Nguồn: https://bessmertnybarak.ru/article/komissiya_pospelova/
Bản dịch của Văn Việt
II. Việc ngụy tạo các tổ chức, khối và trung tâm chống Liên Xô
Các lệnh của Yezhov về việc tiến hành bắt giữ hàng loạt không chỉ định hướng mà còn buộc các cơ quan Dân ủy Nội vụ địa phương phải “phát hiện” các tổ chức nổi dậy của người Cossack, các nhóm gián điệp và phá hoại, “Tổ chức Quân sự Ba Lan” (POV), v.v.
Các trưởng cơ quan Dân ủy Nội vụ, khi nhận được chỉ tiêu bắt giữ vài nghìn người, phải đối mặt với tình thế cùng lúc bắt hàng trăm, thậm chí hàng nghìn người. Và để tạo ra vẻ ngoài hợp pháp cho các vụ bắt giữ này, họ bịa đặt ra đủ loại tổ chức nổi dậy, các khối cánh hữu -Trotsky, các tổ chức gián điệp-khủng bố, phá hoại-lật đổ và các “trung tâm”, “khối” và các nhóm tương tự ở khắp mọi nơi.
Theo các tài liệu điều tra thời đó, thì hóa ra gần như ở tất cả các khu vực, tỉnh thành và các nước cộng hòa đều tồn tại các “tổ chức gián điệp-khủng bố, phá hoại cánh hữu -Trotsky” với mạng lưới rộng lớn, và thường các “tổ chức” hoặc “trung tâm” này do các bí thư thứ nhất của các ủy ban khu vực, tỉnh thành hoặc các Ban Chấp hành Trung ương đảng cộng sản Quốc gia lãnh đạo
Ví dụ, ở khu vực phía Tây trước đây, thủ lĩnh “tổ chức phản cách mạng cánh hữu” được cho là do Bí thư thứ nhất Ủy ban khu vực I.P. Rumyantsev, đảng viên Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) từ năm 1905; ở Tatarstan, lãnh đạo “khối dân tộc chủ nghĩa cánh hữu-Trotsky” là cựu Bí thư thứ nhất Ủy ban khu vực A.K. Lepa, đảng viên Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) từ năm 1914 ; ở khu vực Chelyabinsk, đứng đầu “tổ chức khủng bố chống Liên Xô cánh hữu” là Bí thư thứ nhất Ủy ban khu vực K.V. Ryndin, đảng viên Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) từ năm 1915, v.v.
Tại vùng Novosibirsk “phát giác ” được “Ủy ban Siberia của Tổ chức Quân sự Ba Lan”, “Tổ chức Trotsky trong hàng ngũ Quân đội Công nhân và Nông dân (Hồng quân) Novosibirsk”, “Trung tâm khủng bố Trotsky tại Novosibirsk”, “Đảng Quốc xã Đức tại Novosibirsk”, “Tổ chức phát xít dân tộc-xã hội Latvia tại Novosibirsk” và 33 tổ chức, nhóm “chống Liên Xô” khác.
Bộ Dân ủy Nội vụ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô-viết Tajikistan tuyên bố dường như phát hiện ra một tổ chức phản cách mạng tư sản-dân tộc chủ nghĩa, có liên hệ với trung tâm cánh hữu-Trotsky, Iran, Afghanistan, Nhật Bản, Anh và Đức, và tổ chức tư sản-dân tộc phản các mạng của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Uzbekistan.
Lãnh đạo tổ chức này được cho là 4 cựu bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Tajikistan, 2 cựu chủ tịch Hội đồng Dân ủy, 2 cựu chủ tịch Ủy ban Chấp hành Trung ương nước cộng hòa, 12 ủy viên nhân dân, 1 lãnh đạo các tổ chức nước cộng hòa, hầu hết là những người đứng đầu các phòng ban Ban Chấp hành Trung ương, 18 bí thư các Ủy ban Quận của Đảng Cộng sản Tajikistan, các chủ tịch và phó chủ tịch ủy ban hành chính Quận, các nhà văn, quân nhân và các cán bộ đảng-chính quyền Xô-viết.
Bộ Dân ủy Nội vụ vùng Sverdlovsk đã “phát giác” cái gọi là “Bộ tham mưu phiến quân Ural – một cơ quan của khối cánh hữu và Trotsky, phe cách mạng xã hội chủ nghĩa, giáo sĩ và đặc vụ của «Tổ chức Quân sự Người Nga ở nước ngoài» (ROVS), đứng đầu là Bí thư Ủy ban khu vực Sverdlovsk Kabakov, đảng viên Đảng cộng sản Liên Xô từ năm 1914. Bộ tham mưu này được cho là đã thống nhất 200 đơn vị, tổ chức theo mô hình quân sự, 15 tổ chức phiến quân và 56 nhóm.
Ở khu vực Kyiv, tính đến tháng 12/1937, đã “phát hiện” 87 tổ chức nổi dậy-phá hoại của phiến quân và 365 nhóm phá hoại-nổi dậy.
Những tổ chức phản cách mạng kiểu này không chỉ được bịa tạc ở các khu vực, tỉnh thành, quận huyện, mà còn ở các doanh nghiệp riêng lẻ, và luôn được gán có mối liên hệ với nước ngoài. Ví dụ, tại Nhà máy Hóa chất Rubezhansk ở thành phố Stalino, được cho là tồn tại một “tổ chức gián điệp-phá hoại Trotsky phản cách mạng” có liên hệ trực tiếp với tình báo Ba Lan và Tiệp Khắc.
Về cách nhân viên Dân ủy Nội vụ ngụy tạo các kiểu “trung tâm” và “khối” chống Liên Xô, có thể thấy qua lời khai của A.M. Rosenblum, đảng viên Đảng Cộng sản từ năm 1906, bị cơ quan Dân ủy Nội vụ Leningrad bắt giữ năm 1937.
Rosenblum, khi được thẩm vấn vào năm 1955, khai rằng sau khi bị bắt, ông bị tra tấn dã man, bị ép đưa lời khai giả mạo về chính mình và người khác, trong đó một số người bị xử bắn theo phán quyết của tòa án. Và sau đó, ông được điệu đến văn phòng Zakovsky.
Zakovsky nói về sự vô ích của sự kháng cự, rằng người bị bắt chỉ có một lối thoát duy nhất – nhà tù, và sau đó hứa trả tự do với điều kiện phải khai man trước tòa về “vụ án” hoạt động phá hoại, gián điệp, lật đổ và trung tâm khủng bố ở Leningrad, do Dân ủy Nội vụ bịa đặt.
“…Để rõ ràng hơn,” Rosenblum khai, “Zakovsky trình bày cho tôi một số phiên bản kế hoạch về Trung tâm này và các chi nhánh của nó…
Sau khi giới thiệu các sơ đồ, Zakovsky nói rằng Dân ủy Nội vụ đang chuẩn bị vụ án về trung tâm này, và phiên tòa sẽ công khai. Đưa ra xét xử sẽ là 4-5 người lãnh đạo trung tâm: Chudov, Ugarov, Smorodin, Pozern, Shaposhnikova, v.v., và mỗi chi nhánh sẽ có 2-3 người.
…Vụ án Trung tâm Leningrad phải được tổ chức một cách nghiêm túc. Ở đây, vai trò của nhân chứng có tầm quan trọng quyết định, đặc biệt là là vị trí xã hội (trong quá khứ, dĩ nhiên) và thâm niên Đảng của nhân chứng.
Bản thận anh không cần phải tự bịa gì cả. Dân ủy Nội vụ sẽ chuẩn bị sẵn một bản tóm tắt sẵn sàng cho từng chi nhánh, việc của anh là học thuộc lòng, nhớ kỹ tất cả câu hỏi và câu trả lời có thể được đặt ra tại tòa. Vụ án này sẽ được chuẩn bị trong 4-5 tháng, thậm chí nửa năm. Trong thời gian đó, anh sẽ chuẩn bị để không làm hỏng cuộc điều tra và hại chính mình. Kết quả và diễn biến của phiên tòa sẽ quyết định số phận tiếp theo của anh. Nếu anh lúng túng và hát sai điệu thì hãy tự chịu trách nhiệm. Nếu vượt qua, anh sẽ giữ được cái đầu và sẽ được nuôi ăn nuôi mặc cho đến cuối đời bằng chi phí nhà nước.” (Tài liệu điều tra vụ án Komarov, trang 60-69).
Về những vi phạm nghiêm trọng pháp luật trong quá trình điều tra
Việc thực hành bắt giữ vô căn cứ hàng loạt đã gây tổn hại cho Đảng và nhà nước Liên Xô, dẫn đến những vi phạm nghiêm trọng pháp luật Liên Xô trong các cơ quan điều tra, văn phòng công tố và tòa án.
Theo chỉ đạo của Yezhov và các trợ lý của ông, các nhân viên điều tra Dân ủy Nội vụ trung ương và địa phương đã bỏ qua công tác tình báo nhằm phát hiện kẻ thù thực sự của nhân dân Liên Xô, chuyển sang bắt giữ và điều tra với mục tiêu bằng mọi cách hợp thức hóa các vụ bắt giữ bất hợp pháp và chứng minh tồn tại một mạng lưới rộng khắp nhiều loại hình tổ chức chống phá Liên Xô.
Kẻ thù của Đảng đã lọt vào các cơ quan an ninh nhà nước, những kẻ cơ hội và nịnh hót đã làm công việc đen tối, dùng sự lừa dối và đe dọa lôi kéo những thành viên trung thực của Đảng từ bộ máy bảo vệ lợi ích của Đảng và Nhà nước Xô-viết đến làm việc tại các cơ quan Dân ủy Nội vụ.
Đánh đập và tra tấn hàng loạt những người bị bắt, thẩm vấn liên tục kéo dài nhiều ngày, tống tiền và khiêu khích đã được “hợp pháp hóa” như là phương tiện duy nhất để “vạch trần kẻ thù”.
Việc đơn giản hóa điều tra, được bản luật ngày 1/12/1934 cho phép, đã loại bỏ khả năng xác minh bất kỳ lời khai “bị ép buộc” nào, và việc xác minh này cũng được coi là “không cần thiết” vì tòa án và bộ ba xét xử không có bất kỳ tài liệu nào cả.
Ở nhiều nơi, các trưởng cơ quan Dân ủy Nội vụ đã xác định trước số lượng lời thú tội mà mỗi điều tra viên phải đạt được trong ngày và số lượng tên của các thành viên các tổ chức chống phá Liên Xô phải được ghi trong mỗi biên bản thẩm vấn.
Như quy định, các biên bản thẩm vấn được soạn thảo khi không có mặt người bị bắt, và họ thường chỉ biết nội dung “lời khai của mình” khi ký vào biên bản.
Để có được nhiều lời thú tội hơn, một số cơ quan an ninh nhà nước đã sử dụng các chiêu trò kích động trực tiếp. Họ thuyết phục người bị bắt khai rằng họ làm gián điệp cho các cơ quan tình báo nước ngoài, giải thích với họ rằng những lời khai man này cần thiết cho Đảng và chính phủ. Đồng thời, hứa hẹn người bị bắt sẽ được trả tự do sau khi đưa ra những “lời thú tội” như vậy.
Feldman, cựu lãnh đạo cơ quan Dân ủy Nội vụ khu vực Hạ Amur, trong lời khai viết tay ngày 10/9/1939, cho biết ông đã phải thẩm vấn chỉ huy sư đoàn Derevtsov, người đã từ chối lời khai trước đó của mình. Khi được hỏi lý do từ chối, Derevtsov tuyên bố: “Tôi bị Arnoldov lừa. Ông ta nói rằng tôi không bị bắt mà được huy động theo chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) hỗ trợ cơ quan Dân ủy Nội vụ vạch trần âm mưu quân sự-Trotsky ở Quân khu Viễn Đông Đặc biệt (Special Red Banner Far Eastern Army). Giờ tôi biết đó là sự lừa dối, vợ tôi bị đuổi khỏi nhà, bị bắt, tài sản bị tịch thu…” (Hồ sơ điều tra lưu trữ số 137366 về Feldman).
Một thông lệ phổ biến là đưa một đặc vụ xúi giục hoặc một người bị bắt đã ngoan ngoãn ký vào lời khai giả vào cùng buồng giam với tù nhân ngoan cố chưa chịu khai theo yêu cầu. Người này được giao nhiệm vụ thuyết phục người không chịu “thú nhận” tội lỗi. Ví dụ, A.S. Bubnov thuyết phục P.P. Postyshev, S.S. Shvarts thuyết phục E.G. Yevdokimov, và đặc vụ giam cùng V.K. Blyukher thậm chí được cung cấp rượu cognac trong buồng giam, việc thuyết phục diễn ra trong lúc anh ta nhắm rượu.
Những vi phạm đặc biệt nghiêm trọng trong quá trình điều tra, gây thiệt hại không thể khắc phục cho Đảng, đã diễn ra tại các cơ quan trung ương Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô, nơi gần như tất cả mọi người, từ Ủy viên Nhân dân Yezhov đến nhân viên cấp thấp, đều tham gia đánh đập và ép buộc lời khai giả. Từ đây, các hướng dẫn làm giả hồ sơ được gửi đến các cơ quan ngoại vi.
Những vụ án sau đây cho thấy một bầu không khí đặc trưng bao trùm trong suốt quá trình điều tra.
Vụ án P. P. POSTYSHEV
Đồng chí Postyshev gia nhập Đảng năm 1904 khi mới 16 tuổi và đến cuối đời luôn là một chiến sĩ tích cực của Đảng, có đóng góp to lớn cho nhân dân Xô-viết. Ông tham gia tích cực vào phong trào du kích, thiết lập chính quyền Xô-viết ở Siberia và Viễn Đông. Sau Nội chiến, trong những năm khôi phục kinh tế quốc dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng chí Postyshev đảm nhiệm nhiều vị trí lãnh đạo quan trọng: bí thư Tỉnh ủy Kyiv, bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik), bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Ukraine (Bolshevik) và bí thư thứ nhất Ủy ban Đảng khu vực Kuibyshev.
Ngày 21/2/1938 đồng chí Postyshev bị bắt và bị cáo buộc tham gia vào âm mưu cánh hữu -Trotsky nhằm lật đổ chế độ Xô-viết, đồng thời là gián điệp của Nhật Bản, Ba Lan và Đức. Tòa án Quân sự Tối cao Liên Xô, gồm Ulrich, Dmitriev và Suslin, đã kết án đồng chí Postyshev tử hình. Bản án được thi hành cùng ngày.
Hiện nay đã có nhiều bằng chứng hiển nhiên cho thấy đồng chí Postyshev đã bị trả thù một cách đê tiện. Ngay trong quá trình điều tra vụ án Postyshev, một điều tra viên đã viết cho Yezhov, báo cáo rằng các phương pháp điều tra phi pháp đã được sử dụng với Postyshev, và “lời khai” về “hoạt động gián điệp” chống Liên Xô của ông được các điều tra viên viết khi không có mặt của ông.
Các tài liệu xác nhận lại rằng vụ án bẩn thỉu nhằm vào đồng chí Postyshev và việc giết hại dã man ông đã được đồng chí Stalin phê chuẩn, như cách làm với tất cả các vụ án khác liên quan đến các cán bộ lãnh đạo Đảng và chuyên gia kinh tế.
Tháng 6/1955, Tòa án Tối cao đã hủy bản án trước đó đối với vụ án Postyshev do không có bằng chứng về hành vi phạm tội của ông.
Vụ án S. V. KOSIOR
S.V. Kosior, vào Đảng từ năm 1907, trước Cách mạng Tháng Mười Vĩ đại là thợ máy, từng nhiều lần bị bắt và lưu đày. Sau Cách mạng Tháng Hai, đồng chí Kosior là thành viên Ủy ban Đảng Petersburg, năm 1919 là bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Ukraine, và sau đó là bí thư Ủy ban Siberia của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô. Năm 1924, tại Đại hội Đảng lần thứ XIII, đồng chí Kosior được bầu làm ủy viên Ủy ban Trung ương. Từ năm 1925 đến 1928, ông là bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) và từ năm 1928 đến 1937 là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Ukraine. Từ năm 1937, đồng chí Kosior làm Phó Chủ tịch Hội đồng Dân ủy Liên Xô và Chủ tịch Ủy ban Kiểm soát Liên Xô. Tại Đại hội Đảng lần thứ 17, đồng chí Kosior được bầu làm ứng cử viên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik).
Ngày 3/5/1938, đồng chí S.V. Kosior bị bắt và ngày 26/2/1939, ông bị kết án tử hình ông với cáo buộc tham gia tổ chức phản cách mạng “Tổ chức quân sự Ba Lan” năm 1922, nắm giữ vị trí lãnh đạo trong tổ chức này và là phái viên của Pilsudski tại Ukraine, năm 1934 đã thành lập và đứng đầu “trung tâm khủng bố âm mưu phản cách mạng tại Ukraine”.
Tài liệu đã xác minh, cho thấy đồng chí Kosior bị bắt mà không có bất kỳ căn cứ hay lý do nào. Ngay những ngày đầu tiên bị giam giữ tại nhà tù Lefortovo, ông đã chịu những hình thức tra tấn dã man tàn bạo nhất, các cuộc thẩm vấn kéo dài hơn 14 giờ không ngừng nghỉ, diễn ra buổi đêm, tước giấc ngủ và thời gian nghỉ ngơi tối thiểu của ông. Chỉ cần nói điều này đủ biết, ông bị thẩm vấn 54 lần, mặc dù vụ án chỉ có 4 biên bản thẩm vấn. Bằng cách không cho ngủ, tra tấn và hành hạ tàn bạo, người ta đã buộc đồng chí Kosior ký vào các biên bản được viết theo ý đồ của các điều tra viên khi không có mặt bị cáo.
VỤ ÁN R. I. EIKHE
Eikhe Robert Indrikovich, người Latvia, Đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1905, một trong những nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng và nhà nước Xô-viết, một chiến sĩ tích cực đấu tranh cho sự nghiệp của Đảng. Trong nhiều năm ông là bí thư thứ nhất Ủy ban Đảng khu vực Tây Siberia. Eikhe là ứng cử viên của Bộ Chính trị Ủy ban Trung ương, trước khi bị bắt ông là Ủy viên Nhân dân Nông nghiệp của Liên Xô.
Eikhe bị bắt ngày 29/4/1938, không có lệnh của Viện công tố Liên Xô, lệnh này được đưa ra 15 tháng sau đó.
Cuộc điều tra vụ án Eikhe được tiến hành trong bầu không khí vi phạm nghiêm trọng luật pháp Liên Xô, tùy tiện và gian dối. Các cáo buộc dựa trên bằng chứng giả mạo và mâu thuẫn. Dưới đòn tra tấn Eikhe buộc phải ký vào biên bản thẩm vấn do các điều tra viên chuẩn bị trước, trong đó cáo buộc ông và một số đảng viên, lãnh đạo Đảng tội hoạt động chống Liên Xô.
Ngày 1/10/1939, Eikhe đã gửi đến I.V. Stalin một bản tuyên bố, trong đó ông hoàn toàn phủ nhận tội lỗi và yêu cầu xem xét lại vụ án của mình. Trong tuyên bố, ông viết: “… Không có nỗi đau đớn đắng cay nào lớn hơn việc ngồi tù của chế độ mà mình luôn vì nó đấu tranh.” (Vụ án Eikhe, tập 1, tệp lưu trữ).
Bản gốc tuyên bố của Eikhe gửi đến đồng chí Stalin ngày 27/10/1939 đã được lưu giữ: “Ngày 25/10 năm nay, tôi đã được thông báo cuộc điều tra về tôi đã kết thúc và tôi được phép xem các tài liệu điều tra. Nếu tôi có tội, dù chỉ một phần trăm bất cứ tội danh nào bị cáo buộc, tôi sẽ không dám gửi đến Ông bản tuyên bố tuyệt mệnh này, nhưng tôi không phạm bất kỳ tội danh nào mà tôi bị gán vào và tâm hồn tôi chưa bao giờ vẩn chút xấu xa. Đời tôi chưa bao giờ nói dối Ông nửa lời và bây giờ, khi sắp bước chân xuống mồ, tôi cũng không nói dối Ông. Toàn bộ vụ án của tôi là một hình mẫu tiêu biểu về sự vu khống và vi phạm các nguyên tắc cơ bản luật pháp cách mạng… Các bằng chứng buộc tội tôi trong hồ sơ điều tra không chỉ vô căn cứ mà còn chứa đựng sự vu khống đối với Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) và Hội đồng Dân ủy, vì các quyết định đúng đắn của Ban Chấp hành Trung ương và Hội đồng Dân ủy, được thông qua không phải do sáng kiến của tôi và không có sự tham gia của tôi, lại bị mô tả như những hành động phá hoại của một tổ chức phản cách mạng, được thực hiện theo đề xuất của tôi.
Điều này được thấy rõ nhất qua lời khai cáo buộc tôi dường như phá hoại công cuộc xây dựng nông trạng tập thể, được thể hiện qua việc tại các hội nghị khu vực và các phiên họp Toàn thể của Ủy ban khu vực Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) tôi đã tuyên truyền thành lập các nông trạng tập thể khổng lồ. Tất cả các bài phát biểu này của tôi đều được ghi lại bằng tốc kí và [chúng] đã được công bố, nhưng trong cáo trạng không có một sự kiện cụ thể nào hoặc một trích dẫn nào, và sẽ không ai có thể chứng minh được điều này, vì trong suốt thời gian làm việc ở Siberia, tôi đã kiên quyết và tuyệt đối thực hiện đường lối của Đảng. Các nông trang tập thể ở Tây Siberia rất vững mạnh nhất so với các vùng trồng ngũ cốc khác.
…Ushakov, người lúc đó đang thụ lý vụ án của tôi, muốn những lời thú tội gian dối do tôi bị đánh đập phải trùng lặp lời khai ở Siberia, và lời khai của tôi đã được chuyển qua điện thoại đến Novosibirsk.
Việc này được thực hiện với thái độ nghi ngờ công khai, và trước mặt tôi, Trung úy Prokofiev đã ra lệnh nối điện thoại với Novosibirsk.
Bây giờ tôi chuyển sang trang đáng hổ thẹn nhất trong đời mình và tội lỗi thực sự nặng nề của tôi trước Đảng và trước Ông. Đó là những lời thú tội của tôi về hoạt động phản cách mạng… Sự việc diễn ra là thế này: không chịu nổi những tra tấn của Ushakov và Nikolaev, đặc biệt là Ushakov, người đã khéo lợi dụng việc cột sống của tôi bị gãy chưa lành, gây cho tôi những cơn đau không thể chịu nổi, đã bắt được tôi vu khống chính mình và những người khác.
Phần lớn lời khai của tôi được Ushakov gợi ý hoặc đọc để tôi viết, và phần còn lại tôi chép lại từ trí nhớ các tài liệu của Bộ Dân ủy Nội vụ về Tây Siberia, quy tất cả các sự kiện được nêu trong tài liệu của Bộ Dân ủy Nội vụ cho bản thân mình. Một khi có gì không khớp trong huyền thoại do Ushakov sáng tác và tôi ký, thì họ sẽ buộc tôi phải ký một phiên bản khác. Đó là trường hợp của Rukhimovich, người ban đầu được ghi vào trung tâm dự bị, nhưng sau đó, thậm chí không nói gì với tôi, bị xóa tên; điều tương tự với chủ tịch trung tâm dự bị, được cho là do Bukharin thành lập vào năm 1935. Ban đầu tôi ghi tên mình, nhưng sau đó họ đề nghị tôi ghi tên Mezhlauk, và nhiều trường hợp khác…
…Tôi đã đưa ra những lời khai man này khi bị điều tra viên thẩm vấn tôi suốt 16 tiếng, khiến tôi bất tỉnh và khi anh ta đưa ra câu hỏi tối hậu thư về việc phải chọn giữa hai vật (ngòi bút và cán roi cao su), tôi, nghĩ rằng mình bị đưa đến nhà tù mới để hành quyết, một lần nữa tỏ ra hèn nhát và đưa ra lời khai giả. Khi đó, tôi không quan tâm đến việc mình sẽ phạm tội gì, thà họ bắn tôi sớm hơn là phải chịu đòn roi… Tôi không còn sức lực nữa…
…Tôi cầu xin và van nài Ông ra lệnh điều tra lại vụ án của tôi, không phải để tôi được tha thứ, mà để vạch trần sự xúi giục hèn hạ, thứ đã như một con rắn quấn lấy nhiều người, một phần cũng vì sự hèn nhát và sự vu khống đáng tội của tôi. Tôi chưa bao giờ phản bội Ông và Đảng. Tôi biết mình đang chết vì việc làm bẩn thỉu, đê tiện của kẻ thù của Đảng và nhân dân, những kẻ đã kích động chống lại tôi. Ước mong của tôi là được chết vì Đảng, vì Ông”. (Hồ sơ Eikhe, tập 1, tệp lưu trữ.)
Tuyên bố này của đồng chí Poskrebyshev được Beria gửi đến Bộ Dân ủy Nội vụ.
Ngày 2/2/1940, Eikhe bị đưa ra xét xử. Tại tòa, Eikhe không nhận tội và, như đã ghi trong biên bản, ông tuyên bố: “… Trong tất cả các lời khai được cho là của tôi, không có một chữ nào do tôi tự viết, ngoại trừ chữ ký ở cuối các biên bản, mà tôi bị buộc phải ký. Những lời khai này được đưa ra dưới áp lực của điều tra viên, người đã đánh đập tôi ngay từ khi tôi bị bắt. Sau đó, tôi bắt đầu viết đủ thứ vô nghĩa… Ngoài ra, các điều tra viên đã lợi dụng tình trạng bệnh tật của tôi (bị gãy lưng) và chơi ác trên đó như chơi bàn phím. Đây là sự tra tấn vượt quá sức chịu đựng và tôi đã không thể chịu đựng được. Điều quan trọng nhất đối với tôi là nói với tòa án, Đảng và Stalin rằng tôi vô tội. Tôi chưa bao giờ tham gia vào âm mưu nào. Tôi sẽ chết với niềm tin vào sự đúng đắn của chính sách Đảng, như tôi đã tin trong suốt quá trình làm việc của mình.” (Hồ sơ Eikhe, tập 1.)
Hội đồng quân sự của Tòa án Tối cao Liên Xô (gồm Ulrich, Klimin và Suslin), sau khi nghe tuyên bố như vậy từ Eikhe, đã đóng dấu vào các tài liệu bịa đặt và tuyên án tử hình Eikhe bằng hình thức xử bắn. Bản án được thực hiện hai ngày sau đó – ngày 4/2/1940.
Hiện tại, việc làm giả vụ án Eikhe đã được xác minh với bằng chứng không thể chối cãi.
VỤ ÁN YA. E. RUDZUTAK
Yan Ernestovich Rudzutak là một trong những nhân vật nổi tiếng của nhà nướcXô-viết, vào Đảng từ năm 1905 khi mới mười tám tuổi. Dưới chế độ Sa hoàng ông từng nhiều lần bị cảnh sát mật truy đuổi và bị kết án tử hình, sau đó được giảm xuống thành án lao động khổ sai chung thân vì tuổi còn quá nhỏ. Sau mười năm lao động khổ sai, ông được cách mạng giải thoát.
Sau Cách mạng Xã hội chủ nghĩa tháng Mười vĩ đại, Rudzutak trở thành một trong những trợ lý của V.I. Lenin. Năm 1921, theo gợi ý của Lenin, Rudzutak đã soạn thảo các luận cương về công đoàn, tạo thành cơ sở cho cương lĩnh của Lenin trong cuộc đấu tranh chống lại những người theo chủ nghĩa Trotsky.
Đấu tranh chống lại mọi phe đối lập và các nhóm chống phá Đảng, Rudzutak luôn tích cực bảo vệ đường lối chung của Đảng. Ông nhiều lần được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, sau Đại hội lần thứ 17, ông được bầu làm ứng cử viên Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương và trước khi bị bắt, ông là Phó Chủ tịch Hội đồng Dân ủy Nhân dân Liên Xô.
Ngày 25/5/1937, Rudzutak bị Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô bắt giữ với cáo buộc cầm đầu một tổ chức dân tộc chủ nghĩa Latvia chống Liên Xô, tham gia hoạt động phá hoại và làm gián điệp cho các cơ quan tình báo nước ngoài. Tại một cuộc họp Hội đồng Quân sự, Rudzutak không nhận tội. Trong biên bản phiên tòa, thư ký viết rằng Rudzutak đã tuyên bố tại tòa: “… yêu cầu duy nhất của ông đối với tòa án là thông báo cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) rằng vẫn còn một ổ áp xe chưa được nhổ tận gốc trong các cơ quan Dân ủy Nội vụ, nơi làm ra các vụ án giả mạo, buộc những người vô tội phải nhận tội. Rằng không có sự xác minh các tình tiết cáo trạng và không cho bị cáo cơ hội nào chứng minh sự vô tội trước lời khai của các cá nhân khác nhau. Các phương pháp điều tra là như vậy, buộc người ta phải bịa đặt và vu khống những người vô tội và chính bị cáo. Ông yêu cầu tòa án cho ông cơ hội viết tất cả những điều này cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik). Ông đảm bảo với tòa án rằng cá nhân ông chưa bao giờ có bất kỳ ý nghĩ xấu nào chống lại chính sách Đảng, vì ông luôn chia sẻ đầy đủ mọi chính sách Đảng trong mọi lĩnh vực phát triển kinh tế và văn hóa. Một lần nữa, ông yêu cầu tòa án cho ông cơ hội “trình bày chi tiết cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng mọi thứ mà ông biết về phương pháp điều tra.” (Vụ án Rudzutak, tập 1, tr. d.). Bác bỏ tuyên bố này của Rudzutak, Hội đồng quân sự (gồm Ulrikh, Nikitchenko và Goryachev) ngày 28/7/1938, sau khi tổ chức phiên tòa kéo dài chỉ 20 phút, đã tuyên án tử hình Rudzutak bằng hình thức xử bắn. Bản án được thực hiện ngay lập tức.
Một cuộc điều tra kỹ lưỡng được tiến hành vào năm 1955 đã xác minh vụ án Rudzutak là ngụy tạo và ông bị kết án dựa trên các tài liệu vu khống. Rudzutak đã được phục hồi danh dự sau khi chết.
VỤ ÁN V. YA. CHUBAR
Vlas Yakovlevich Chubar là một trong những nhân vật nổi tiếng của Đảng và Nhà nước Liên Xô, sinh năm 1891, vào Đảng năm 1907, lãnh đạo chính quyền Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina trong nhiều năm, sau đó làm Phó Chủ tịch Hội đồng Ủy viên Nhân dân Liên Xô. Chubar là đại biểu tham dự một số đại hội Đảng và được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tại các đại hội Đảng lần thứ 11, 12, 13, 14, 15, 16 và 17.
Ngày 4/7/1938, Chubar bị Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô bắt giữ với cáo buộc là thành viên của một tổ chức phá hoại và khủng bố chống Liên Xô và là điệp viên của Đức.
Ngày 26/2/1939, Hội đồng quân sự của Tòa án tối cao Liên Xô (gồm Ulrikh, Dmitriev và Suslin) tuyên án tử hình Chubar. Bản án được thi hành cùng ngày.
Một cuộc điều tra do Ủy ban An ninh Nhà nước và Văn phòng Công tố Liên Xô tiến hành năm 1955 đã xác minh các cáo buộc Chubar hoàn toàn bị làm sai lệch.
Vụ án Chubar hiện đã khép lại và ông đã được phục hồi danh dự sau khi chết.