Đọc “Thơ Nguyễn Xuân Thiệp”

Việt Phương
 

Nguyễn Xuân Thiệp & Việt Phương

Nhà thơ Nguyễn Xuân Thiệp
Quê quán ở Huế
Làm thơ đăng báo từ trước năm 1954
Học ở Huế và Sài Gòn
Dạy học ở Mỹ Tho, nhập ngũ 1963, làm phát thanh Quân đội ở Pleiku, Đà Lạt, Sài Gòn.
Tháng 5, 1975 đi tù chế độ cộng sản tới 1982
1995 sang Mỹ – in thơ ở văn học, Thế kỷ 21, Hợp Lưu, Văn…
Chủ biên tạp chí Phố Văn từ 2000-2008
Hiện định cư cùng gia đình ở Dallas, Texas, làm việc với báo Trẻ.

Đó là tiểu sử ông cho in rất ngắn gọn sau bìa sách. Tác phẩm của ông gồm:
Tôi cùng gió mùa (nhà Văn Học, Cali, 1998)
Thơ Nguyễn Xuân Thiệp (Phố Văn, 2012)
Tản mạn bên tách cà phê (tạp bút, Trẻ, 2012)

Thơ Nguyễn Xuân Thiệp như những bức tranh siêu thực với màu sắc táo bạo. Trong những bức tranh (thơ) đó, đa số, ông dùng màu nóng (đỏ, vàng, vàng nâu).
Mỗi lời thơ là một nhát cọ mạnh, gọn và dứt khoát trên canvas, để lại ấn tượng sâu sắc:
“bạn vẽ
mảnh trăng
như chim
chết treo đầu ngọn khô
những bóng người. những vệt màu vàng
cầm đèn. đi trong mưa”
(Trong Garage Đinh Cường, tr. 103)

Hoặc
“rạng đông. mặt trời bị treo cổ. trên bức tường nhà
hát lớn”
(Chiều Qua Ngõ Blues, tr. 152)
Những câu thơ gãy gọn, mang đầy hình ảnh, làm ta liên tưởng đến những bài thơ Haiku của Masaoka Shiki (1867-1902).
“Hanging a lantern
On a blossoming bough, –
What pains I took!”
(Treo lồng đèn
Trên cành cây trổ hoa,-
Nỗi đau này tôi hái!)
Việt Phương dịch từ bản tiếng Anh trong cuốn “Silent Flowers” (Dorothy Price, Hallmark Card. Inc. xuất bản tại Hoa Kỳ 1967).
Thơ ông, với lối ngắt câu và không khí trong thơ có lúc mang hơi hướm của nhà thơ người Chile, Pablo Neruda (1904-1973), Nobel văn chương năm 1971:
“Pure wisdom
of someone who knows nothing,
and suddenly I saw
the heavens
unfastened
anh open”
(Memorial de Isla Negra, 1964)
Trans. Alastair Reid
(Trong trí tinh khôi
của một người không biết gì hết,
và tôi bất ngờ thấy
thiên đàng
buông xả
và rộng mở)
Việt Phương dịch
Thơ ông còn nhuốm màu triết lý hiện sinh mà theo Jean-Paul Sartre trong bài viết “L’existentialisme est un humanisme” (Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản). Thuyết hiện sinh đã tràn vào miền Nam Việt Nam trước 1975, với những cuốn sách của Albert Camus (1913-1960, Nobel văn chương 1957), được dịch ra tiếng Việt, thấm vào tư tưởng của những người trí thức miền Nam mà trong đó có ông. (Thi sĩ Bùi Giáng là người đã dịch nhiều nhất tác phẩm của Albert Camus thời gian đó, 7 cuốn):
“cơn bão một thời. thổi qua đất nước. thổi qua
thanh xuân. cũng đã ngừng im
mừng chúng ta còn sống sót “
(Bài Ngợi Ca Trước Bình Minh, tr. 53)
Không một lời than van. Nhưng đọc những câu thơ trên, chúng ta bỗng thấy buồn. Nó như một tiếng thở dài. Rất khẽ.
“ôi. măng đầu mùa. như trăng. sao chẳng ngọt
mà đường về. hoa ác. đong đưa
thế kỷ. người cày những cánh đồng chết
người đuổi người. đi về biển xa”
(Tâm Khúc Cho Một Nhà Văn, tr. 58-59)
Ông viết về những người Việt, bạn bè lưu vong như những người Pilgrims từ England trên chiếc tàu Mayflower đi tìm Tân Thế Giới, tấp vào Cape Cod, Massachusetts năm 1620, nhân một chuyến viếng thăm bạn bè ở thành phố Boston, thuộc tiểu bang này:
“này anh em. bạn bè
chúng ta đã đi hết biển
qua các đại dương. và châu lục
không về lại mái đình xưa
bá ngọ
thời của quỷ
ngói lở. cột xiêu. sen tàn. mùa hạ chết
để gặp nhau đây. điểm hẹn boston
con tàu may flower. bắc qua thế kỷ. ký ức của
tiếng sóng bờ xa”
(Chào Boston. Chào Bạn Bè, tr. 61)
Thơ ông chuyên chở một màu vàng rực rỡ dưới ánh hoàng hôn. Hoa dã quỳ vàng được ông dùng rất nhiều lần trong thơ. Ông vẽ lại bức tranh của danh họa Van Gogh với những nét chấm phá siêu thực:
“bỗng gặp. bức tranh. van gogh
crows over the wheatfield
những cánh quạ trên đồng lúa
vàng dã quỳ
màu nắng. điên
em. làm sao tìm lại được giấc mơ. trong mắt loài
chim dữ”
(Crows Over The Wheatfield, tr. 187)
Thỉnh thoảng, ông có xen vào vài bài thơ ngũ ngôn phá cách đầy tính sáng tạo:
“anh đi trên mái nhà
anh đi. lá thông khô
đã đầy trong màu nắng
anh chết tự bao giờ
mà hồn bay vàng phố
mà về theo gió đưa
dấu chân in lá cỏ
của những mùa hè qua
anh chết. hồn dã quỳ
chắc bây giờ thấy nhớ”
(Nhặt Trái Thông Khô, tr. 33)
Thơ ông, với những dấu chấm. Thảng thốt. Đôi khi như ánh mặt trời chìm trong mặt hồ tĩnh lặng. Tạo ra tiếng vô âm. Tiếng lòng. Nhưng khẽ khàng. Khoáy động trong tim.
“em đứng. giữa rừng hoa dã quỳ. đỏ
tưởng niệm tôi
xin đừng khóc
ngày đã tàn. và ngày sắp rơi
cô bé đi vớt mặt trời
không về nữa…”
(Dã Quỳ Đỏ, tr. 69)
Thơ ông như một cuốn phim noir với quá khứ và hiện tại lẫn lộn. Nhiều flashback tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ:
“gọi em dậy
từ chiêm bao
rạng rỡ
con bướm. đậu trên đầu cán cuốc
của người tù
đã bay đi về cõi không màu
và. vầng trăng đã đi qua bãi mía “
(Gọi Em Dậy, tr. 72-73)
Hoặc:
“chiều nay
tôi đi
những cây myrtle vật vã trong mưa
bên kia con lạch. dòng xe cộ vẫn nối đuôi nhau
một chiếc xe buýt vừa dừng lại
dường như chiếc buýt đã chạy không ngừng. từ thanh xuân tôi ở ngã tư phú nhuận”
(Ngày Cây Xuống Tóc. Tà Huy, tr.164)
Thấp thoáng trong thơ ông những địa danh tôi từng đi qua. Những nhân danh tôi từng biết đến. Nó đưa tôi về những lối xưa, với những bước chân quen, tạo một sự cộng hưởng. Một sự rung động. Của một bản giao hưởng mà cường độ âm thanh đã hòa vào nhau, với cùng một thẩm âm.
Thơ ông cũng dắt tôi về lại những cánh đồng dã quỳ vàng và bầu trời rạng vỡ, với những cánh chim đã bay đi. Bằn bặt.

VIỆT PHƯƠNG
Nửa đêm thức giấc
8/21/2025

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.