Anders Olsson, Chủ tịch Ủy ban Nobel, https://www.nobelprize.org/prizes/literature/2025/bio-bibliography/
Bản dịch của Văn Việt
Chân dung László Krasznahorkai. Photo: Miklós Déri, CC BY-SA 4.0 trên Wikimedia Commons
Nhà văn László Krasznahorkai sinh năm 1954 tại thị trấn nhỏ Gyula ở miền đông nam Hungary, gần biên giới Romania. Cũng lấy bối cảnh một vùng quê hẻo lánh tương tự là cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Sátántangó (xuất bản năm 1985, bản tiếng Anh Satantango, 2012), một hiện tượng văn học ở Hungary, là tác phẩm đột phá, làm nên tên tuổi của tác giả. Bằng ngôn từ gợi mở đầy mạnh mẽ, tiểu thuyết khắc họa một nhóm cư dân khốn cùng sống tại một nông trang tập thể bỏ hoang ở vùng quê Hungary, ngay trước khi chế độ cộng sản sụp đổ. Mọi thứ chìm trong im lặng và đợi chờ, cho đến khi Irimiás lôi cuốn và người bạn thân Petrina, vốn bị cho là đã chết, bất ngờ xuất hiện. Với những người dân đang chờ đợi, hai người họ dường như là sứ giả của niềm hy vọng hay của cuộc phán xét cuối cùng. Yếu tố quỷ satan trong nhan đề tác phẩm thể hiện ở thứ đạo đức nô lệ và trong sự vờ vĩnh của kẻ lừa đảo Irimiás, vừa hiệu quả vừa xảo trá, khiến hầu như tất cả đều bị cuốn vào mê lộ rối rắm. Mọi người trong tiểu thuyết đều mong chờ một phép màu xảy ra, một niềm hy vọng vốn đã bị dập tắt ngay từ đầu bởi lời đề từ trích câu văn của Kafka: “Nếu vậy, ta sẽ lỡ mất điều này chỉ vì mải chờ đợi nó”. Tác phẩm được chuyển thể thành bộ phim độc đáo năm 1994 do Krasznahorkai hợp tác với đạo diễn Béla Tarr.
Không lâu sau, nhà phê bình Mỹ Susan Sontag đã tôn Krasznahorkai là “bậc thầy của tận thế” trong văn chương đương đại, sau khi đọc Az ellenállás melankóliája (1989; bản tiếng Anh The Melancholy of Resistance, 1998). Trong câu chuyện kinh dị đầy ám ảnh diễn ra tại một thị trấn nhỏ của Hungary nằm giữa thung lũng Carpathian, kịch tính đã được đẩy lên cao hơn nữa. Ngay từ những trang đầu, cùng với bà Pflaum khó ưa, ta rơi vào trạng thái khẩn cấp đầy choáng váng. Điềm dữ xuất hiện khắp nơi. Điểm mấu chốt của chuỗi sự kiện bi kịch là sự xuất hiện của một gánh xiếc ma quái trong thành phố, với tâm điểm là xác một con cá voi khổng lồ. Cảnh tượng vừa huyền hoặc vừa đe dọa ấy khơi dậy những thế lực cực đoan, đẩy mạnh sự lây lan của bạo lực và phá hoại. Trong khi đó, quân đội bất lực không thể ngăn chặn tình trạng hỗn loạn, mở đường cho khả năng đảo chính độc tài. Bằng những cảnh tượng mộng mị và lối khắc họa nhân vật nghịch dị, László Krasznahorkai đã miêu tả tài tình cuộc vật lộn dữ dội giữa trật tự và hỗn loạn. Không ai thoát khỏi hệ quả của nỗi kinh hoàng.
Trong tiểu thuyết Háború és háború (1999; tiếng Anh War & War, 2006), Krasznahorkai chuyển sự chú ý ra ngoài biên giới quê nhà Hungary, theo chân viên lưu trữ khiêm nhường Korin quyết định rời vùng ven Budapest đến New York, như hành động cuối cùng của cuộc đời mình, để có thể trong khoảnh khắc, được đứng ở trung tâm thế giới. Trong kho lưu trữ, anh phát hiện một thiên sử thi cổ tuyệt đẹp kể về những chiến binh trở về, và anh muốn giới thiệu nó với toàn nhân loại. Văn xuôi Krasznahorkai khi này đã tiến tới kiểu cú pháp tuôn chảy, những câu văn dài miên man không dấu chấm câu, trở thành đặc trưng của ông.
War & War với phong cách phiêu lưu đã dự báo cho cuốn tiểu thuyết vĩ đại Báró Wenckheim hazatér (2016; Baron Wenckheim’s Homecoming, 2019), mặc dù trong trường hợp này, trọng tâm là cuộc trở về quê hương và Krasznahorkai đã tự do biến tấu truyền thống văn học. Ở đây, chàng ngốc của Dostoyevsky được tái sinh trong hình hài vị nam tước si mê cờ bạc đến mức tuyệt vọng. Giờ đây, với thân phận tan nát, ông trở về Hungary sau nhiều năm sống lưu vong ở Argentina. Ông hy vọng đoàn tụ với người tình thuở nhỏ, người mà ông không thể nào quên. Đáng buồn thay, trên hành trình ấy, ông phó mặc đời mình cho kẻ phản trắc Dante, một phiên bản nhơ nhớp của Sancho Panza. Cao trào của tiểu thuyết, xét theo nhiều khía cạnh, là điểm nhấn hài hước, chính là buổi đón tiếp nồng nhiệt của dân làng dành cho vị nam tước mà bản thân ông lại cố tìm cách lẩn tránh.
Tác phẩm thứ năm có thể được xếp vào chuỗi sử thi “tận thế” là Herscht 07769: Florian Herscht Bach-regénye (2021; Herscht 07769: A Novel, 2024). Ở đây, ta nhận ra mình không phải trong cơn ác mộng ở vùng Carpathian, mà được đặt giữa bức tranh chân thực của một thị trấn nhỏ đương đại tại Thüringen, Đức, nơi vẫn đang phải gánh chịu tình trạng xã hội hỗn loạn, giết người và đốt phá. Song song đó, nỗi kinh hoàng của cuốn tiểu thuyết lại được đặt trong nền di sản hùng mạnh của Johann Sebastian Bach. Đây là cuốn tiểu thuyết viết liền một hơi về sự kết hợp “bất khả” giữa bạo lực và cái đẹp.
Herscht 07769 được ca ngợi như một tiểu thuyết Đức đương đại lớn, nhờ phản ánh chính xác những bất ổn xã hội. Tương tự, nhân vật chính, Herscht, mang nguyên mẫu của đứa trẻ cả tin và nhân hậu, một kẻ ngốc thánh thiện theo tinh thần Dostoyevsky, người phản ứng dữ dội khi nhận ra rằng mình, giống như Voluska trong The Melancholy of Resistance, đã đặt niềm tin vào chính những thế lực đứng sau sự tàn phá của thị trấn. Với Krasznahorkai, luôn có chỗ cho những điều không thể đoán trước, và điều đó được được thể hiện trọn vẹn trong đoạn kết.
László Krasznahorkai là một nhà văn sử thi vĩ đại theo truyền thống Trung Âu, nối dài từ Kafka đến Thomas Bernhard, được đặc trưng bởi tính chất phi lý và phóng đại nghịch dị. Nhưng ông còn nhiều cung bậc khác, ông đã sớm hướng mắt về phương Đông, tìm đến giọng điệu chiêm nghiệm và tinh tế hơn. Kết quả là chuỗi tác phẩm lấy cảm hứng từ những ấn tượng sâu sắc trong những chuyến đi đến Trung Quốc và Nhật Bản. Tiểu thuyết Északról hegy, Délről tó, Nyugatról utak, Keletről folyó (2003; A Mountain to the North, a Lake to the South, Paths to the West, a River to the East, 2022) là hành trình tìm kiếm khu vườn bí mật, một truyện huyền ảo với những phân đoạn trữ tình mạnh mẽ diễn ra ở vùng đông nam Kyoto. Tác phẩm như khúc dạo đầu cho kiệt tác Seiobo járt odalent (2008; Seiobo There Below, 2013), tập mười bảy truyện ngắn sắp xếp theo dãy Fibonacci [một dãy số trong đó mỗi số bằng tổng của hai số liền trước nó – ND], xoay quanh vai trò của cái đẹp và sáng tạo nghệ thuật trong một thế giới mù lòa và vô thường. Cùng với bộ năm sử thi, nó đại diện cho những sáng tác lớn của Krasznahorkai. Đặc biệt khó quên là cảnh mở đầu, trong đó một con diệc trắng như tuyết đứng bất động giữa sông Kamo ở Kyoto, chờ đợi con mồi của mình trong những xoáy nước bên dưới. Vô hình trước dòng người qua lại, nó trở thành hình ảnh mong manh cho thân phận người nghệ sĩ.
Điểm chung xuyên suốt cuốn sách là thần thoại Nhật về Seiobo, vị thần canh giữ khu vườn ba nghìn năm mới trổ quả một lần, thứ quả ban cho sự bất tử. Trong Seiobo There Below, thần thoại ấy nói về sự tạo tác nghệ thuật. Chuỗi truyện dẫn ta đi qua nhiều thời gian và môi trường, dõi theo sự khai sinh của tác phẩm nghệ thuật. Quá trình sáng tạo thường diễn ra sau quãng dài chuẩn bị được gọt giũa bởi truyền thống và tay nghề. Tác phẩm cũng có thể ra đời từ những hoàn cảnh bị trì hoãn hoặc nhầm lẫn, như câu chuyện vận chuyển bức tranh dang dở của họa sĩ Phục Hưng nổi tiếng Pietro Vannucci từ Florence về Perugia, thành phố nơi ông sinh ra. Trong khi mọi người đều tin rằng Perugino, tên thường gọi của ông, đã từ bỏ hội họa, thì chính tại Perugia, một phép màu đã xảy ra.
Trong những câu chuyện của Seiobo There Below, chính người nghệ sĩ thường vắng mặt. Thay vào đó là những nhân vật đứng bên lề của tác phẩm sắp sửa ra đời. Những người này có thể là người gác cổng, kẻ quan sát hay người thợ tận tụy, những người hiếm khi hiểu được ý nghĩa công việc mình góp phần tạo nên. Cuốn sách là bức chân dung tuyệt diệu, dẫn người đọc qua hàng loạt “cánh cửa phụ” để chạm đến hành động sáng tạo vốn không thể giải thích.
Một tác phẩm ngắn khác thể hiện rõ sự đa dạng và phong cách văn chương của Krasznahorkai là Aprómunka egy palotáért: bejárás mások őrületébe (Spadework for a Palace: Entering the Madness of Others, 2020), xuất bản năm 2018. Câu chuyện cực kỳ thú vị và có phần điên rồ này diễn ra tại Manhattan, nơi bị ám bởi hồn ma của Herman Melville vĩ đại và những kẻ sùng bái ông. Đây không chỉ là một cuốn sách về lời nguyền của sự bắt chước mà còn là phước lành của sự kháng cự. Nó có thể u sầu – hoặc không.
László Krasznahorkai ở Budapest Book Festival 2012. Photo: Derzsi Elekes Andor, CC BY-SA 3.0 trên Wikimedia Commons.
Giải Nobel Văn Chương 2025
László Krasznahorkai
Giải Nobel Văn Chương 2025 trao cho tác giả László Krasznahorkai, người Hungary,
“vì một sự nghiệp sáng tác đầy sức thuyết phục và tầm nhìn tiên tri, trong đó, giữa nỗi kinh hoàng của tận thế, ông vẫn khẳng định quyền năng của nghệ thuật”
Bibliography – Tuyển chọn
Tác phẩn bằng tiếng Hungary
Sátántangó. – Budapest : Magvető, 1985
Kegyelmi viszonyok : halálnovellák. – Budapest : Magvető, 1986
Az ellenállás melankóliája. – Budapest : Magvető, 1989
Az urgai fogoly. – Budapest : Magvető, 1992
A Théseus-általános : titkos akadémiai előadások. – Budapest : Széphalom, 1993
Kegyelmi viszonyok : halálnovellák. – Budapest : Magvető, 1997
Megjött Ézsaiás. – Budapest : Magvető, 1998
Háború és háború : regény. – Budapest : Magvető, 1999
Este hat, néhány szabad megnyitás : művészeti írások / fotó Haris László et al. – Budapest : Magvető, 2001
Északról hegy, Délről tó, Nyugatról utak, Keletről folyó. – Budapest : Magvető, 2003
Rombolás és bánat az Ég alatt. – Budapest : Magvető, 2004
Seiobo járt odalent. – Budapest : Magvető, 2008
Az utolsó farkas. – Budapest : Magvető, 2009
ÁllatVanBent / képek Max Neumann. – Budapest : Magvető, 2010
Nem kérdez, nem válaszol : huszonöt beszélgetés, ugyanarról. – Budapest : Magvető, 2012
Megy a világ. – Budapest : Magvető, 2013
Báró Wenckheim hazatér. – Budapest : Magvető, 2016
A Manhattan-terv / Ornan Rotem fényképeivel ; Ornan Rotem esszéjét fordította Todero Anna. – Budapest : Magvető, 2018
Aprómunka egy palotáért : bejárás mások őrületébe. – Budapest : Magvető, 2018
Mindig Homérosznak : jó szerencse, semmi más : Odisejeva Spilja / Max Neumann képeivel ; Miklós Szilveszter érhangjával. – Budapest : Magvető, 2019
Herscht 07769 : Florian Herscht Bach-regénye : elbeszélés. – Budapest : Magvető, 2021
Zsömle odavan. – Budapest : Magvető, 2024
Film
Damnation (Kárhozat) / directed by Béla Tarr ; screenplay by László Krasznahorkai and Béla Tarr, 1988
The Last Boat – City Life (Az utolsó hajó) / directed by Béla Tarr ; screenplay by László Krasznahorkai and Béla Tarr, 1990
Satantango (Sátántangó) / directed by Béla Tarr ; screenplay by László Krasznahorkai and Béla Tarr, 1994 [re-released 2020]
Werckmeister Harmonies (Werckmeister harmóniák) / directed by Béla Tarr and Ágnes Hranitzky (co-director, editor) ; screenplay by László Krasznahorkai and Béla Tarr, 2000 [re-released 2024]
The Man from London (A Londoni férfi) / directed by Béla Tarr and Ágnes Hranitzky ; screenplay by László Krasznahorkai and Béla Tarr, 2007. Based on a novel by Georges Simenon.
The Turin Horse (A Torinói ló) / directed by Béla Tarr ; screenplay by László Krasznahorkai and Béla Tarr, 2011
Opera
Melancholie des Widerstands : eine filmische Oper / Musik von Marc-André Balbavie, Text von Guillaume Métayer in Zusammenarbeit mit David Marton nach dem Roman von László Krasznahorkai. Staatsoper Unter den Linden, Berlin 30 juni 2024
Tác phẩn dịch sang tiếng Anh
The Melancholy of Resistance / translated from the Hungarian by George Szirtes. – London : Quartet Books, 1998. – Translation of: Az ellenállás melankóliája
War & War / translated from the Hungarian by Georges Szirtes. – New York : New Directions, 2006. – Translation of: Háború és háború
Animalinside / pictures: Max Neumann ; translated from the Hungarian by Ottilie Mulzet. Cahiers series, 14. – Paris : Center for Writers & Translators, the American University of Paris ; London : Sylph, 2010. – Translation of: ÁllatVanBent
Satantango / translated from the Hungarian by George Szirtes. – New York : New Directions, 2012. – Translation of: Sátántangó
The Bill : For Palma Vecchio, at Venice / translated from the Hungarian by George Szirtes. The art monographs, 2. – London : Sylph, 2013
Seiobo There Below / translated from the Hungarian by Ottilie Mulzet. – New York : New Directions, 2013. – Translation of: Seiobo járt odalent
Destruction and Sorrow Beneath the Heavens : Reportage / translated from the Hungarian by Ottilie Mulzet. – London : Seagull Books, 2016. – Translation of: Rombolás és bánat az Ég alatt
The Last Wolf and Herman / translated from the Hungarian by George Szirtes and John Batki. – New York : New Directions, 2016. – Translation of: Az utolsó farkas
The Manhattan Project : A Literary Diary Presented as Twelve Chance Encounters or Coincidences / alongside a photographic essay by Ornan Rotem ; translated from the Hungarian by John Batki. – London : Sylph, 2017. – Translation of: A Manhattan-terv
The World Goes On / translated from the Hungarian by John Bátki, Ottilie Mulzet and George Szirtes. – New York : New Directions, 2017. – Translation of: Megy a világ
Baron Wenckheim’s Homecoming / translated from the Hungarian by Ottilie Mulzet. – New York: New Directions, 2019. – Translation of: Báró Wenckheim hazatér
Spadework for a Palace : Entering the Madness of Others / translated from the Hungarian by John Batki. – New York : New Directions, 2020. – Translation of: Aprómunka egy palotáért
Chasing Homer : Good Luck, and Nothing Else : Odysseus’s Cave / with art by Max Neumann ; with music by Szilveszter Miklós ; translated from the Hungarian by John Batki. – New York : New Directions, 2021. – Translation of: Mindig Homérosznak : jó szerencse, semmi más : Odisejeva Spilja
A Mountain to the North, a Lake to the South, Paths to the West, a River to the East / translated from the Hungarian by Ottilie Mulzet. – New York : New Directions, 2022. – Translation of: Északról hegy, Délről tó, Nyugatról utak, Keletről folyó
Herscht 07769 : A Novel / translated from the Hungarian by Ottilie Mulzet. – New York : New Directions, 2024. – Translation of: Herscht 07769 : Florian Herscht Bach-regénye
Tác phẩn dịch sang tiếng Pháp
Tango de Satan : roman / traduit du hongrois par Joëlle Dufeuilly. – Paris : Gallimard, 2000. – Traduction de : Sátántangó
La mélancolie de la résistance : roman / traduit du hongrois par Joëlle Dufeuilly. – Paris : Gallimard, 2006. – Traduction de : Az ellenállás melankóliája
Au nord par une montagne, au sud par un lac, à l’ouest par des chemins, à l’est par un cours d’eau / traduit du hongrois par Joëlle Dufeuilly. – Paris : Cambourakis, 2010. – Traduction de: Északról hegy, Délről tó, Nyugatról utak, Keletről folyó
Thésée universel / traduit du hongrois par Joëlle Dufeuilly. – Marseille : Vagabonde, 2011. – Traduction de: A Théseus-általános
La venue d’Isaïe / traduit du hongrois par Joëlle Dufeuilly. – Paris : Cambourakis, 2013. – Traduction de : Megjött Ézsaiás
Guerre & guerre : roman / traduit du hongrois par Joëlle Dufeuilly. – Paris : Cambourakis, 2013. – Traduction de : Háború és háború
Sous le coup de la grâce : nouvelles de mort / traduit du hongrois par Marc Martin. – Sénouillac: Vagabonde, 2015. – Traduction de: Kegyelmi viszonyok
Seiobo est descendue sur terre : roman / traduit du hongrois par Joëlle Dufeuilly. – Paris : Cambourakis, 2018. – Traduction de: Seiobo járt odalent
Le dernier loup / traduit du hongrois par Joëlle Dufeuilly. – Paris : Cambourakis, 2019. – Traduction de: Az utolsó farkas
Le baron Wenckheim est de retour : roman / traduit du hongrois par Joëlle Dufeuilly. – Paris : Cambourakis, 2023. – Traduction de: Báró Wenckheim hazatér
Petits travaux pour un palais : pénétrer la folie des autres / traduit du hongrois par Joëlle Dufeuilly. – Paris : Cambourakis, 2024. – Traduction de: Aprómunka egy palotáért : bejárás mások őrületébe
Tác phẩn dịch sang tiếng Đức
Gnadenverhältnisse / aus dem Ungarischen von Hans Skirecki und Juliane Brandt. – Berlin : Literarisches Colloquium Berlin, 1988 ; Berlin : Berliner Künstlerprogramm d. DAAD, 1988. – Originaltitel: Kegyelmi viszonyok
Satanstango : Roman / aus dem Ungarischen von Hans Skirecki. – Zürich : Ammann, 1990. – Originaltitel: Sátántangó
Melancholie des Widerstands : Roman / aus dem Ungarischen von Hans Skirecki. – Zürich : Ammann, 1992. – Originaltitel: Az ellenállás melankóliája
Der Gefangene von Urga : Roman / aus dem Ungarischen von Hans Skirecki. – Zürich : Ammann, 1993. – Originaltitel: Az urgai fogoly
Krieg und Krieg : Roman / aus dem Ungarischen von Hans Skirecki. – Zürich : Ammann, 1999. – Originaltitel: Háború és háború
Im Norden ein Berg, im Süden ein See, im Westen Wege, im Osten ein Fluss : Roman / aus dem Ungarischen von Christina Viragh. – Zürich : Ammann, 2005. – Originaltitel: Északről hegy, Délről tó, Nyugatról utak, Keletről folyó
Seiobo auf Erden : Erzählungen / aus dem Ungarischen von Heike Flemming. – Frankfurt am Main : S. Fischer, 2010. – Originaltitel: Seiobo járt odalent
Die Welt voran / aus dem Ungarischen von Heike Flemming. – Frankfurt am Main : S. Fischer, 2015. – Originaltitel: Megy a világ
Baron Wenckheims Rückkehr : Roman / aus dem Ungarischen von Christina Viragh. – Frankfurt am Main : S. Fischer, 2018. – Originaltitel: Báró Wenckheim hazatér
Herscht 07769 : Florian Herscht Bach-Roman : Erzählung / aus dem Ungarischen von Heike Flemming. – Frankfurt am Main : S. Fischer, 2021. – Originaltitel: Herscht 07769 : Florian Herscht Bach-regénye
Im Wahn der Anderen : drei Erzählungen / aus dem Ungarischen von Heike Flemming ; mit Zeichnungen von Max Neumann und einem Schlagzeugsolo von Miklós Szilveszter. Inhalt: Animalinside ; Kleinstarbeit für einen Palast ; Richtung Homer. – Frankfurt am Main : S. Fischer, 2023. – Originaltitel: Mindig Homérosznak, Aprómunka egy palotáért, ÁllatVanBent
Tác phẩn dịch sang tiếng Thụy Điển
Motståndets melankoli / översättning av Daniel Gustafsson Pech. – Stockholm : Norstedts, 2014. – Originaltitel: Az ellenállás melankóliája
Satantango / översättning av Daniel Gustafsson Pech. – Stockholm : Norstedts, 2015. – Originaltitel: Sátántangó
Seiobo där nere / översättning av Daniel Gustafsson. – Stockholm : Norstedts, 2017. – Originaltitel: Seiobo járt odalent
Den sista vargen / översättning av Daniel Gustafsson. – Stockholm : Norstedts, 2020. – Originaltitel: Az utolsó farkas
Herscht 07769 : Florian Herschts roman om Bach / översättning av Daniel Gustafsson. – Stockholm : Norstedts, 2023. – Originaltitel: Herscht 07769 : Florian Herscht Bach-regénye
Khác
Dames, Nicholas, The Chapter : A Segmented History from Antiquity to the Twenty-First Century. – Princeton : Princeton University Press, 2023
Hansson, Cecilia, ”László Krasznahorkai : verkligheten var inte viktig för oss” ur Hopplöst, men inte allvarligt : konst och politik i Centraleuropa. – Stockholm : Natur & Kultur, 2017
Krasznahorkai, László, “The Last Boat” and “Getting Away from Bogdanovich” in Thy Kingdom Come : 19 Short Stories by 11 Hungarian Authors / translated by Eszter Molnár. – Budapest : Noran/Palatinus, 1999
Krasznahorkai, László, ”Muet face au sourd”. Le grand tour : autoportrait de l’Europe par ses écrivains / ouvrage collectif sous la direction d’Olivier Guez. – Paris : Bernard Grasset, 2022
Krasznahorkai, László, ”Under barberarens hand” i Motivutveckling : en antologi med 14 ungerska berättelser från 80-talet / översättning och redaktörskap: Jorgos Alevras. – Stockholm : Symposion, 1990
”László Krasznahorkai” in Die Paris Review Interviews – 03 / übersetzt von Alexandra Steffes. – Düsseldorf : Weltkiosk, 2019
“László Krasznahorkai, Béla Tarr, Max Neumann” in Music and Literature. Issue two, Spring 2013
Le Grand Tour : autoportrait de l’Europe par ses écrivains / ouvrage collectif sous la direction d’Olivier Guez. – Paris : Bernard Grasset, 2022
Lending, Mari, ”Fabrics of Reality : Art and Architecture in László Krasznahorkai” in Reading Architecture : Literary Imagination and Architectural Experience / edited by Angeliki Sioli and Yoonchun Jung. – New York : Routledge, 2018
Thirlwell, Adam, ”The Art of Fiction No. 240 : László Krasznahorkai” in The Paris Review, no 225, 2018
Vihar, Judit, “Japanese Genji’s Hungarian Grandson” in In search of Prince Genji : Japan in Words and Images. – Budapest : Ferenc Hopp Museum of Asiatic Arts, 2015
Wood, James, “Reality Examined to the Point of Madness: László Krasznahorkai” in The fun Stuff and Other Essays. – New York : Farrar, Straus and Giroux, 2012