Nguyễn Hồng Anh
Cảnh chiến tranh ở Việt Nam trong một số tác phẩm Mỹ thường được hình tượng hoá một chiều thành cảnh tượng cưỡng hiếp, trong đó kẻ mạnh hơn mang uy quyền nam giới áp đặt lên kẻ yếu thế là nạn nhân nữ giới đáng thương. Theo tôi, khởi đầu của cách nhìn rập khuôn này là từ những tác phẩm viết vào thời kì đầu của chiến tranh Mỹ-Việt, một trong số đó là Người Mỹ trầm lặng (1955) của Graham Greene.
Tiểu thuyết “Người Mỹ trầm lặng” do một nhà báo người Anh viết, xuất phát từ quan điểm phương Tây trung tâm luận, cho đến gần đây vẫn được xem là tác phẩm kinh điển của đề tài chiến tranh Việt Nam, thuộc dòng văn học chính thống viết bằng tiếng Anh. Không thể phủ nhận giá trị lịch sử và văn chương của tác phẩm, nhưng xét từ góc nhìn của người Việt thì Graham Greene đã phiến diện trong cách xây dựng hình tượng nhân vật:
Phượng, trong con mắt của nhân vật chính Thomas Fowler, đại diện cho phụ nữ Việt Nam nói riêng và ẩn dụ cho cả đất nước Việt Nam nói chung trong hoàn cảnh chuyển giao lịch sử giữa thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, là một cô gái kém hiểu biết, thụ động và hoàn toàn câm lặng:
“Bao giờ chúng tôi cũng nói về Phượng theo kiểu đó, cô ở ngôi thứ ba trong lời nói, y như cô không có mặt ở đó. Có khi như người ta không nhìn thấy cô, y như người ta không nhìn thấy hoà bình vậy” (Graham Greene, Người Mỹ trầm lặng. TP. HCM: Nxb Văn nghệ TP. HCM, 2001, tr. 66)
hay
“Theo tôi biết, cô ta có thể có những nỗi sợ như chúng tôi, nhưng không bao giờ biết nói những điều đó ra” (tr. 214).
Dưới con mắt của những người phương Tây đang hiện diện tại Việt Nam lúc đó, đất nước đang sắp kết thúc cuộc chiến cũ và sửa soạn cho cuộc chiến mới này chẳng những không có vai trò tự quyết, mà còn không có chính kiến và rất dễ tổn thương trong thế cuộc chính trị các nước phương Tây bày ra; như cái cách Fowler, đại diện cho cựu thực dân (dù ông ta luôn nói mình “trung lập” (tr. 207), nhưng đã thừa nhận về cuối tác phẩm, rằng “tôi cũng đã đứng hẳn về một phía” (tr. 290)), và Alden Pyler, đại diện cho người Mỹ, giành giật nhau thân xác và tình yêu của cô gái Việt Nam tên Phượng.
Hình ảnh cuộc chiến này, vì thế, đã bị định hình: phương Tây là kẻ mạnh (thủ phạm), nước Việt là kẻ yếu (nạn nhân). Những tác phẩm văn học và điện ảnh Mỹ về sau ít nhiều đều chịu ảnh hưởng của khuôn mẫu này, như Chuyện của Paco (1987) của Larry Heinemann, Những thứ họ mang (1990) của Tim O’Brien, bộ ba phim chiến tranh Việt Nam Platoon (Trung đội) (1986), Born on the Fourth of July (Sinh ngày 4/7) (1991) và Heaven & Earth (Trời và đất) (1993) của Oliver Stone.
[…]
Viet Thanh Nguyen từng nói, trong một bài báo:
“…biến người khác trở thành nạn nhân thì tốt hơn chính mình là nạn nhân. Đó là lí do vì sao các câu chuyện chiến tranh Việt Nam của Mỹ, vốn nhấn mạnh vào những điều xấu người Mỹ đã làm, thường biến người Việt Nam trở thành những diễn viên quần chúng. Như bất kì ngôi sao điện ảnh nào cũng sẽ thừa nhận, thà làm một nhân vật phản anh hùng chiếm trung tâm sân khấu còn hơn làm diễn viên quần chúng đức hạnh ở hai bên cánh gà (“On True War Stories”, Oklahoma Humanities Magazine, 2017, tr. 47).
(Đoạn ý kiến trên trích từ cuốn sách: Nguyễn Hồng Anh, Tác phẩm của Viet Thanh Nguyen về chiến tranh Việt Nam dưới góc nhìn căn tính, Nxb Đại học Sư phạm TPHCM, 2025 – có sửa một đôi chỗ không đáng kể)
(Và như thế, ta nên đọc tác phẩm này như một “di sản”, một “khuôn mẫu” củng cố những khuôn mẫu, hay tốt nhất là nên đưa nó vào bảo tàng?)
N. H. A.
5/11/2025

Poster phim chuyển thể từ tiểu thuyết, lấy trên Google Play