Lê Hồng Lâm

Một trong vài tiêu chí chọn sách để đọc của tôi là các giải thưởng văn học tên tuổi, có lịch sử lâu năm. Bên cạnh giải thưởng tầm vóc cả sự nghiệp như Nobel, tôi thường chọn các tác phẩm đoạt các giải (theo thứ tự quan tâm): Man Booker (Anh), Pulitzer (Mỹ), Goncourt (Pháp) và Akutagawa (Nhật Bản).
Cuốn sách đoạt giải Akutagawa mà tôi vừa đọc xong sáng nay là Tháp Đồng cảm Tokyo của nữ tác giả trẻ Rie Qudan, một cuốn tiểu thuyết có hơi hướng giả tưởng, văn chương sắc bén, đọc khá hấp dẫn.
Điều bất ngờ là cuốn tiểu thuyết này đoạt giải Akutagawa lần thứ… 170 (trao giải vào năm 2024) khiến tôi phải tò mò tìm hiểu thêm về giải thưởng văn chương được xem là danh giá nhất tại Nhật Bản này.
Ryūnosuke Akutagawa là một tác gia lớn của Nhật Bản, được xem là “cha đẻ của truyện ngắn Nhật Bản” (hai tuyển tập truyện ngắn của ông do Tao Đàn xuất bản rất đáng giá sưu tầm). Ông qua đời vào năm 1927 (tự sát), hưởng dương chỉ 35 tuổi nhưng di sản văn chương của ông thì được đời sau truyền tụng, không chỉ ở Nhật Bản mà trên thế giới.
Giải thưởng văn chương Akutagawa ra đời vào năm 1935 để tưởng nhớ ông, được trao hai lần một năm. Trừ một vài năm không trao giải trong Thế chiến 2 và vài năm chỉ trao một giải, giải thưởng này đến nay đã có 90 năm tuổi đời (lâu đời ngang với một giải thưởng khác cũng lấy tên một nhà văn là Naoki Prize) và đã trao cho 172 tác phẩm (và 172 tác giả – tính đến năm 2025). Ở Nhật còn có vài giải thưởng văn chương danh giá lấy tên các nhà văn lớn khác, như Tanizaki, Yukio Mishima…
Tiêu chí của giải thưởng Akutagawa là phát hiện các tác giả mới xuất hiện trên văn chương Nhật Bản đương đại. Tác giả trẻ nhất được trao giải từ năm 19 tuổi, tác giả già nhất được trao giải năm 75 tuổi. Nhiều tác giả đoạt giải này rồi thành danh, trở nên tên tuổi lẫy lừng như Kōbō Abe (đoạt giải năm 1951, nổi tiếng với Woman in the Dunes chuyển thể thành phim rất thành công); Kenzaburō Ōe (đoạt giải năm 1958, sau đó trở thành nhà văn Nhật thứ 2 đoạt giải Nobel văn chương). Ryū Murakami đoạt giải năm 1976 với Màu xanh trong suốt. Haruki Murakami hai lần được đề cử giải Akutagawa (Lắng nghe gió hát và Pinball trong hai năm liên tiếp 1979 và 1980 nhưng đều… rớt). Trong thập niên 90 có hai tác giả nữ đoạt giải, về sau đều trở thành tên tuổi nổi danh quốc tế là Yōko Ogawa (1990, với Nhật ký mang thai) và Yōko Tawada (1992, với Chàng chó)…
Đọc xong cuốn Tháp Đồng cảm Tokyo, tôi lục trên tủ sách thì tìm được từng này cuốn từng thắng giải Akutagawa đã dịch ra tiếng Việt mà tôi sở hữu. Hầu hết là dạng novella dưới 200 trang, trừ Ryu Murakami, còn lại đều là tác giả nữ.
Điểm chung: hầu hết đều phản ánh những vấn đề của giới trẻ và văn hóa đương đại Nhật Bản (Japanese Youth Culture).
Nếu các tác gia kì cựu như Akutagawa, Kawabata, Tanizaki, Soseki, Mishima… viết về vẻ đẹp của truyền thống Nhật Bản, trà đạo, thư pháp, kimono, kabuki, hoa anh đào, geisha, samurai thì các tác giả đương đại này bóc trần những nghiện ngập, tiêm chích ma túy (Màu xanh trong suốt của Ryu Murakami khiến tôi sốc thời mới đọc ông này); dâm thư, tình dục loạn luân, những hình thái trụy lạc đến phi nhân, trầm cảm, tự tử, suy đồi, cô đơn, lạc lối… hay như cuốn Thần tượng của tôi dính phốt rồi phô bày bản chất tàn nhẫn, gây nghiện của mạng xã hội, của văn hóa “fandom” và ngành công nghiệp thần tượng khiến giới trẻ phát cuồng và thậm chí điên loạn trong văn hóa giải trí Nhật Bản…
Tháp Đồng cảm Tokyo – cuốn tiểu thuyết mới nhất đoạt giải Akutagawa của nữ tác giả Rie Qudan (sinh năm 1990) có màu sắc huyễn tưởng, dựng lên một cái tháp Babel hiện đại ở Nhật Bản. Một cái tháp được một nữ kiến trúc sư vẽ lên để đồng cảm và khoan dung với những tù nhân nhưng khiến xã hội công kích, phỉ báng (họ nói, “Vậy ai đồng cảm cho nạn nhân?).
Một cuốn tiểu thuyết ngắn sắc lạnh, không ngần ngại phơi bày và bóc trần những chủ đề vốn đầy rẫy những khuôn mẫu, những định kiến và những ngôn từ hoa mĩ sáo rỗng chỉ khiến con người ngày càng nghi kị, thù địch và vô cảm, trước nỗi đau của kẻ khác.
Một đoạn, về sự đồng cảm dành cho AI:
“Không dưng, tôi cảm thấy thương hại cho AI xây dựng văn bản. Thật tội nghiệp. Đó hẳn là một cuộc sống rất trống rỗng và đau khổ khi phải liên tục sắp xếp những từ ngữ theo khuôn mẫu định sẵn, trong khi không hề biết những câu văn được tạo ra bằng cách chắp vá lời nói của người khác có ý nghĩa gì, được truyền tải đến ai. Nhưng tất nhiên, AI không có nỗi buồn, không có niềm vui, không có cuộc sống, cũng không biết tổn thương, nên dẫu tôi có đồng cảm cũng chẳng nghĩa lí gì.” (trang 103)
Và một đoạn khác, về lòng khoan dung của con người & sự bất lực của ngôn từ trong việc thấu hiểu con người:
“Bởi vì con người vốn là một sinh vật không khoan dung, họ còn mong muốn những người không liên quan đến mình phải chịu thiệt thòi hơn mình. Nếu ai cũng khoan dung với người khác, ai cũng mong muốn sự bình đẳng từ đáy lòng, thì chia rẽ hay chiến tranh đã không có cửa tồn tại trên cõi này. Nhưng thực tế không phải vậy. Cho dù có nói bao nhiêu lời hoa mĩ về việc đối xử tốt với những người đáng thương, thì trước thực tế, ngôn ngữ chỉ là thứ phế phẩm chết giẫm.” (trang 126).