Hiếu Tân
Trong tác phẩm Con người Một chiều: Nghiên cứu về ý thức hệ của xã hội công nghệ tân tiến (One-Dimensional Man: Studies in the Ideology of Advanced Industrial Society) (1964), Herbert Marcuse đưa ra lí thuyết “Một chiều” (One-Dimension): ‘Con người Một chiều’, với ‘Tư duy Một chiều’ tạo nên ‘Xã hội Một chiều’ – một xã hội không có đối lập, mà “không có đối lập” là điều kiện thuận lợi để xã hội duy trì và vĩnh viễn hóa sự thống trị, áp bức, kiểm soát con người. Con Người, theo Marcuse, là chủ-thể có tự do, sáng tạo và quyền tự quyết. Xã hội đương đại, theo Marcuse, hạn chế, kiềm chế và áp chế con người, nhưng mang trong lòng nó những khả thể giải phóng. Con người cần phải thoát khỏi tình trạng một chiều, phê phán trạng thái xã hội hiện tồn, tìm cách biến các khả thể thành hiện thực.
ĐỐI TƯỢNG
Mô hình xã hội để Marcuse quan sát và phê phán là xã hội tư bản đương thời, mà ông gọi bằng thuật ngữ “xã hội công nghệ tân tiến” (advanced technological society) với nền sản xuất phát triển cao của nó, với tình trạng áp bức vẫn y nguyên của nó nhưng chỉ thay đổi về hình thức, với sự kiểm soát (và thu phục) mọi mặt của cuộc sống con người bằng những phương tiện tinh vi xảo quyệt mà tiến bộ khoa học kĩ thuật đã đem đến. Ông nhìn phe xã hội chủ nghĩa cũng qua lăng kính ấy, nên trong khi phê phán chủ nghĩa tư bản, tiện thể ông bao gồm luôn những bệnh trạng của chủ nghĩa xã hội mà ông không nêu bật sự khác biệt nào. Nói chung phê phán của Marcuse là phê phán xã hội đương đại, không phân biệt tư bản hay cộng sản. Cách nhìn trung dung đánh đồng này cách xa thực tế thế nào là điều mà ai cũng thấy.
PHƯƠNG PHÁP
Marcuse áp dụng phép biện chứng của Hegel và Marx. Trung thành với chủ nghĩa Marx “cổ điển,” ông lấy lại (không phê phán) không chỉ phương pháp mà cả những luận điểm của Marx, nói chung về phương diện này, ông cũng ‘một chiều’. Theo định nghĩa của ông, Con người Một chiều là con người quy thuận những thiết chế hiện hành (tư tưởng, hiện trạng xã hội…) và không thấy cần thiết phải phê phán nó, vậy có thể gọi nó một cách khác: Con người Thuận chiều. Bản thân Marcuse đề xuất luận điểm về Con người Một chiều, nhưng trong lập luận, ông thuận theo học thuyết của người thầy của ông trước đó 100 năm: K. Marx. Ông tự nhận mình theo phép biện chứng Hegel, nhưng biện chứng của ông không phải là biện chứng triệt để.
Cốt lõi phép biện chứng của Hegel nằm trong ý tưởng “mâu thuẫn là động lực của phát triển.” Trong tiến trình tư duy, những ý tưởng ban đầu là những “tiền đề.” Tiếp tục tư duy, sẽ xuất hiện những ý tuởng mới, trái ngược với tiền đề, được gọi là “phản đề,” chúng làm thành một cặp mâu thuẫn, vừa nương tựa nhau vừa đấu tranh với nhau, trong đó phản đề có xu hướng phủ định tiền đề. Một khi có tính hợp lý lớn hơn, phản đề sẽ thắng và thay thế tiền đề; nhưng tiền đề cũng không hoàn toàn mất đi, một số yếu tố hợp lý của nó còn lại sẽ hợp với phản đề tạo thành “hợp đề”, bao gồm những yếu tố hợp lý của cả hai, tiền đề và phản đề. Phản đề là phủ định của tiền đề, hợp đề lại là phủ định của phản đề, nên nó là “phủ định của phủ định.” Quá trình phát triển như vậy là “đấu tranh giữa những mặt đối lập”, nó bao gồm một chuỗi những phủ định, cứ thế đến vô cùng. Phát triển, là được thay thế bằng cái khác, cái mới hơn, tiến bộ hơn.Vì muốn thắng cái trước thì cái sau phải hợp lí hơn, nên sự phát triển tiến lên theo hướng ngày càng hợp lý: nó là tiến bộ. Khi không còn đối lập, thì không còn phát triển, sự vật rơi vào bế tắc, suy tàn, và chết.
Trong thời của nó và gần hết thế kỷ XX, phương pháp biện chứng Hegel thống trị triết học châu Âu, do nó mang đến một công cụ đắc dụng trong việc giải thích những quá trình phát triển. Nhưng nếu có tham vọng là học thuyết duy nhất đúng và mãi mãi đúng, thì nó tất thất bại, vì như vậy nó phản lại chính nguyên lý cốt lõi của mình.
Hegel nói: Cái gì hiện thực là hợp lý. Cái gì hợp lý là Hiện thực.
Đừng hiểu câu nói trên như một giáo huấn, hay một chân lý bất di bất dịch. Hegel là một triết gia, để tôn trọng ông, ta nên coi lời ông như một gợi mở cho suy tư.
Hiện thực là gì? Hiện thực không phải chỉ là những điều đã và đang xảy ra, mà là toàn bộ diễn biến của cuộc sống, trong đó có những điều đã xảy ra, đang xảy ra và có thể xảy ra (trong tương lai).
Hợp lý là gì? “Lý” đây là Lý tính, có thể hiểu là Lý tính tuyệt đối đồng nhất với Thượng đế, mà, trong thời đại hậu Khai Sáng của Hegel, nó còn là Lý tính của Con người có tư duy sáng suốt.
Diễn giải mệnh đề kép của Hegel, F. Engels cho rằng nó có ý nghĩa cách mạng. Theo ông, kết luận có thể rút ra một cách logic từ mệnh đề ấy là: CÁI GÌ ĐANG TỒN TẠI NHẤT ĐỊNH PHẢI TIÊU VONG.
Với suy nghĩ này, Engels mới thật sự là biện chứng. “NÓ” phải tiêu vong không phải vì “Nó” suy tàn; “NÓ” tiêu vong chỉ vì nó đang tồn tại. Một kết luận triệt để: Không có cái gì tồn tại vĩnh viễn! Bất cứ cái gì đang tồn tại sẽ đến lúc bị thay thế bởi cái khác, như một lẽ đương nhiên.
Theo cách ngôn của Hegel, Marcuse thấy trong xã hội đương thời những gì Hiện thực thì không Hợp lý, còn những gì Hợp lý vẫn chưa thành Hiện thực. Nếu không nhìn hai khái niệm ‘Hợp lý’, ‘Hiện thức’ một cách cứng nhắc, tức là siêu hình, thì phải thấy rằng điều gì là hợp lý đối với (nhóm) người này thì không hợp lý đối với (nhóm) người khác, và khi một nhóm người nào thấy điều gì là hợp lý, thì họ cố công biến nó thành hiện thực, bằng lực lượng của mình. Họ chỉ thành công khi nhìn ra đúng những khả thể.
Đứng đối diện với thực tại xã hội, Marcuse có cảm giác hầu như tất cả các tiếng nói trong xã hội đều thuận theo một chiều, chiều phụ họa chính thống, thần phục cái đang ngự trị, khẳng định cái đang thịnh hành. Marcuse gọi chung nó là tư duy khẳng định (positive). Mà tình trạng của xã hội đương thời là gì? Là thống trị, áp bức, bóc lột. Là kiểm soát, quản lý con người một cách tinh vi, triệt để. Là kiềm chế, kìm kẹp con người. Trong khi mục tiêu của tiến bộ là giải phóng con người – như những chủ-thể có tự do, sáng tạo và quyền tự quyết. Bởi vậy, ông đòi hỏi ở ý thức xã hội một tư duy phê phán, (và, dõng dạc hơn: phủ định!), dựa trên những khả thể về một sự thay đổi về chất (qualitative change).
Tiêu điểm phê phán của Marcuse là nền sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, với những đặc điểm nổi bật là sức sản xuất tăng mạnh và tính hiệu quả cao, nhờ tiến bộ khoa học kĩ thuật và những phương pháp công nghệ mới, nhờ hợp lý hóa tổ chức sản xuất (như phương pháp Taylor sản xuất theo dây chuyền) mà Marcuse gọi là tính hợp lý công nghệ. Đúng ra, sự tăng trưởng mạnh mẽ của sức sản xuất là niềm mong ước không chỉ của các nhà kinh tế, mà của toàn xã hội: sản xuất tạo ra nguồn hàng hóa dư dật, làm cho xã hội phồn vinh giàu có, làm mức sống được nâng cao. Tăng trưởng của sức sản xuất, tính hợp lý công nghệ, và mức sống cao dĩ nhiên được tư duy khẳng định nhiệt thành ca ngợi, nhưng là đối tượng phê phán của những người phái tả như Marcuse. Tại sao?
Trước hết, theo Marcuse, tư thế đáng mong đợi ở một tri thức chân chính là tư thế độc lập, của một người biết nhìn thực tại xã hội một cách khách quan và cân phân, không chạy theo một chủ thuyết nào vốn là tập hợp những định kiến có sẵn, không chịu áp lực của một thế lực mạnh mà không có chân lí, không thần phục sức mạnh của đám đông và của tập tục, thói quen. Và đòi hỏi của tư duy biện chứng là phê phán phải mang phẩm chất phủ định.
Sự phê phán phủ định của Marcuse dựa trên những phạm trù biện chứng: thực chất và cái bề ngoài, cái thật và cái giả,
- Về sức sản xuất: ông thấy sự phát triển (quá nhanh, quá mạnh) của sức sản xuất và kĩ thuật là nguyên nhân mọi tiêu cực cần chống lại.
Trước hết, mục tiêu của sản xuất là gì? Nói chung, là cung cấp nguồn của cải vật chất phục vụ những nhu cầu dân sinh. Với những người có lý tưởng xã hội, nó còn phải bảo đảm sự phát triển hài hòa của con người (như một chủ-thể có tự do, sáng tạo và quyền tự quyết.)
Việc nâng cao mức sống có nghĩa là mức độ thỏa mãn những nhu cầu cá nhân đã cao hơn, trong xã hội hiện đại việc thỏa mãn ấy luôn luôn hoặc quá thiếu (ở nơi thiếu) hoặc quá thừa (ở nơi thừa).
Về nhu cầu: trong khi việc thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên của con người còn chưa đạt được đầy đủ, thì nền sản xuất hiện đại lại tạo ra những nhu cầu giả. Trong xã hội công nghệ tân tiến (hiện đại/đương đại) nhu cầu là phi lý, bị áp đặt bởi những sức mạnh từ bên ngoài mà cá nhân không kiểm soát được
Ví dụ 1: Không xã hội nào có nhu cầu tự nhiên chế tạo ra những vũ khí giết người hàng loạt (bom A, bom H v.v.); chính tình trạng các mối quan hệ quốc tế buộc người ta phải làm thế, từ đó, áp đặt lên tâm trí mọi người mối đe dọa hủy diệt. (Giả sử) không ai muốn nó, nhưng giải quyết nó bằng cách nào, câu hỏi này chắc chắn không thể trả lời bằng những suy nghĩ hời hợt.
Ví dụ 2: Phim ảnh, văn hóa phẩm… (và cả những ngành công nghệ) khiêu dâm ra đời, lúc đầu để thỏa mãn của một số ít người đồi bại, nhưng khi phát triển, nó tạo ra những nhu cầu ở khu vực mới, nhân rộng tình trạng đồi bại về phương diện tình dục.
Như vậy, nền sản xuất xã hội của xã hội tư bản hiện đại không đạt được mục tiêu, cả mục tiêu chung và mục tiêu nhân bản.
Về thực chất, nó không thể đạt được, vì mục tiêu của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là lợi nhuận. Cùng với tăng tiến lợi nhuận, nó làm tăng của cải và sự phồn vinh của quốc gia, của xã hội. Và trong sự phồn vinh ấy, các thành phần xã hội tự xoay xỏa lấy cho mình.
Nói chung, nếu đừng rơi vào cực tả, phê phán chỉ trích lấy được, thì ta phải thấy việc nâng cao mức sống chung của xã hội là một tiến bộ rõ rệt. Một ông công nhân có chiếc ôtô, bà vợ ông ta có cái máy giặt, thì đời sống của họ rõ ràng đã có cái thiện so với thế hệ trước, bất chấp họ có thể không cảm thấy hạnh phúc khi so sánh với ông hàng xóm. Tất nhiên, được hưởng lợi từ sự tiến bộ này, người ta không cần biết ơn bất kỳ ông bà chủ nào, ông chính phủ nào: nó đến từ luật tự nhiên! Mặt khác những người thấy thua thiệt trong cuộc đua này thì không thể đổ lỗi cho tăng sức sản xuất xã hội. Họ phải tìm nó ở chỗ khác: ở những nguyên nhân của bất bình đẳng xã hội.
Trong tầm nhìn nhân văn, sức sản xuất tăng mạnh có làm giảm mức độ gay gắt của cuộc đấu tranh sinh tồn, làm dịu bớt những xót xa cay đắng muôn đời của phận người trong cuộc vật vã kiếm miếng ăn không? Câu trả lời, đáng tiếc, là không.
- Về tính hợp lý công nghệ, hiệu quả của nền sản xuất kéo theo hiệu quả của việc kiểm soát con người.
Theo Marcuse trong xã hội công nghiệp, các sức mạnh của lí trí và tự do đang suy giảm: “Với sự tăng độ tập trung và tính hiệu quả của kiểm soát kinh tế, chính trị và văn hóa, sự đối lập trong các lĩnh vực này đã bị dẹp yên, bị thu phục, hoặc bị thanh toán.” Thật ra, lí trí đã trở thành một công cụ thống trị, “nó giúp tổ chức, quản lí và báo trước những sức mạnh sẽ tới, và triệt tiêu ‘Quyền lực của Tính phủ định’.
Một “xã hội bị quản lí toàn diện” dẫn đến sự suy tàn của cá nhân.
Rốt cuộc “cá nhân” là ai?
– Là CON NGƯỜI!
Dễ dàng đọc ra một kết luận đơn giản: “Toàn trị” là phản nhân loại.