Sự thách đố của Cái Ác

(Đọc Cái Ác – Một thách thức đối với triết học và thần học của Paul Ricœur)

Dương Thắng

Từ những công trình đầu tiên nhằm xây dựng một hiện tượng học của ý chí cho đến bản thảo cuối cùng còn dang dở về cái chết, Paul Ricœur đã liên tục suy tư về vấn đề Cái Ác. Thế nhưng trong đời sống riêng tư, một thử thách khủng khiếp đã giáng xuống ông: cái chết tự sát của một người con trai. Trong một tác phẩm mang tính tự truyện ông đã viết: “Ít ngày sau […] cú sét đánh đã giáng xuống và rạn nứt toàn bộ đời sống chúng tôi: vụ tự sát của người con trai thứ tư […]. Tôi tìm được chút nương tựa ở một tiểu luận mà tôi đã viết vào mùa thu trước đó và được xuất bản không lâu sau tấn bi kịch này; tiểu luận có tựa đề Cái Ác – Một thách thức đối với triết học và thần học… trong đó tôi đã cố gắng diễn đạt những nghịch lý do Cái Ác đau khổ khơi lên và vốn bị các lý thuyết thần học che khuất; trong văn bản này, ở phần kết, tôi đã phác họa những chặng đường của một sự chấp thuận và của một thứ minh triết. Thật bất ngờ sau biến cố cá nhân ấy, tôi bỗng nhận ra rằng bản thân mình là người đầu tiên cần tiếp nhận những suy tưởng quyết liệt ấy”.

RICŒUR, Réflexion faite (Suy ngẫm), tr. 79–80.

1. Cái Ác luôn là một thách đố đối với mọi hệ tư tưởng. Nó cũng là một thách đố đối với mọi sự hiện hữu, bởi Cái Ác vừa là tội lỗi vừa là đau khổ, và sự đau khổ ấy lại là do con người gây ra cho con người. Có thể thấy rằng Paul Ricœur là một trong số ít triết gia của thế kỷ XX đặt vấn đề Cái Ác (le mal) vào trung tâm của một dự án triết học “dài hơi” liên tục được bổ sung và cấu trúc lại. Với ông, Cái Ác không chỉ là vấn đề của triết học đạo đức, không chỉ là sự khiếm khuyết trong hệ thống thần học, mà trước hết là một trải nghiệm sống, một sự thử thách tới tận nền tảng của hiện hữu. Ricœur không tiếp cận Cái Ác theo lối siêu hình học cổ điển (như Augustin), cũng không theo hướng duy lý (như Kant), và cũng không đi theo con đường phi lý tính (như Camus hay Kierkegaard). Thay vào đó, ông tìm kiếm một cấu trúc hiện tượng học của Cái Ác, nơi các cấp độ: kinh nghiệm, hành vi, biểu tượng, huyền thoại hay tự sự đều tham gia vào việc tạo nên ý nghĩa. Và điều mà Ricœur quan tâm nhất không phải là “Cái Ác là gì?”, mà là “Cái Ác xuất hiện như thế nào? Nó biểu hiện ra sao trong kinh nghiệm sống và trong diễn giải của con người?”.

2. Trong tác phẩm Philosophie de la volonté (Triết học của ý chí, 1950), Ricœur bắt đầu từ một cấu trúc hiện tượng học: ý chí (volonté). Con người “muốn”: muốn hành động, muốn hiện hữu, muốn trở thành tự do. Thế nhưng, ngay khi hiện tượng học mô tả ý chí, nó đã vấp phải một giới hạn, bởi vì mỗi hành động đều chứa trong nó một khả thể (tôi có thể) và một bất khả thể (tôi không thể). Ricœur gọi đó là tính mong manh, dễ gãy đổ của chủ thể. Và chính lằn ranh mong manh này đã tạo ra điều kiện để Cái Ác xâm nhập vào kinh nghiệm người. Theo Ricœur thì con người có thể gây ra Cái Ác vì nó có khả năng hành động. Một nhận xét thực sự gây sốc bởi vì trong cảm nghĩ thông thường thì khả năng hành động vốn là trung tâm của tự do – nhưng giờ đây theo Ricœur nó lại chứa mầm mống của Cái Ác. Vậy thì Cái Ác không đến từ “bên ngoài”, nó đến từ cấu trúc nội tại của chủ thể, tức là mầm mống của Cái Ác luôn hiện diện ngấm ngầm trong mỗi chúng ta. Nói một cách rõ ràng hơn thì Cái Ác không phải là một thành tố của thế giới, một “bản thể” theo nghĩa một bản tính tự nhiên mà ngược lại đến từ hệ vấn đề của sự tự do. Một kết luận thực sự gây sốc của Paul Ricœur!

3. Cuốn sách mỏng này của Ricœur được chia thành ba phần, trong phần một Ricœur đã phác họa một bức tranh toàn cảnh để làm nổi bật sự phức tạp của vấn đề. Ông cho rằng cần phải giải phóng Cái Ác khỏi lớp vỏ bọc mà người ta gọi là “Cái Ác nói chung”. Điều này có nghĩa là phải chống lại xu hướng đặt “Cái Ác luân lý” và “Cái Ác thể chất” dưới cùng một danh mục. Về phía Cái Ác luân lý, các điều kiện đã quá quen thuộc: trước hết phải có một tác nhân có thể bị coi là chịu trách nhiệm – đó là thời điểm của việc quy trách nhiệm; tiếp đến là sự vi phạm nào đó đối với một bộ quy tắc đạo đức đã được cộng đồng thừa nhận – đó là thời điểm của sự buộc tội; và cuối cùng là việc áp dụng một lời tuyên phạt – đó là thời điểm của hình phạt, mà ta đừng quên, vốn đã là bắt người ta phải chịu đau đớn. Về phía Cái Ác thể chất, các điều kiện lại khác: tương ứng với quy trách nhiệm là nỗi chịu đựng; đối diện với buộc tội và người buộc tội là nạn nhân và kẻ hành hạ; đối diện với sự khiển trách và hình phạt là lời van xin và tiếng rên la. “Cần nhấn mạnh đến tính dị biệt cơ bản giữa Cái Ác đã phạm và Cái Ác phải gánh chịu” (tr. 33).

4. Vậy tại sao lại có sự lẫn lộn giữa hai trải nghiệm này, dẫu rằng chúng khác nhau đến vậy, như Ricœur đã băn khoăn: “Bất chấp sự phân cực không thể chối cãi này, điều gì đã khiến cho triết học và thần học suy tưởng về Cái Ác như là nguồn cột chung của tội lỗi và đau khổ?” (tr. 35). Phải chăng vì hai trải nghiệm này đan xen vào nhau một cách kỳ lạ? Quả là như vậy, khi con người làm cho con người đau khổ, thì chịu đựng theo một nghĩa nào đó lại phát sinh từ hành động; sự độc ác, bạo lực, tạo ra đau đớn. Hơn nữa, việc chịu đựng – như chính từ khổ hình/khổ sai (peine) đã cho thấy – một điều gì đó dường như là “hợp lý” (ít nhất là người ta tin như vậy).

5. Hai hình thức của Cái Ác đã gắn chặt vào nhau đến mức mà Ricœur tin rằng phải đào bới sâu hơn nữa để tìm ra lý do thực sự của sự tái tạo bất tận tính thống nhất của hai loại Cái Ác này. Mọi sự đã diễn ra như thể chính những sức mạnh quỷ quái giống nhau sản sinh đồng thời cả hành động làm điều ác và hành động chịu đựng điều ác, như thể Cái Ác là một huyền nhiệm, mà nơi đó ta chỉ thấy trồi lên hai mảnh vỡ: cái hành động tàn ác và cái hành động chịu đau khổ. Hai hình thức của Cái Ác đã gắn chặt vào nhau đến mức khiến chúng ta luôn bối rối khi đặt ra câu hỏi: Đâu mới là phần thực sự thuộc về Cái Ác thể chất nếu con người muốn loại bỏ được số lượng khủng khiếp những đau khổ mà con người gây ra cho nhau?

6. Để trả lời cho câu hỏi trên, trong phần hai của cuốn sách, Ricœur đã tiến hành phân tích những cấp độ diễn ngôn về Cái Ác đã từng xuất hiện trong lịch sử nhân loại. Theo ông có 5 cấp độ tương ứng với 5 giai đoạn lịch sử của các diễn ngôn này: Thần thoại, minh triết, thuyết ngộ đạo, biện thần luận, triết học phê phán và phép biện chứng. Cấp độ thần thoại chỉ mang lại sự an ủi về một trật tự chung, nó không trả lời phần quan trọng của câu hỏi, không chỉ là câu hỏi “tại sao” mà còn là “tại sao lại là tôi”. Thần thoại hay huyền thoại chỉ kể lể về nguồn gốc của Cái Ác, nhưng vấn đề cần làm là phải biện luận và giải thích về các phương diện khác nhau của Cái Ác gắn với con người. Chẳng hạn truyền thống Kitô giáo xem câu chuyện Adam-Eve-Rắn như một lời giải thích cho nguồn gốc Cái Ác. Nhưng điều rõ ràng là truyền thống ấy không bao giờ có thể là một “lời giải thích” theo cách hiểu của triết học hiện đại. Những huyền thoại tương tự đều là một hình thức diễn đạt cho một điều không thể giải thích: Cái Ác đã đi vào thế gian này như thế nào?

7. Một chiều sâu nữa trong bức màn bí ẩn về Cái Ác: logic báo ứng. Cái logic dựa trên mệnh đề cổ xưa được phổ biến rộng rãi: “người tốt sẽ được trọng thưởng, kẻ ác sẽ bị trừng phạt”. Đối với các nền văn minh, đây là nhu cầu nền tảng của ý thức về công lý, thế nhưng ngay cả Kinh Thánh cũng đã phá vỡ mệnh đề ấy bằng câu chuyện về những người vô tội chịu bao oan ức và đau khổ. Ở đây ta cũng đã chạm tới điều cốt yếu: Không thể có bất kỳ cách nào để thiết lập cái mạch nhân quả giữa đau khổ và tội lỗi. Tư duy lý tính không thể còn tiếp tục tin vào cái môtif “có tội sẽ chịu hình phạt” như một lời giải thích có hiệu lực về thế giới.

8. Nhưng suy tư minh triết, sau khi được triển khai đã dẫn đến những mô hình lý giải khác nhau về Cái Ác: thuyết nhất nguyên, thuyết nhị nguyên, hữu thể học thần học, biện thần luận, triết học tư biện và thần học hiện đại… Nhưng mọi hướng đi này đều dẫn đến một ngõ cụt. Trong suốt chiều dài lịch sử tư tưởng của mình, con người nhận ra rằng tăng cường những nỗ lực tư duy, họ càng thấy rõ hơn sự bất lực của mình khi muốn tiếp cận để mổ xẻ hay phân tích Cái Ác bằng con đường suy tưởng hay tư biện đơn thuần. Mọi nỗ lực tư duy, dù tinh tế hay hùng biện đến đâu cũng đều vấp phải những nan đề không thể giải quyết được.

9. Ngay từ khi bắt đầu hành trình triết học của mình, Ricœur đã nhận diện được tất cả những thứ “chướng ngại khiến người ta sẽ gục ngã trên đường” và ông tin rằng một diễn giải hữu ích phải là một diễn giải đi theo con đường vòng. Bởi “bức màn sương mù mờ ảo bao phủ Cái Ác” (Cái Ác thể xác, điều ác phạm phải, điều ác cam chịu, Cái Ác có mầm mống trong lòng sự tự do…) chính là một bức tường chặn đứng mọi nỗ lực của tư tưởng muốn xác lập sự mạch lạc logic xác tín về Cái Ác. Cái Ác cũng không thể được soi chiếu bằng lý trí giống như các học thuyết thần học đã nỗ lực làm. Nhưng cái “tuyệt lộ” trên con đường tư duy, theo Ricœur không hẳn là “ tuyệt lộ” trên mọi phương diện. Thay vì cổ vũ cho việc “suy tư nhiều hơn nữa” như các hệ tư tưởng trước đây vẫn gắng gỏi làm thì Ricœur đề xuất một cách “tư duy khác đi”. Cách tư duy khác đi mà Ricœur đề xuất đó là một phân tích dựa trên hiện tượng học kết hợp với thông diễn học (herméneutique) để làm sáng tỏ các biểu tượng, các huyền thoại và của cả chính lý tính về Cái Ác.

10. Tuyên ngôn về một cách “suy tư khác đi” của Ricœur thể hiện rất rõ ràng trong phần ba của cuốn sách này: “Giờ đây, trách vụ của hành động và của ‘tâm linh’, khi đối mặt với nan đề này không phải tìm ra một giải pháp, mà là một lời hồi đáp nhằm làm cho nan đề này trở nên năng sản (productive) và bổ ích, đó là tiếp tục công việc của suy tư trên bình diện hành động và cảm thụ” (tr. 72). Vì thế, Sự hồi đáp (chứ không phải lời giải đáp) cho câu hỏi “Cái Ác từ đâu mà có?” thể hiện thông qua hành động sẽ là: “Phải làm gì để chống lại Cái Ác?” như thế chúng ta đã hướng cái nhìn vươn tới tương lai, bằng một ý tưởng về một trách nhiệm phải hoàn thành, như một cách hồi đáp cho câu hỏi về nguồn gốc cần phải khám phá” (tr. 73). Nhưng nếu chỉ hành động về mặt đạo đức và chính trị để chống lại Cái Ác là chưa đủ mà ông đòi hỏi thêm một bước nâng cấp cao hơn nữa “[…] những sự chuyển hóa, nhờ đó những tình cảm nuôi dưỡng sự than thở và thống trách có thể vượt qua nhờ những tác động của sự hiển minh được sự suy niệm triết học và thần học làm cho phong phú và sâu sắc hơn” (tr. 75).

11. Như vậy có thể thấy rằng triết học về Cái Ác của Paul Ricœur không nhằm tới việc đưa ra một định nghĩa hay một hệ thống triết học mới, bởi ông tin rằng Cái Ác là một hiện tượng luôn vượt ra ngoài khả năng nắm bắt của lý trí. Khi lý trí cố hiểu về Cái Ác, nó chỉ có thể hiểu được một phần, và luôn có những phần còn lại – “phần dư thừa” – không thể lý giải và sẽ nằm ngoài mọi diễn giải. Những phần này được gọi là “dư thừa” không phải vì thiếu “ý nghĩa” mà ngược lại có quá nhiều ý nghĩa khiến chúng ta không thể đặt chúng vào trong bất kỳ khung lý thuyết nào.

12. Vậy thì đâu là đóng góp của triết học về Cái Ác của Paul Ricœur? Tư tưởng của ông nhằm giúp cho con người hiểu chính bản thân mình, hiểu rằng mọi nỗi đau đều không phải là chặng cuối cùng của cuộc đời, ông cũng dạy cho con người cách làm thế nào có thể sống sót tiếp mà sau khi Cái Ác đã đi qua và tàn phá cuộc đời mình và luôn luôn cần phải nuôi dưỡng hy vọng như một năng lực sống, một cách bảo tồn bản sắc sau những đổ vỡ (giống như trường hợp của cá nhân ông sau những tấn bi kịch gia đình). Vì thế triết học về Cái Ác của ông – trải dài hơn nửa thế kỷ tư duy có thể tóm lược trong một câu duy nhất: Triết học không xóa bỏ hay chấm dứt Cái Ác, nó trao cho chúng ta một công cụ để sống một cuộc đời có ý nghĩa trong một một thế giới bất toàn, để mỗi khi phải đối mặt với Cái Ác cũng sẽ không để cho nó hủy diệt mình.

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.