tự tuyên bố mình là đàn bà’. Đây là chế độ ăn tương đối nhẹ cho một tờ báo thường xuyên công bố sự phủ nhận Holocaust.53 Sự hoài nghi rằng thực tế đồng thuận là một sự lừa bịp đồ sộ, cực kỳ khó hiểu mà trong đó hầu hết mọi người là những người tham gia mù quáng: họ, những con cừu ngoan ngoãn, là những kẻ bị bịp.

Và luôn luôn có một điểm trong thế giới quan âm mưu nơi sự chống giới tinh hoa của nó biến hình thành sự nghi ngờ quần chúng. Ví dụ, một sự thêm gần đây vào kho quan niệm của cực hữu là lý thuyết về ‘sự hình thành quần chúng’. Lý thuyết này mô tả một quá trình trong đó mọi người bị nguyên tử hóa, bị tán thành bột và bị giảm thành vô nghĩa bởi công nghệ, một ý thức hệ Khai Sáng cơ học, và sự cai trị của ‘một diễn ngôn giả khoa học về các con số, dữ liệu và số thống kê’. Trong một trạng thái bị gãy như vậy, quần chúng được hình thành và được hợp nhất lại với nhau bởi một ý thức hệ toàn trị trong đó cả các lãnh tụ và quần chúng đều ‘bị thôi miên’. Họ nội tâm hóa đạo đức của kẻ chỉ điểm và trở nên tuân thủ một cách ghê tởm và bất khoan dung với sự khác biệt. Được nhà tâm lý học lâm sàng Bỉ Mattias Desmet phát triển, lý thuyết hình thành đám đông có xuất xử chủ yếu từ một sự hiểu sai tâm lý học đám đông cũ kỹ.54 Tuy nhiên, thật đáng ngạc nhiên bức tranh ớn lạnh của nó về sự tuân thủ quần chúng được viện dẫn để giải thích hành vi đồng đều bí ẩn như mọi người đeo khẩu trang hay xếp hàng tiêm vaccine trong một bệnh dịch.

Cho đến nay, bất chấp sự tấn công giả-Ngộ đạo của nó chống lại thực tế đồng thuận, chủ nghĩa dân tộc tai họa giữ vững nguyên tắc thực tế. Mô tả một thế giới được mô phỏng, nó mở ra khả năng về một vài người gan dạ khám phá sự thật và khai sáng cho nhân dân. Nhưng thế giới quan âm mưu cực-hữu gần đây đã phát hiện ra một khả năng tiềm ẩn trong các vật thay thế giả tạo: participatory disinfotainment (sự cùng nhau tung thông tin giải trí giả). Thay choi việc nổi loạn chống lại một thực tế được tạo ra một cách nhân tạo, nó cung cấp cơ hội, qua kịch bản nhập vai trực tiếp, để tham gia vào việc sản xuất nó.

V.

QAnon là nhiều hơn một hiện tượng toàn cầu về thế giới quan âm mưu giải trí. Rốt cục, cái gì là hết sức ép buộc về nó? Các luận điệu cốt lõi của nó, rằng thế giới được cai trị bởi một bè đảng Satanic của những kẻ ấu dâm cộng sản, rằng Donald Trump đang lãnh đạo một chiến dịch của ‘những gã tốt’ nắm quyền để hất cẳng bè đảng, và rằng những người sau một cách trêu ngươi trên bờ của một chiến thắng đẫm máu cuối cùng sắp xảy ra mà trong đó quân đột sẽ đặt Trump làm tổng thống suốt đời, đối với những người không thành thạo dường như giống sự giải trí lòe loẹt hơn là tôn giáo thiên niên kỷ chiết trung mà nó là. Tuy nhiên nó không chỉ đã chiêu mộ hàng triệu tín đồ, mà đã làm đảo lộn hoàn toàn cuộc sống của họ, làm họ xa lánh gia đình họ và gây ra các giấc mơ về cuộc nội chiến đẫm máu. Như một người theo Qanon công khai từ bỏ đã diễn đạt, từ bên trong nó trông cứ như ‘mọi người khác sống trong một thế giới mơ ước’.55

QAnon là một bộ máy-chuyển hóa được thiết kế bởi không bàn tay duy nhất nào, biến những người bất khả tri tìm kiếm sự hồi hộp thành những người mộ đạo tận thế, biến các mảnh vụn ý thức hệ của thế giới quan âm mưu thành một tiểu văn hóa độc đoán cố kết và biến sự tăng vọt của sự chú ý được gây ra bằng cách đó thành lợi nhuận của các doanh nhân cực-hữu. Tất cả những cố gắng để định vị một kẻ thao túng tạo hóa đằng sau tất cả việc này đều thất bại. Lúc đầu, dường như đã có nhiều hơn một ‘sự phát hành (drop)’ bí ẩn do ‘Q’ đăng trên Reddit và rồi trên 8chan. Cho dù danh tính của ‘Q Clearance Patriot’ gốc có thể được chứng minh một cách dứt khoát, nó sẽ thêm ít, bởi vì ‘Q’ đã chỉ là người mới nhất trong một đám đông những người được cho là các đặc vụ tình báo cấp cao (FBIAnon, HLIAnon, và vân vân) chủ ý rò rỉ các tư liệu mật cho những người dùng ngẫu nhiên trên Reddit và 8chan. ‘Q’ chỉ gặp may. Ngay cả giả như chỉ có một mưu sĩ, QAnon lẽ ra đã có tác động hạn chế mà không có một loại doanh nhân âm mưu biết quảng bá nó thế nào.

Không lâu sau các post đầu tiên của Q, chẳng hạn, Tracy Diaz, một YouTuber âm mưu nhỏ, được tiếp cận bởi một nhà biên tập Reddit có tên Coleman Rogers và một nhà lập trình web Nam Phi có tên Paul Furber với một đề xuất quảng bá các post của Q. Động cơ của họ thoạt tiên có thể đã không phải là tiền tài, nhưng Diaz đã là một nhà quảng bá hiệu quả. Từ các post và video siêng năng của cô, trong đó cô gợi ý rằng các lời tiên tri của Q nghe có vẻ ‘hợp lệ’, cô đã thu được 90.000 người đăng ký và 8 triệu view. Với mức đó, YouTube bắt đầu trả tiền. Khi QAnon trở nên viral, Rogers và vợ anh, Christina Urso, đã khởi xướng một kênh YouTube livestreaming hai mươi tư giờ gọi là Patriot Soapbox. Chẳng bao lâu sau, họ đăng ký nó như một công ty trách nhiệm hữu hạn. Một doanh nhân âm mưu khác, Jim Watkins, chắc đã là một trong những người đăng như ‘Q’. Watkins đã có kinh nghiệm về việc này, sau khi đã tích tụ được lợi nhuận từ việc vận hành một site khiêu dâm Á châu, và một bảng tin nhắn (message board) cực-hữu có tên 2channel. Công ty của anh ta, N.T. Technology, đăng cai 8chan trong khi ‘Q’ đã đăng ở đó, và vì công ty của Watkins chiếm 60 phần trăm lợi nhuận của 8chan để đổi cho việc đăng cai, QAnon đã cực kỳ sinh lời cho anh ta. Bằng chứng gợi ý rằng, ít nhất trong một thời gian, anh ta hoặc đã soạn các phát hành (drop) được quy cho ‘Q’ hay đã biết ai soạn nó.56

Khi QAnon mở rộng, nó đã thu hút sự chú ý của một cảnh ‘alt-tech (công nghệ-thay thế)’ đang nổi lên, háo hức để ly khai khỏi các gã công nghệ khổng lồ đầu hàng ‘woke (sự thức tỉnh)’ và lợi dụng cầu cho một hình thức hòa nhập xã hội cánh-hữu bị bêu xấu. Đã có lợi nhuận trong lời tiên tri, cả tư bản và linh hồn để được tích tụ. Ví dụ, chiến lược thương mại của [mạng xã hội] Gab, được công bố trong báo cáo thường niên 2018 của nó, là để thu hút khán giả bị hấp dẫn tới Breitbart và Infowars. Việc này đã thành công bởi vì giữa những người dùng của Gab đã có Robert Bowers, người đứng sau vụ thảm sát Synagogue Tree of Life (Nhà thờ Do thái Cây Đời). Và, khi Facebook và Twitter tuyên bố một sự trừng trị thẳng tay các tài khoản QAnon, Gab đã công khai hoan nghênh sự ruồng bỏ với hashtag được ưa thích của họ: #WWG1WGA (where we go one, we go all [nơi một người chúng tôi đi, tất cả chúng tôi đi]).

[Mạng xã hội] Parler, tương tự, định vị mình để lợi dụng khi dịch vụ mạng phân phối Cloudflare cuối cùng rút lại sự ủng hộ của nó cho 8chan trên một chuỗi tấn công sói đơn độc của những người dùng đã đăng các tuyên ngôn của họ trên nền tảng. Được khai trương trong Chín 2018 với sự đầu tư từ gia đình tỉ phú Mercer và YouTuber và nhân vật media triệu phú Dan Bongino, Parler ban đầu đã thử làm mềm cạnh cánh hữu của nó để an ủi Amazon Web Services chứa nó, và Apple, mà đã cho phép app của nó được tải về từ App Store. Nó định vị mình như một không gian cho ‘tự do ngôn luận tuyệt đối’ và, để thực sự bán nó, đã chào 20.000 $ cho chuyên gia tự do đầu tiên đủ cả tin hay cơ hội để đăng ký. Khi 8chan bị hạ xuống, Parler đã là một trong những mạng đầu tiên kiếm được lời từ các Qanoner bị lưu đày. Vào tháng Mười Một 2020, truyền đạt rõ ràng sự nhạo báng về cường độ ‘tự do ngôn luận’ của họ, Parler đã công khai liên kết với cố gắng của chiến dịch Trump để lật ngược kết quả bầu cử, tuyên bố rằng ‘một sự đăng quang sớm’ của Biden ‘sẽ đóng góp cho sự phát tán thông tin sai lạc’. Đấy không chỉ là một nước đi chính trị, mà là việc định vị thị trường cực kỳ khôn khéo: nền tảng đã tăng gấp đôi cơ sở của nó trong vài tuần, đạt 11 triệu người dùng. Nó đã trở thành một hub (trung tâm) của sự khích động #StoptheSteal (Chặn sự Đánh cắp) của những người Cộng hòa lớn tuổi hơn và những người nổi tiếng cánh hữu. Sau hậu quả của ‘cuộc nổi dậy’ tháng Giêng 2020, cho đến khi nền tảng bị Amazon, Apple, Cloudflare và Google đóng cửa mà đáng tiếc không còn có khả năng để hưởng lợi từ sự kích động, số tải app đã tăng vọt.57

Những kẻ lừa đảo nhỏ và các nền tảng alt-tech cũng đã chẳng là những kẻ hưởng lợi chính từ chính trị báo thù tận thế của QAnon. Ngoài lợi nhuận chảy vào các công ty sở hữu hạ tầng ra, các nền tảng công nghệ lớn đã quan trọng hơn 8chan và Parler. Trong năm 2020, đã thấy rằng Facebook có hơn 3 triệu người dùng QAnon. Và ngoài doanh thu quảng cáo được tạo ra từ những người dùng này ra, nó cũng nhận được hàng trăm quảng cáo được đăng nhân danh hay ca ngợi QAnon. Trong riêng một tháng, các thứ này đã mang lại 12.000$. Twitter cũng đã được lợi: chỉ một tá tài khoản ủng hộ QAnon hàng đầu trên nền tảng của nó đã đạt 1.5 triệu người dùng. Trong khi Facebook đã công khai cấm các trang và các nhóm liên quan đến QAnon, nó tiếp tục chứa các trang ‘Stop the Steal’ và đã là hub chính cho việc tổ chức cái trở thành ‘cuộc nổi dậy’.58

Cả Facebook và Twitter (trước Musk), kể từ mùa hè 2020, đã biễn cưỡng bắt đầu loại bỏ nội dung QAnon, và trong việc làm thế đã phơi bày mức độ mà chúng đã liên quan đến sự tăng trưởng của nó. Ví dụ, trong khi Twitter để nguyên nhiều tài khoản lớn hơn ủng hộ QAnon bởi vì chúng thuộc về các chính trị gia hay các nhà báo nổi bật, nó đã dẹp bỏ rồi 70.000 trang như vậy vào tháng Ba 2021. Điều này phù hợp với hình mẫu hành vi của các nền tảng mạng xã hội lớn hơn. Trong hàng năm trời Facebook, YouTube, Twitter và PayPal tất cả đều từ một mối quan hệ hết sức sinh lời với những người nổi tiếng cực-hữu như Tommy Robinson, Alex Jones, Stefan Molyneux, Gavin MacInnes và Richard Spencer và một mạng lưới rộng của các nhà dân tộc chủ nghĩa da trắng, tân-Nazi, những người phủ nhận Holocaust, các nhà hoạt động quyền đàn ông và những kẻ hung hăng thù ghét Islam. Họ càng thu hút sự chú ý mê hoặc, các nền tảng càng thu lợi. Các nền tảng càng thu lợi, chúng càng có khuyến khích để cho phép các nhóm này tăng lên. Chỉ khi chi phí chính trị để duy trì mối quan hệ vượt quá các chi phí chấm dứt chúng thì chúng mới thay đổi hướng.

Thành phần quyết định trong tất cả việc này là những người dùng. Họ là những người ủ men tích cực. Họ đã không chỉ tiếp tục, mà tăng gấp đôi, mỗi lần lời tiên tri của họ ‘bị trật lất’. Tronng việc thử giải thích điều này, nhiều nhà bình luận đã nhắc đến một nghiên cứu kinh điển về một sự sùng bái UFO (Đĩa bay), When Prophecy Fails (Khi Lời Tiên tri Trật lất), của nhà tâm lý học Leon Festinger và các đồng nghiệp của ông. Họ tìm thấy rằng sự trật lất của các lời tiên tri của một nhóm chỉ dẫn những người theo để tăng gấp đôi đầu tư của họ vào niềm tin cốt lõi. Niềm tin của họ na ná như ngụy biện đầu tư chìm được những người buôn bán chứng khoán trải nghiệm, họ càng thua họ càng phải mất bằng việc từ bỏ [tiếc nuối khoản đầu tư đã bị mất nên không từ bỏ mà tiếp tục đâm lao]. Tuy vậy, những nghiên cứu tiếp sau đã không xác nhận điều này.59

Không chắc có khả năng rằng những người tham gia Qanon coi lời tiên tri đã bị trật: chính xác cái gì, khi nào và thế nào của các sự kiện được tiên đoán là chi tiết tình cờ, có thể sửa chữa được. Họ không nghi ngờ rằng lời tiên tri duy trì kết cấu bao quát, hỗn tạp của các luận điệu âm mưu của họ, sẽ được thực hiện. Và họ không hoàn toàn bị đánh lừa về điều này. Rốt cuộc, các giấc mơ có một khuynh hướng đáng báo động để trở thành sự thật, dù hiếm ki theo cách kẻ mơ ước dự định. Một mơ ước chỉ là sự hình thành của một ý định, và ý định là sự hình thành của một hành động: tinh thần trở thành vật chất. Niềm tin của các Qanoner vào lời tiên tri đóng góp cho phong trào để giữ Trump trong quyền lực bất chấp ông đã thua bầu cử trong tháng Mười Một 2020, và cuối cùng niềm tin của họ đã là một sông nhánh của ‘cuộc nổi dậy’ tháng Giêng 2021. Niềm tin, trong định hướng hành động, mường tượng trước thực tế nó đã đoán trước. Và ngay cả khi hành động đó tỏ ra là quá sớm, tham vọng của nó xa trước năng lực thực tế của phong trào để thực hiện nó, các Qanoner đã có khả năng tiếp tục mở rộng vũ trụ giả tạo của họ. Bằng việc cướp một cuộc vận động gây quỹ cho tổ chức từ thiện Save Children (Cứu Trẻ em) và liên kết nó với các luận điệu của họ về mạng lưới buôn bán trẻ em toàn cầu gắn với Hollywood và Đảng Dân chủ, họ đã chiêu mộ vượt quá xa lõi nhân khẩu học của các đàn ông Boomer (sinh sau chiến tranh thế giới II), giận dữ, thậm chí thu hút một số người sống sót sự lạm dụng tình dục trẻ em, và tăng số thành viên của các nhóm của họ với mức được ước lượng là 3.000 phần trăm.60

Cho dù giả như những người tham gia chỉ thua một loại ngụy biện đầu tư chìm bằng việc bám vào niềm tin của họ, điều đó không giải thích cái gì kéo họ tới nó trước tiên. Bản chất tham gia của máy đủ đặc biệt để là sống động, nơi chính trị dòng chính thường hoạt động để làm xa lánh và loại trừ hầu hết mọi người. Quan trọng hơn, QAnon, dựa vào cuộc điều tra về ‘các sự phát hành’ lời sấm tiên tri đầy các dẫn chiếu khó hiểu, các gợi ý mơ hồ và những câu hỏi tu từ kiểu cách, đã tạo ra một trò chơi khai mỏ cho apophenia: trải nghiệm về các mối quan hệ kỳ lạ (xu hướng liên tưởng tìm hình mẫu, ý nghĩa) giữa các thứ dường như không có quan hệ gì. Tiểu luận của Freud về The Uncanny [Cái Kỳ lạ] mô tả làm sao các món vô hại và quen thuộc, được nhân đôi hay lặp lại, có thể đột nhiên xuất hiện gây ớn lạnh, buộc chúng ta ‘ấp ủ ý tưởng về định mệnh và điều không thể tránh khỏi’. Sự cộng hưởng apophenic như vậy là một đặc điểm điển hình của các tiểu văn hóa âm mưu, hoạt động cả như lý thuyết giải trí và phê phán. Những người theo dõi các hình mẫu bí ẩn như vậy thực tế đang nói, đúng, rằng hoạt động thực tế của thế giới thường không thích hợp cho sự quan sát trực tiếp. Để phát hiện các hình mẫu được những sự trùng hợp không thể xảy ra theo thống kê tiết lộ là để thâm nhập vào trái tin bí mật của các thứ.61

Một nguyên nhân biến đổi cho những anon (những người ẩn danh) là bằng việc chơi trò chơi và săn lùng các hình mẫu có vẻ ‘không thể xảy ra’ kết nối ‘các phát hành’ của Q với các sự kiện thực, họ có thể khai mỏ cho các thời khắc apophenic gây choáng váng. Một ví dụ về điều này là khi một anon hỏi Q để khiến Trump dùng cụm từ ‘tip top tippy-top shape (tuyệt đỉnh)’, một cụm từ mà đôi khi Trump đã dùng rồi. Khi Trump dùng cụm từ này trong 2018, tại một buổi Lăn Trứng Phục sinh trên bãi cỏ Nhà Trắng trong khi đứng cạnh một ‘con thỏ trắng’ mang tính biểu tượng, điều này là nhiều hơn sự bù đắp cho sự trật lất của các lời tiên tri của Q. Q sẽ khuyến khích cách tiếp cận này, hỏi những người theo dõi của ông ta, ‘Bạn có tin vào những sự trùng hợp?’ và ‘có bao nhiêu sự trùng hợp trước khi là không thể về mặt toán học?’ Mưu mô là một mồi nhử, khơi gợi sự mong muốn cho một lời giải thích, như ‘Macguffin (vật kích hoạt cốt truyện)’ nổi tiếng trong các phim để xui khiến khán giả tiếp tục xem.62

Nhưng cũng phải có một mong muốn chờ đợi để được khiêu gợi, một sự sẵn sàng cho cuộc phiêu lưu. Với những người thân mòn mỏi vì buồn phiền của họ, những người theo hầu QAnon dường như đột nhiên đã biến thành những người lạ thù địch, hoang tưởng một cách phi lý, nhưng cái gì đó trong họ phải đã cần tình trạng bế tắc tận thế này. Cái gì đó trong họ đã phải đang chờ nó. Cái gì đó, tôi gợi ý, là sự trống rỗng sinh tồn đi kèm với vô số tai họa của các thập niên gần đây, sự tấn công của chúng chống lại kết cấu của sự tin cậy và ý nghĩa, và di sản của chúng trong một sự chán nản và lo âu ngầm, không được nói lên mà đối với nó chủ nghĩa dân tộc tai họa đưa ra một phương thuốc độc nhất và hết sức gây nghiện. Người ta muốn thảm họa có các đường nét của một kẻ thù cụ thể và cá nhân, một kẻ thù mà, không giống các lực lượng trừu tượng thực sự cai trị chúng ta, có thể bị giết trong trận đấu.

Đây là một tội bao che chết người. Trong thực tế kẻ thù được cho là cụ thể hầu như luôn luôn là một sự trừu tượng (‘người Do thái’, ‘người nhập cư’, ‘chiến binh công lý xã hội’) mà các chiều của nó được lấp đầy bằng việc được cathected (tích lũy năng lượng tinh thần) cho huyễn tưởng vô thức (unconscious fantasy). Huyễn tưởng có thể là tôi bị hành hạ và bị săn đuổi bởi cái trong thế giới mà tôi, thực ra, căm ghét và muốn phá hủy. Tôi phóng chiếu sự thù hận của tôi lên thế giới. Hoặc, huyễn tưởng là ai đó trên thế giới, như anh chị em ở bên vú mẹ được St Augustine mô tả, một cách bất hợp pháp đánh cắp sự thích thú của tôi (mà về cơ bản là cái các incel [người độc thân không tự nguyện] lên án phụ nữ làm), nhưng ngược lại thực ra toàn bộ nền kinh tế oán giận và báo thù là nguồn thật của sự thích thú của tôi. Hoặc nó là huyễn tưởng khác nào đó về tư cách nạn nhân mà trong đó tôi kín đáo giải quyết các xung đột bên trong của mình.63 Thật quá rõ ràng làm sao các kịch bản như vậy, bị sự bất công thực tế làm cho có khả năng và bị cánh hữu chính trị hóa, lại trở nên gây nghiện, làm mê hoặc các huyễn tưởng về sự trả thù bạo lực chống lại quỷ dân gian. Kẻ thù thật, còn xa mới bị vạch mặt, trở nên khó hiểu hơn bao giờ hết.

Điều này không phải là để thiến sự căm ghét chính trị bằng việc làm tan nó thành các quy luật sắt được cho là của sự phát triển tâm lý, cũng chẳng quy giản nó đến khía cạnh huyễn hoặc của nó (cứ như có thể có bất kể cuộc sống chính trị nào mà không bị huyễn tưởng vô thức săn đuổi), cũng không để tham gia vào một chủ nghĩa đạo đức tự do bị chỉ trích về ‘chính trị căm ghét’. Chúng ta không còn có thể tránh sự căm ghét hơn chúng ta có thể tránh sự oán giận, hay bất kể xúc cảm đạo đức khác nào. Sự căm ghét thường cả là thích hợp và hữu ích cho tất cả cái nó bị chê bai. Như China Miéville diễn đạt, chúng ta sống trong một sự làm suy yếu, ‘thời đại căm ghét mà bệnh lý hóa sự căm ghét cực đoan và khuyến khích sự mệt mỏi phẫn nộ’. Chu kỳ gây nghiện của sự phẫn nộ và sự kiệt sức đặc trưng của cuộc sống hiện đại là cả thúc đẩy độc hại hơn và cuối cùng làm hư hơn một sự căm ghét tỉnh táo, được cân nhắc và kích động-chậm hơn vì những gì khiến chúng ta đau khổ. Quả thực, làm sao người ta có thể nghĩ một cách sáng suốt về thế giới, thấy rõ trong nó bất cứ thứ gì trừ một loại câm lặng, vô nghĩa có trật tự như một chiến trường có thể hiện ra từ xa bên trên, mà không có sự căm ghét như một thuốc thử?

Lý trí mà không có sự thù ghét là không có yêu thương và hư vô. Vấn đề là sự thù ghét vô tâm, không chín chắn, không nghiêm khắc. Vấn đề là sự ghét và sự oán giận trở nên độc hại, theo nghĩa gây nghiện. Như nhà phân tâm học Alan Bass diễn đạt trong tiểu luận của ông về con sói đơn độc Dylann Roof phân biệt chủng tộc, khả năng để nghĩ về cơ bản phụ thuộc vào khả năng để chịu những căng thẳng do tâm trạng vỡ mộng và sự khác biệt gợi lên trong chúng ta. Để nghĩ rõ ràng về các thảm họa làm chúng ta khổ, là để giải thoát sự thù hằn chính trị thật – và là khó có thể phủ nhận rằng những người bị làm hại bởi sự nghèo, tình trạng sa sút cơ sở hạ tầng, bệnh dịch opioid và các vụ cháy rừng lồng lên có một số kẻ thù thực – từ những phóng chiếu nguyên thủy.64

Trong việc tìm kiếm một kẻ thù cá nhân để đọ súng với hắn, người ta chỉ tìm thấy rằng phần của chính mình mà người ta đã tách ra và phóng chiếu lên một Người Khác, hoặc rằng phần của sự thích thú của người ta là trái phép và xa lạ. Người ta thấy người thân đó mà Naomi Klein đã nhận ra như doppelgänger (người song trùng). Người ta tìm thấy sự ghê tởm thật nằm trong láng giềng gần nhất của người ta, trong chính mình: ‘trái tim này bên trong’, như Lacan diễn đạt, ‘mà là trái tim của jouissance (lạc thú) của tôi’.65 Người ta đã bắt đầu một tiến trình để tự tử.

Chú thích:

  1. CÁC TAI HỌA: BIẾT QUÁ NHIỀU
  2. 1. Kai T. Erikson, Everything in Its Path: Destruction of Community in Buffalo Creek, New York, London, Toronto and Sydney, 1976, p. 24.
  3. 2. Được trích trong Kai T. Erikson, A New Species of Trouble: The Human Experience of Modern Disasters, W. W. Norton and Company, London and New York, 1994, p. 241. Samuel Henry Prince, Catastrophe and Social Change: Based Upon a Sociological Study of the Halifax Disaster, Studies in History, Economics and Public Law 212, Columbia University, New York, 1920, p. 57. Rebecca Solnit, A Paradise Built in Hell: The Extraordinary Communities that Arise in Disaster, Penguin, New York, 2009.
  4. 3. Erikson, A New Species of Trouble, p. 13.
  5. 4. John Steinbeck, The Grapes of Wrath, Penguin Books, London and New York, 1992, Kindle loc. 1240.
  6. 5. Cormac McCarthy, Stella Maris, Picador, London, 2002, p. 155.
  7. 6. Erikson, Everything in Its Path, p. 212.
  8. 7. Erikson, Everything in Its Path, p. 214; Lucy Easthope, When the Dust Settles: Stories of Love, Loss and Hope from an Expert in Disaster, Hodder & Stoughton, London, 2022, p. 49.
  9. 8. Thomas Merton, Raids on the Unspeakable, Burns & Oates, Exeter, 1988, p. 44.
  10. 9. Wilhelm Reich, The Mass Psychology of Fascism, Farrar, Strauss and Giroux, New York, 2013, Kindle loc. 121–35; Michael Billig, Fascists: A Social Psychological View of the National Front, Harcourt Brace Jovanovich, London and New York, 1978; Michael Barkun, A Culture of Conspiracy: Apocalyptic Visions in Contemporary America, University of California Press, Berkeley, CA, 2013, pp. 3–4; Darian Leader, What is Madness?, Penguin, London and New York, 2011, p. 77.
  11. 10. Billig, Fascists, p. 231.
  12. 11. Ed Pilkington, ‘“American carnage”: Donald Trump’s vision casts shadow over day of pageantry’, Guardian, 21 January 2017; Joe M., ‘A Plan to Save the World’, in WWG1WGA, QAnon: An Invitation to the Great Awakening, Relentlessly Creative Books, Dallas, TX, 2019, p. 3; Clara Zetkin, Fighting Fascism: How to Struggle and How to Win, Haymarket, Chicago, 2017, Kindle loc. 328.
  13. 12. Đấy là nhiệt độ đỉnh trung bình đạt được bởi một vụ cháy rừng theo Bill Gabbert, ‘At what temperature does a forest fire burn?’, Wildfire Today, 26 February 2011.
  14. 13. P. E. Dennison, S. C. Brewer, J. D. Arnold and M. A. Moritz, Large wildfire trends in the western United States, 1984–2011. Res. Lett. 41: 2928–2933 (2014); R. R. Buchholz, M. Park, H. M. Worden, et al., ‘New seasonal pattern of pollution emerges from changing North American wildfires’, Nat Commun 13: 2043 (2022); A. L. Westerling, H. G. Hidalgo, D. R. Cayan and T. W. Swetnam, ‘Warming and earlier spring increase western U.S. forest wildfire activity’, Science 313 (2006), pp. 940–3; on the ecology of fire, xem Stephen J. Pyne, The Pyrocene: How We Created an Age of Fire, and What Happens Next, University of California Press, Berkeley, 2022.
  15. 14. Penny Abernathy, ‘The State of Local News 2022’, Northwestern University’s Medill School of Journalism, 29 June 2022; Colby Riehl, ‘Spread Like Wildfire: Assessing the Utility of Local Facebook Groups to Inspire Citizen Communication During a Disaster’, Dissertations and Theses, Paper 5719, 2021.
  16. 15. Natasha Rausch, ‘Extreme poverty in rural Oregon persists amid broader recovery’, The Oregonian, 2 December 2016.
  17. 16. Patrick Arbore, ‘Forum on Aging – Rural Oregon – “Depression, Suicide, and Aging in Rural Communities”’, Institute of Aging, 2019; Sophia Prince, ‘Oregon had second-highest addiction rates in the nation in 2020’, Oregon Public Broadcasting, 3 February 2022; P. T. Korthuis, R. R. Cook, C. A. Foot, et al., ‘Association of Methamphetamine and Opioid Use with Nonfatal Overdose in Rural Communities’, JAMA Netw Open 5: 8 (2022); E. Stack, et al., ‘The Impacts of COVID-19 on Mental Health, Substance Use, and Overdose Concerns of People Who Use Drugs in Rural Communities’, J Addict Med. 15: 5 (2021), pp. 383–9; A. E. Iyanda, K. A. Boakye, Y. Lu, J. R. Oppong, ‘Racial/Ethnic Heterogeneity and Rural-Urban Disparity of COVID-19 Case Fatality Ratio in the USA: A Negative Binomial and GIS-Based Analysis’, J Racial Ethn Health Disparities 2 (April 2022), pp. 708–21; Lynne Terry, ‘With suicide rates high among farmers, ranchers, lawmakers consider a remedy’, Oregon Capital Chronicle, 24 April 2023; Conrad Wilson, ‘“It’s crazy out there”: The reasons behind Oregon’s deepening drug crisis’, Oregon Public Broadcasting, 30 May 2023.
  18. 17. Monica Samayoa, ‘Oregon’s human-caused wildfires are increasing and COVID-19 is getting the blame’, Oregon Public Broadcasting, 3 August 2020.
  19. 18. Emma Newburger, ‘At least 33 dead as wildfires scorch millions of acres across Western U.S. — “It is apocalyptic”’, CNBC, 12 September 2020; ‘Final ODF fire report for 2020 fire season’, Oregon Department of Wildfire Public Affairs, 19 October 2020. Archived at: archive.org.
  20. 19. Cassandra Profita, ‘For victims still recovering from Oregon’s 2020 Labor Day wildfires, millions in legal damages offer hope’, Oregon Public Broadcasting, 20 June 2023.
  21. 20. Jason Wilson, ‘Armed civilian roadblocks in Oregon town fuel fears over vigilantism’, Guardian, 16 September 2020; Laura Pulido, ‘Wildfire, rumours and denial in the Trump era’, Pitzer College, 5 April 2021; Robert Mackey, ‘Oregon Police Beg Public to Stop Calling in False Reports Blaming Antifa for Wildfires’, Intercept, 10 September 2020; Gino Spocchia, ‘Trump pushes “antifa” wildfire conspiracy despite plea from local sheriff that rumour is misdirecting resources’, Independent, 16 September 2020.
  22. 21. Rebecca Onion, ‘“Angry, Scared, Armed People”’, Slate, 3 November 2017; Inkoo Kang, ‘Antifa Is Clickbait for Conspiracy Theorists’, Slate, 3 November 2017; Mike Rothschild, The Storm Is Upon Us: How QAnon Became a Movement, Cult, and Conspiracy Theory of Everything, Melville House, New York and London, 2021, p. 20.
  23. 22. Larry Buchanan, Quoctrung Bui and Jugal K. Patel, ‘Black Lives Matter May Be the Largest Movement in U.S. History’, New York Times, 3 July 2020; Davey Alba and Ben Decker, ‘41 Cities, Many Sources: How False Antifa Rumors Spread Locally’, New York Times, 1 March 2021; Joshua Rhett Miller, ‘Seattle-based activists arrested in Kenosha after filling up gas cans’, New York Post, 28 August 2020; Jason Wilson, ‘Officials baselessly linked “antifa” to arson before wildfires, documents show’, Guardian, 19 September 2020.
  24. 23. Pulido, ‘Wildfire’. Cassandra Profita, ‘Victims’. Ben Wisner, At Risk: Natural Hazards, People’s Vulnerability and Disasters, Routledge, London and New York, 1994, p. 9; J. M. Berger, ‘The Metronome of Apocalyptic Time: Social Media as Carrier Wave for Millenarian Contagion’, Perspectives on Terrorism 9: 4 (August 2015).
  25. 24. Jason Wilson, ‘Armed civilian roadblocks in Oregon town fuel fears over vigilantism’, Guardian, 16 September 2020; Rebecca Ewert, ‘Like wildfire: creating rumor content in the face of disaster’, Environmental Sociology 8: 4 (2022), pp. 436–7.
  26. 25. Michel de Certeau, ‘What we do when we believe’, in Marshall Blonsky, ed., On Signs, Johns Hopkins University Press, Baltimore, MD, 1985. J. M. Berger, ‘The Metronome of Apocalyptic Time: Social Media as Carrier Wave for Millenarian Contagion’, Perspectives on Terrorism 9: 4 (August 2015).
  27. 26. Terry Ann Knopf, Rumors, Race and Riots, Routledge, Abingdon and New York, 2017, p. 22; Pulido, ‘Wildfire.’
  28. 27. M. J. Chaudhary, J. Richardson, ‘Violence Against Black Lives Matter Protestors: A Review’, Curr Trauma Rep 8 (2022), pp. 96–104.
  29. 28. Alexi Mostrous, ‘Hoaxed’, Tortoise Media, 2022.
  30. 29. Hannah Arendt, The Origins of Totalitarianism, Penguin, 2017, p. 500.
  31. 30. Adam Phillips, On Wanting to Change, Penguin Books, 2021, p. 44.
  32. 31. Charles Homans, ‘How a Sexual Assault in a School Bathroom Became a Political Weapon’, New York Times, 5 August 2023.
  33. 32. George Soros with Byron Wien and Krisztina Koenen, Soros on Soros: Staying Ahead of the Curve, John Wiley & Sons, New York, 1995, pp. 156–205; Anna Porter, Buying a Better World: George Soros and Billionaire Philanthropy, TAP Books, 2015; David Stuckler, Lawrence King and Martin McKee, ‘Mass privatisation and the post-communist mortality crisis: a cross-national analysis’, The Lancet 373: 9661 (31 January 2009), pp. 399–407; Zoltán Pogátsa, ‘The State of Capitalism and the Rise of the Right in the 1930s and Today: Hungary as a Case Study’, trong Jeremy Rayner, Susan Falls, George Souvlis and Taylor C. Nelms, eds, Back to the ‘30s? Recurring Crises of Capitalism, Liberalism, and Democracy, Springer Nature, Switzerland AG, 2020; Corneliu Pintilescu and Attila Kustán Magyari, ‘Soros conspiracy theories and the rise of populism in post-socialist Hungary and Romania’, trong Anastasiya Astapova, Onoriu Colăcel, Corneliu Pintilescu and Tamás Scheibner, eds, Conspiracy Theories in Eastern Europe: Tropes and Trends, Routledge, London, 2020; Griff Witte, ‘Once-fringe Soros conspiracy theory takes center stage in Hungarian election’, Washington Post, 17 March 2018; Peter Plenta, ‘Conspiracy theories as political instrument: utilization of Soros narratives in central Europe’, Contemporary Politics, 2020; Marcus Baram, ‘Buckle up! Here’s a timeline of George Soros conspiracy theories’, Fast Company, 10 May 2018.
  34. 33. Mary Midgley, The Myths We Live By, Routledge, London and New York, 2003, p. 1; Darian Leader, ‘Diana and conspiracy theories’, Times, 25 October 2003; Karen Armstrong, A Short History of Myth, Canongate, London, 2005, p.3.
  35. 34. Cho một ví dụ về sự diễn giải hoang tưởng này về các phụ nữ chuyển giới, xem Janice G. Raymond, The Transsexual Empire: The Making of the She-Male, Athene Press, New York and London, 1994; Jamieson Webster, ‘Masturbation Fantasies Redux’, Lacan: Clinic and Culture Conference, October 2022.
  36. 35. Michael P. Carroll, ‘“The Castrated Boy”: Another Contribution to the Psychoanalytic Study of Urban Legends’, Folklore 98: 2 (1987), pp. 216–25.
  37. 36. Norman Cohn, Warrant for Genocide: The Myth of the Jewish World Conspiracy and the Protocols of the Elders of Zion, Serif, London, 2005, pp. 29–33; Michael Billig, Fascists, pp. 155–6.
  38. 37. Michael Marshall, ‘Inside the White Rose: The extremist groups looking to capitalise on Covid paranoia’, Skeptic, 6 September 2021.
  39. 38. Fredric Jameson, The Geopolitical Aesthetic: Cinema and Space in the World System, Indiana University Press, Bloomington, IN, p. 14. Naomi Wolf được trích trong Naomi Klein, Doppelganger: A Trip Into the Mirror World, Penguin Random House, New York, 2023, p. 112; Icke được trích trong Richard J. Evans, ‘Why pandemics create conspiracy theories’, New Statesman, 10 April 2020.
  40. 39. R. Moynihan, I. Heath, D. Henry, ‘Selling sickness: the pharmaceutical industry and disease mongering’, BMJ 325: 7342 (13 April 2002), pp. 886–91; Sherry Turkle, Alone Together: Why We Expect More from Technology and Less from Each Other, Basic Books, New York, 2013.
  41. 40. Klein, Doppelganger, pp. 86–7; Slavoj Žižek, The Sublime Object of Ideology, Verso, London and New York, 2008, pp. 20–1.
  42. 41. Roland Barthes, Mythologies, Farrar, Strauss and Giroux, New York, 1972, p. 150; William Callison and Quinn Slobodian, ‘Coronapolitics from the Reichstag to the Capitol’, Boston Review, 12 January 2021; Ben Knight, ‘dieBasis: Inside Germany’s anti-lockdown party’, ExBerliner, 13 September 2021; T. Plümper, E. Neumayer, K. G. Pfaff, ‘The strategy of protest against Covid-19 containment policies in Germany’, Social Science Quarterly (2021), pp. 1–15; ‘Die “Querdenker”. Wer nimmt an Corona-Protesten teil und warum?’, Forschungsbericht, January 2021.
  43. 42. Rochelle được trích trong Ishay Landa, Fascism and the Masses: The Revolt Against the Last Humans, 1848–1945, Routledge, London and New York, 2018, pp. 10–11; William R. Tucker, ‘Fascism and Individualism: The Political Thought of Pierre Drieu La Rochelle’, The Journal of Politics 27: 1 (February 1965), pp. 153–77; về mối quan hệ mâu thuẫn giữa chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cá nhân, xem Ishay Landa, The Apprentice’s Sorcerer: Liberal Tradition and Fascism, Brill, Leiden, 2009, pp. 247–59.
  44. 43. M. Zehring and E. Domahidi, ‘German Corona Protest Mobilizers on Telegram and Their Relations to the Far Right: A Network and Topic Analysis’, Social Media + Society 9: 1 (2023); Philip Oltermann, ‘Petrol station worker killed in Germany after face mask row’, Guardian, 21 September 2021; Ben Knight, ‘COVID-deniers threaten German doctors’, Deutsche Welle, 14 November 2021; Elizabeth Schumacher, ‘German police probe death plot against Saxony state leader’, Deutsche Welle, 8 December 2021; Sabine Kinkartz, ‘AfD: German voters shift towards far right’, Deutsche Welle, 4 August 2013.
  45. 44. Joseph Lowndes, ‘From Founding Violence to Political Hegemony: The Conservative Populism of George Wallace’, trong Francisco Panizza, ed., Populism and the Mirror of Democracy, Verso, London and New York, 2005, p. 153; Michael B. Rogin, ‘American Political Demonology: A Retrospective’, in Ronald Reagan: The Movie and Other Episodes in Political Demonology, University of California Press, Berkeley, Los Angeles and London, 1987; Joel Kovel, Red hunting in the promised land: Anticommunism and the making of America, Cassell, London, pp. 46–7; Joel Kovel, White Racism: A Psychohistory, Free Association Books, London, 1988, p. 128.
  46. 45. Jean Baudrillard, Simulacra and Simulation, University of Michigan Press, Ann Arbor, MI, 1994.
  47. 46. N. M. Brashier and D. L. Schacter, ‘Aging in an Era of Fake News’, Current Directions in Psychological Science 29: 3 (2020), pp. 316–23; L. Vargas-Bianchi, J. C. Mateus, A. Pecho-Ninapaytan and S. Zambrano-Zuta. ‘“No, auntie, that’s false”: Challenges and resources of female baby boomers dealing with fake news on Facebook’, First Monday 28: 3 (2023).
  48. 47. A. W. Ohlheiser, ‘Google examines how different generations handle misinformation’, MIT Technology Review, 11 October 2022.
  49. 48. John Hardwig, ‘The Role of Trust in Knowledge Author’, The Journal of Philosophy 88: 12 (Deccember 1991), pp. 693–708.
  50. 49. Các nhà phân tâm Lacanian mô tả điều này về mặt ‘sự suy sụp của người Khác’ – có nghĩa sự suy sụp của lòng tin vào quyền uy, vào Chúa, vào những người cha, vào khoa học, và vân vân – nhưng tôi thích sự dẫn chiếu của Jamieson Webster hơn đến ‘sự sụp đổ của fantasy tập thể – breakdown of collective fantasy’ trong Conversion Disorder: Listening to the Body in Psychoanalysis, Columbia University Press, New York, 2019, p. 6.
  51. 50. Jon Jureidni and Leemon B. McHenry, The Illusion of Evidence-Based Medicine: Exposing The Crisis Of Credibility In Clinical Research, Wakefield Press, Cambridge, MA, 2020; W. P. Whitely, D. Rennie, A. W. Hafner, ‘The Scientific Community’s Response to Evidence of Fraudulent Publication: The Robert Slutsky Case’, JAMA 272: 2 (1994), pp. 170–3; B. J. Culliton, ‘Coping with fraud: the Darsee Case’, Science 220: 4592 (April 1983), pp. 31–5; Janny Scott, ‘At UC San Diego: Unravelling a Research Fraud Case’, Los Angeles Times, 30 April 1987; Alexander Christov, ‘Economy of Fake News: Business Side and Effects’, Eastern Academic Journal 4 (December 2019), pp. 1–7; về nguồn gốc lịch sử của tin giả (fake news), xem chương 5 từ cuốn sách của tôi The Twittering Machine, Indigo Press, London, 2019; ‘30% of adults say most people can be trusted’, Ipsos, 24 March 2022.
  52. 51. Federico Finchelstein, A Brief History of Fascist Lies, University of California Press, Oakland, CA, 2020, p. 27.
  53. 52. Nathan J. Robinson and Stephen Prager, ‘How Can We Trust What We See?’, Current Affairs, 20 June 2023; Alexandra Ulmer and Anna Tong, ‘With apparently fake photos, DeSantis raises AI ante’, Reuters, 9 June 2023.
  54. 53. Darren Smith, ‘Are we all being brainwashed?’, The Light 22; David Lawrence, ‘Turning Off “The Light”: The conspiracist newspaper promoting the far right’, Hope Not Hate, 30 June 2022.
  55. 54. Mattias Desmet, The Psychology of Totalitarianism, Chelsea Green Publishing, White River, VT, and London, 2022. Xem đặc biệt các chương 6–8.
  56. 55. ‘How three conspiracy theorists took “Q” and sparked Qanon’, NBC News, 14 August 2018; Rothschild, Storm, pp. 6, 8 và 10; QAnon: Secrets Behind the Secrets, p. 18; Diana Walsh Pasulka, American Cosmic: UFOs, Religion, Technology, Oxford University Press, New York, 2019; Michael Barkun, A Culture of Conspiracy: Apocalyptic Visions in Contemporary America, University of California Press, Berkeley, CA, 2013; Audie Cornish, ‘How QAnon-Like Conspiracy Theories Tear Families Apart’, NPR, 15 January 2021; Travis M. Andrews, ‘He’s a former QAnon believer. He doesn’t want to tell his story, but thinks it might help’, Washington Post, 24 October 2020.
  57. 56. ‘Three conspiracy theorists’, NBC News; Chris Francescani, ‘The men behind QAnon’, NBC News, 22 September 2020.
  58. 57. Greta Jasser, ‘The social media platform that welcomes QAnon with open arms’, Open Democracy, 19 November 2020; Gab AI Inc, Annual Report, Clarks Summit, PA, 25 April 2019; Kaitlyn Tiffany, ‘Parler’s Rise Was Also Its Downfall’, Atlantic, 18 January 2021.
  59. 58. Vidhi Choudary, ‘Facebook Reportedly Has Over 3 Million QAnon Users, Earned $12,000 From QAnon Ads Over Past 30 Days’, Forbes, 10 August 2020; Amanda Seitz and Barbara Ortutay, ‘Facebook, Twitter flounder in QAnon crackdown’, Associated Press, 1 October 2020; ‘Capitol Attack Was Months in the Making on Facebook’, Tech Transparency Project, 19 January 2021; Craig Silverman, Craig Timberg, Jeff Kao and Jeremy B. Merrill, ‘Facebook Hosted Surge of Misinformation and Insurrection Threats in Months Leading Up to Jan. 6 Attack, Records Show’, ProPublica and the Washington Post, 4 January 2022; David Gilbert, ‘No, Facebook, You Didn’t Stop Capitol Rioters from Planning an Insurrection’, Vice, 12 January 2021.
  60. 59. Rothschild, Storm, p. 23; Vaughan Bell, ‘Prophecy Fail’, Slate, 20 May 2011.
  61. 60. Kevin Roose, ‘QAnon Followers Are Hijacking the #SaveTheChildren Movement’, New York Times, 12 August 2020; Kevin Roose, ‘How “Save the Children” Is Keeping QAnon Alive’, New York Times, 28 September 2020.
  62. 61. Sigmund Freud, The Uncanny, Penguin, London and New York, 2003, pp. 143–4; Susan Lepselter, The Resonance of Unseen Things: Poetics, Power, Captivity, and UFOs in the American Uncanny, University of Michigan Press, Ann Arbor, MI, 2016.
  63. 62. Spaceshot76 and RedPill78, ‘When Will It Become Mathematically Impossible?’, and Lori Colley, ‘The Day I Knew Q Wasn’t a Hoax’, in WWG1WGA, An Invitation to the Great Awakening, Relentlessly Creative Books, Dallas, TX, 2019.
  64. 63. Sigmund Freud, ‘Instincts and Their Vicissitudes’, in James S. Strachey, Anna Freud, Alix Strachey and Alan Tyson, translators, The Standard Edition of the Complete Psychological Works of Sigmund Freud: Volume XIV (1914–1916) On the History of the Psycho-Analytic Movement, Papers on Metapsychology, and Other Works, The Hogarth Press, London, 1981, pp. 136 and 139; Jacques Lacan, Seminar XI: The Four Fundamental Concepts of Psychoanalysis, Karnac, London and New York, 2004, p. 116; St Augustine, The Confessions, Oxford University Press, Oxford, 1991, p. 9.
  65. 64. Miéville, A Spectre, Haunting, p. 172; Alan Bass, ‘Murderous racism as normal psychosis’, in Donald Moss and Lynne Zeavin, eds, Hating, Abhorring and Wishing to Destroy: Psychoanalytic Essays on the Contemporary Moment, Routledge, London and New York, 2022.
  66. 65. Klein, Doppelganger; Jacques Lacan, The Seminar of Jacques Lacan: Book VII: The Ethics of Psychoanalysis, 1959-1960, Routledge, London and New York, 1992, p. 186.

* dreamwork quá trình vô thức khám phá và thay đổi những hình ảnh mà một giấc mơ thể hiện hay gợi nên nhằm để che giấu ý nghĩa thực khỏi người mơ (phân biệt với sự phân tích giấc mơ).

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged , . Bookmark the permalink.