Ủy ban Pospelov (3)

Nguồn: https://bessmertnybarak.ru/article/komissiya_pospelova/

Bản dịch của Văn Việt

 

Pyotr Pospelov

VỤ ÁN E. G. YEVDOKIMOV

Yevdokimov Efim Georgievich, sinh năm 1891, vào Đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1918, cựu ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, một trong những người tham gia tích cực nhất cuộc Nội chiến và cuộc chiến chống phản cách mạng, vì những đóng góp cho Tổ quốc đã được trao tặng Huân chương Lenin và năm Huân chương Cờ đỏ. Trong một thời gian dài, Yevdokimov làm việc ở các vị trí lãnh đạo trong Ban quản lý chính trị nhà nước – Dân Ủy Nội vụ, và năm 1933, ông được bầu làm bí thư thứ nhất của Ủy ban Đảng khu vực Bắc Kavkaz.

Trước khi Yevdokimov bị bắt, Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô không có tài liệu nào về các hoạt động tội phạm mà ông bị cáo buộc.

Trong thời gian 5 tháng bị giam giữ, Yevdokimov, mặc dù bị tra tấn bằng các biện pháp khắc nghiệt, vẫn kiên quyết không nhận tội. Hồ sơ lưu giữ bản tuyên bố của ông, trong đó viết: “Tôi không thể thừa nhận cáo buộc tội phản quốc đưa ra cho tôi. Tôi chưa bao giờ phản bội Tổ quốc mình, cũng không phải là thành viên của bất kỳ tổ chức hay nhóm phản cách mạng nào chống Liên Xô. Ngược lại, trong thời gian đứng trong đội ngũ Đảng và làm việc tại các cơ quan An ninh Đặc biệt – Ban quản lý chính trị Nhà nước, tôi đã đấu tranh quyết liệt chống lại mọi biểu hiện phản cách mạng và chống phá Liên Xô.

Tôi thừa nhận rằng trong công tác đấu tranh chống lại kẻ thù của nhân dân, tôi đã phạm phải những sai lầm chính trị nghiêm trọng nhất…

Bây giờ tôi hoàn toàn hiểu rõ rằng tôi đã sống, đã làm việc và chiến đấu không như một người Bolshevik thực sự phải chiến đấu nói chung và đặc biệt là sau những chỉ thị của Stalin tại Hội nghị Toàn thể tháng Hai-tháng Ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) năm 1937. Nhưng tôi xin nhắc lại, tôi không phải là kẻ phản bội Đảng và không hành động chống lại Đảng và chính quyền Xô-viết, không tham gia vào bất kỳ âm mưu nào ở bất kỳ đâu…” (Vụ án Evdokimov, Tập I, trang 40).

Từ tài liệu vụ án vào thời điểm đó, cho thấy rất rõ các điều tra viên đã ra sức ép Evdokimov đưa ra lời khai mà họ muốn, và vì điều này, họ thậm chí còn dùng đến chiêu thức xúi giục.

Ngày 17/1/1939, Evdokimov liên tiếp, không ngừng nghỉ, chịu ba cuộc đối chất trực tiếp với Nikolayev-Zhurid, Yezhov và Kaul (hiện đã được phục hồi danh dự). Cả ba đều cáo buộc Evdokimov tham gia vào một tổ chức chống Liên Xô, và ông đã kiên quyết phủ nhận. Liên quan điều này, điều tra viên đã viết trong biên bản đối chất: “Thực tế là Evdokimov, mặc dù đã được cảnh báo, vẫn kích động và ngăn không cho Nikolayev-Zhurid đưa ra lời khai về thực chất vụ án, nên cuộc đối chất đã bị gián đoạn.” (Vụ án cáo buộc Evdokimov, tập II, trang 7).

Bản thân Evdokimov không ký vào biên bản đối chất. Ngày 24/2/1939, Shvarts S.S, người bị bắt và bị giam cùng phòng giam với Evdokimov, đã ton hót: “Ông ta gọi vụ án là ‘giả mạo’. Ông ta phẫn nộ với các điều tra, gọi họ là những kẻ đê tiện… Tôi vì tình đồng chí đã khuyên giải ông ta nên khai ra…

…Một lần, trong thời gian bị thẩm vấn liên tục, Evdokimov, khi đến phòng giam, tuyên bố rằng ông mệt mỏi và sẵn sàng ký bất cứ điều gì…” (Vụ án Evdokimov, tập V, trang 196-198).

Ngày 2/3/1939, theo yêu cầu của các bác sĩ, Evdokimov ốm yếu, kiệt sức vì tra tấn, đã được đưa vào bệnh viện nhà tù. Lúc này Kobulov được lệnh: “Hãy cho anh ta ở cùng với Lobov.” (Lobov lúc này đã mất tinh thần và khai bất kỳ gì được yêu cầu).

Ngày 28/3/1939, trong một lá thư gửi Beria, Lobov đã viết: “Trong thời gian ở bệnh viện Butyrka từ ngày 2 đến ngày 4 tháng 3 năm nay tôi ở chung với bị cáo Evdokimov… ông ta nói rằng lúc này chỉ mong muốn một điều duy nhất – có một quả bom để thổi bay toàn bộ bộ máy điều tra của Dân ủy Nội vụ và tự nổ tung mình bằng quả bom đó, rằng một bộ máy Xô-viết như vậy, thực chất tàn phá và hủy diệt những người vô tội, chỉ có thể được gọi là phát xít…

…Trong cơn mê sảng, Evdokimov kêu: “Sashka, đồ khốn nạn, tại sao mày lại phản bội… thật là ác mộng, thật là ác mộng…”

…Evdokimov rời bệnh viện với quyết định không đầu hàng, và tốt nhất là chết, bất chấp sự giày vò có thể xảy ra ở phía trước; khi đó, theo ông, có lẽ Ban Chấp hành Trung ương sẽ nghĩ ra lý do cho cái chết anh hùng của một “kẻ thù” bị tước bỏ vũ khí. (Vụ án Evdokimov, Tập V, trang 203–204).

Suốt 5 tháng bị tra tấn một cách bài bản khiến Evdokimov suy sụp, và ông bắt đầu đưa ra lời khai sai lạc, mâu thuẫn, vô lý, trong đó ông thừa nhận tội lỗi của mình như tội nghiêm trọng trước nhà nước. Biên bản thẩm vấn đầu tiên như vậy ghi ngày 13/4/1939. Cuộc thẩm vấn được tiến hành bởi Merkulov.

Ngày 2/2/1940 vụ án Evdokimov được xét xử tại Hội đồng quân sự Tòa án tối cao Liên Xô, tại đó ông hoàn toàn rút lại lời khai trước đó của mình và khẳng định mình vô tội, tuyên bố: “Tôi không thể thừa nhận tội của mình là đứng trong tổ chức Trotsky-cánh hữu.

… Tôi nhận thấy vụ án của tôi đã được phán quyết. Nhưng tôi không thể thừa nhận tội lỗi của mình là phục vụ cho giai cấp tư sản.

…Tôi chưa bao giờ là gián điệp hoặc tay sai của giai cấp tư sản.

Năm 1923, anh trai tôi bị giết, tôi nghi ngờ người Ba Lan làm việc này, và vì vậy làm sao thời điểm đó tôi có thể hợp tác với người Ba Lan. Tôi đã đập tan tất cả các thủ lĩnh-băng đảng Ba Lan và tôi không phải là điệp viên của họ.

Tôi đưa ra lời khai nhận tội lỗi của mình sau khi đối chất với Yezhov và Frinovsky và sau khi chịu áp lực đặc biệt. Trong cuộc điều tra sơ bộ tôi đã nêu tên khoảng 124 người là những người tham gia vào âm mưu, nhưng đây là lời nói dối, và tôi thừa nhận tôi có lỗi trong lời nói dối này.

Tôi chưa bao giờ thuộc về phe cánh hữu và sẽ không thuộc về phe đó…

Lời khai của những người khác về việc tham gia âm mưu trùng khớp với lời khai của tôi chỉ vì tất cả chúng tôi đều có cùng một ông chủ – điều tra viên…

Tôi yêu cầu một điều – hãy xem xét kỹ lưỡng các tài liệu vụ án của tôi. Tôi rất đau lòng khi đã vu khống nhiều người…” (Vụ án Evdokimov, Tập 1, trang 97–99).

Trong lời cuối cùng của mình, Evdokimov nói: “Tôi sắp chết, nhưng tôi muốn nói với tòa rằng dưới sự lãnh đạo mới (ám chỉ Beria), bộ máy Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô hoạt động theo cùng một cách như dưới thời Yezhov, và từ đó nảy sinh các tổ chức phản cách mạng mà tôi và những người khác đã trở thành đại diện.

Tôi tha thiết yêu cầu báo cáo điều này với Stalin.

Tôi không phải là tên khốn, nhưng tôi đã trở thành một tên khốn trong quá trình điều tra sơ bộ, vì tôi không thể chịu đựng được mà nói dối, và tôi bắt đầu nói dối khi họ đánh rất đau vào bàn chân tôi” (Vụ án Evdokimov, Tập I, trang 100).

Bất chấp sự bác bỏ đầy thuyết phục như vậy và không có bằng chứng khách quan nào cho thấy ông có tội, chỉ dựa trên lời khai gian dối của những tù nhân khác, mà không đưa ra bất kỳ sự kiện cụ thể nào, tòa án gồm Ulrich, Suslin và Klimin đã đưa ra phán quyết có tội và tuyên án tử hình Evdokimov.

VỤ ÁN L. I. LAVRENTYEV (KARTVELISHVILI)

Lavrentyev Lavrenty Iosifovich, vào Đảng Cộng sản Liên-Xô từ năm 1910, trước cách mạng từng sống lưu vong, từ năm 1917 cho đến ngày bị bắt – làm công tác lãnh đạo Đảng. Năm 1917, ông là thư ký của ủy ban Kyiv, năm 1918-19 hoạt động bí mật ở Odessa và Kyiv, sau khi thành lập chính quyền Xô viết Ukraine (tại Kirovograd và Kiev), là thư ký tỉnh ủy của Đảng Cộng sản Toàn liên minh Bolshevik; 1923-1929 là thư ký Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Bolshevik của Gruzia và ủy ban khu vực Transcaucasian, chủ tịch Hội đồng Ủy viên Nhân dân Gruzia. Năm 1929-30 Lavrentyev là bí thư thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Bolshevik của Ukraina, sau đó một lần nữa trở thành bí thư Ủy ban Đảng khu vực Transcaucasian. Trong những năm tiếp theo, ông là thư ký của các ủy ban khu vực Tây Siberia và Viễn Đông và từ năm 1935, là thư ký của ủy ban Đảng khu vực Crimea.

Suốt thời gian hoạt động trong Đảng, L. I. Lavrentiev đã chứng tỏ là một người Bolshevik kiên trung và là một nhà tổ chức tài ba. Trong một thời gian dài, L. I. Lavrentiev đã làm việc cùng Sergo Ordzhonikidze và rất thân thiết với ông.

Như điều tra lại, thấy rằng, vụ bắt giữ L.I. Lavrentyev ngày 22/6/1937 mà không có bất kỳ tài liệu nào về ông, là một trong những hành động phá hoại của Beria nhằm vào Sergo Ordzhonikidze và các cộng sự của ông.

Cuộc điều tra vụ án L.I. Lavrentiev được tiến hành bởi các tay sai của Beria là Kobulov, Krimyan và Savitsky, những kẻ tra tấn và hành hạ dã man, ép Lavrentiev phải tự thú và ký vào một bản tuyên bố về việc ông tham gia vào tổ chức cánh hữu phá hoại, làm gián điệp và chuẩn bị hành động khủng bố.

Người quản giáo của nhà tạm giam Surmava tại Dân ủy Nội vụ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Gruzia đã khai: “Trong quá trình thẩm vấn, các điều tra viên đã đánh đập tàn nhẫn những người bị bắt. Krimyan và Savitsky đặc biệt tàn ác… Các bị cáo Mamia Orakhelashvili, Shalva Eliava, Kartvelishvili cũng phải chịu sự tra tấn tàn bạo…

Tôi phải bế trên tay những người bị bắt này ra khỏi nơi thẩm vấn, vì họ không thể tự đi được.” (Tài liệu điều tra vụ án Lavrentiev, tập II, trang 157).

Ngày nay, nhiều đồng chí bị Lavrentiev vu khống và sau đó vu khống lại ông (Orakhelashvili, Eliava, Snegov, Mamulia v.v) đã được phục hồi, và đã quá rõ ràng rằng người Bolshevik kì cựu, người đã chứng minh lòng trung thành của mình với Đảng của Lenin trong những năm tháng thử thách khắc nghiệt của cuộc đấu tranh bí mật, người đã cống hiến lớn lao để củng cố nhà nước Xô-viết và đặc biệt là biên giới Viễn Đông của Liên Xô, đã chết một cách vô tội vì lợi ích của tên kẻ cướp-kích động Beria.

VỤ ÁN I. S. UNSHLICHT

Đồng chí I.S. Unshlikht là Đảng viên của chúng ta từ năm 1900. Trước Cách mạng Tháng Mười, đồng chí từng bị bắt sáu lần, bị giam nhiều năm trong ngục tối của nhà tù Sa hoàng và bị lưu đày ở Siberia. Tháng 10/1917, đồng chí Unshlikht là thành viên của Ủy ban Cách mạng Quân sự Petrograd. Năm 1919, đồng chí là Ủy viên Quân sự Nhân dân, thành viên Hội đồng Quốc phòng và thành viên Ủy ban Điều hành Trung ương của Litva và Belarus, thành viên Hội đồng Quân sự Cách mạng của Mặt trận phía Tây, sau đó là thành viên Hội đồng Quân sự Cách mạng của nhà nước. Từ năm 1921, đồng chí Unshlikht làm việc cùng với Felix Dzerzhinsky trong Ủy ban Đặc biệt Toàn Nga, là thành viên của Ủy ban Điều hành Trung ương Toàn Nga trong tất cả các cuộc triệu tập và là người tham gia nhiều đại hội Đảng.

Ngày 11/6/1937, Unshlikht bị bắt và sau đó bị Tòa án quân sự kết án tử hình với cáo buộc ông là “lãnh đạo” của “Tổ chức quân sự Ba Lan” trên lãnh thổ Liên Xô từ năm 1917 và tham gia các hoạt động gián điệp và khủng bố.

Toàn bộ lời cáo buộc Unshlikht đều dựa trên lời tự buộc tội. Tuy nhiên, khi bị triệu tập đến Hội đồng Quân sự của Tòa án tối cao Liên Xô, Unshlikht tuyên bố “ông chưa bao giờ là thành viên của Tổ chức Quân sự Ba Lan” và sự thể ông đưa ra những lời khai này chỉ vì ông không thể chịu đựng được cuộc thẩm vấn kéo dài. Trong cuộc thẩm vấn của công tố viên Liên Xô, ông không nói gì về việc mình không tham gia vào tổ chức phản cách mạng vì có một số người được Dân ủy Nội vụ ủy quyền có mặt trong cuộc thẩm vấn này, trước sự hiện diện của họ, ông sợ phải từ bỏ lời khai trước đó của mình, và do đó, trước công tố viên Liên bang, ông đã xác nhận tất cả lời khai trước đó của mình.” (Vụ án Unshlikht, Tập I, trang 103).

Bất chấp sự vô lý của những cáo buộc chống lại đồng chí Unshlikht và việc ông tại tòa hoàn toàn bác bỏ lời khai mà ông đưa ra do bị đánh đập, Tòa án quân sự đã tuyên án tử hình ông.

Trên thực tế, đó không phải là một phiên tòa, mà chỉ là một hình thức thủ tục đơn giản theo chỉ thị của Dân ủy Nội vụ. Toàn bộ phiên tòa xét xử một vụ án nghiêm trọng như vụ án của đồng chí Unshlikht diễn ra chỉ trong vòng 20 phút.

VỤ ÁN V. K. BLUKHER

Cựu chỉ huy Quân đội Viễn Đông Cờ đỏ Đặc biệt, Nguyên soái Liên Xô Blukher được đông đảo người dân Liên Xô biết đến như một nhà lãnh đạo quân sự đã giành được hàng loạt chiến thắng trong Nội chiến. Công lao của Blukher được chính phủ Liên Xô đánh giá cao. Ông đã được trao tặng Huân chương Cờ đỏ số 1 và Huân chương Sao đỏ số 1.

Tại Đại hội Đảng lần thứ 17, Blucher được bầu làm ứng cử viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik).

Ngày 22/10/1938, Blucher bị Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô bắt giữ. Người ta cáo buộc ông nằm trong một tổ chức cánh hữu chống Liên Xô và có mặt trong một âm mưu quân sự, nhưng ông đã kiên quyết phủ nhận.

Việc điều tra lại đã xác minh rằng tất cả các cáo buộc Blucher đều vô căn cứ và ông bị bắt vô tội.

Đáng lưu ý rằng trước khi Blucher bị bắt, Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô đã cáo buộc một số người bị bắt (Lavrentyev, Deribas, v.v) rằng họ đang chuẩn bị hành động khủng bố nhằm vào Blucher với mục đích làm suy yếu Quân đội Liên Xô.  Sau khi bị bắt, Blucher bị đích thân Beria và đồng bọn đánh đập dã man.

Một trong những cựu điều tra viên Dân ủy Nội vụ là Golovlev, khi bị thẩm vấn vào năm 1955, đã khai rằng khi lần đầu nhìn thấy Blucher bị bắt, ông “lập tức nhận ra Blucher hôm trước đã bị đánh đập rất dã man, vì toàn bộ khuôn mặt của ông bầm tím và sưng tấy.” (Vụ án Blucher, Tập I, trang 1).

Hậu quả của những trận đánh đập tàn bạo là ngày 9/11/1938 Blucher chết, sau mười tám ngày bị bắt. Cùng đêm đó, Merkulov và đồng bọn đã mang thi thể Blucher đi hỏa táng.

VỤ ÁN I. P. NOSOV

Nosov Ivan Petrovich, đảng viên từ năm 1905. Trước khi bị bắt, ông là bí thư thứ nhất Ủy ban đảng khu vực Ivanovo. Từ năm 1918 đến năm 1937, ông tham gia công tác lãnh đạo đảng, là bí thư của một số ủy ban đảng khu vực và huyện. Ông nhiều lần được bầu vào các cơ quan quản lý của Đảng, tham gia tích cực vào công tác đại hội và hội nghị Đảng, và được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội Đảng lần thứ 17.

Ngày 27/11/1937, theo lệnh của Hội đồng Quân sự Tòa án Tối cao Liên Xô, Nosov bị xử bắn với cáo buộc là thành viên của một tổ chức cánh hữu phá hoại và chống Liên Xô, trong tổ chức đó ông quản lý mọi hoạt động phá hoại nông nghiệp và công nghiệp.

Nhìn từ hình thức cáo buộc Nosov, rõ ràng vụ án này chỉ có thể được dàn dựng bởi những kẻ kích động. Điều đó được chứng thực bằng lời khai của Radzivilovsky, cựu Trưởng ban Dân ủy Nội vụ Vùng Ivanovo, lúc đó cũng bị bắt, đã khai trong cuộc thẩm vấn ngày 31/5/1939: “… Yezhov nói với tôi rằng ông ấy cử tôi đến Ivanovo chỉ  6 tháng, nhưng lại giao cho tôi nhiệm vụ phát triển công việc ở đó trong thời hạn ngắn nhất có thể, chứng minh với Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) rằng Vùng Ivanovo không có chính quyền Xô-viết và đang cần có sự can thiệp của Dân ủy Nội vụ mới có thể khôi phục chính quyền ở đó. Khi tôi hỏi tôi nên làm gì để đạt được điều này ở Ivanovo, Yezhov gợi ý rằng tôi nên bắt đầu bằng bắt giữ hàng loạt cán bộ lãnh đạo Đảng và chính quyền Xô-viết cấp vùng và cấp huyện để chứng minh rằng Vùng Ivanovo là một thành trì của cánh hữu. Đồng thời, Yezhov chỉ thị cho tôi, mặc dù Ủy ban Trung ương tin tưởng Nosov (thư ký ủy ban khu vực của Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik)), nhưng nhiệm vụ của tôi là phải chứng minh mối liên hệ của ông ấy với phe cánh hữu tại Moskva, bằng cách đó có thể thay đổi quan điểm về Nosov và đạt được việc bắt giữ ông ấy…

Để thực hiện thái độ thù địch chống nhà nước Xô-viết như nêu trên của Yezhov, tôi đã làm như sau: thổi phồng quá mức vụ án của tổ chức cánh hữu ở Ivanovo chống Liên Xô , bắt giữ họ và tùy tiện đưa các nhân viên của ủy ban Ivanovo và ủy ban điều hành khu vực đến để điều tra.

Vì Yezhov yêu cầu chứng minh mối liên hệ của Nosov với phe cánh hữu tại Moskva, nên theo chỉ đạo của tôi, trong lời khai của Epanechnikov, Efanov và Aleev cần ghi Nosov là người đứng đầu cánh hữu ở Ivanovo và có liên hệ với Lyubimov (cựu Ủy viên Nhân dân phụ trách Công nghiệp Nhẹ) ở Moskva…

… Tất cả các tài liệu này được trình lên Yezhov, trên cơ sở này, theo lệnh của ông ta, Nosov đã bị Dân ủy Nội vụ bắt giữ tại Moskva.” (Vụ án Radzivilovsky, Tập I, trang 472-477).

Việc kiểm tra lại đã xác minh vụ án Nosov đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp Liên Xô và lời thú tội bị lấy bằng tra tấn dã man.

Năm 1955 Nosov đã được truy hồi danh dự.

VỤ ÁN K. YA. BAUMAN

Karl Yanovich Bauman là một trong những nhân vật kỳ cựu nhất của Đảng, vào Đảng từ năm 1907.

Sau nhiều năm hoạt động trong đảng, Bauman nhiều lần được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương tại Đại hội lần thứ 17. Trước khi bị bắt, K. Ya. Bauman là người đứng đầu một bộ phận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.

Bauman bị Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô bắt giữ ngày 12/10/1937, lập tức bị đánh đập dã man, và hai ngày sau khi bị bắt, vào ngày 14/10, ông bị giết tại nhà tù Lefortovo mà không thông qua điều tra và xét xử.

Trong hồ sơ vụ án Bauman chỉ có một tài liệu – bản tuyên bố do Bauman viết vào ngày ông qua đời. Tuyên bố này dính đầy máu.

Một cuộc điều tra lại được tiến hành năm 1955 đã xác minh Bauman bị bắt vô căn cứ nào và ông được phục hồi danh dự.

VỤ ÁN N. P. KOMAROV

Komarov N.P., một cựu công nhân, vào Đảng Bolshevik từ năm 1909. Là người tham gia Đại hội Đảng lần thứ 10, 11, 12, 13, 14, 15 và 17, đồng chí Komarov được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô tại tất cả các đại hội này. Trong Nội chiến, Komarov, với tư cách là Chủ tịch Cheka Petrograd, đã tích cực đấu tranh chống lại bè lũ phản cách mạng. Sau Nội chiến, ông liên tục giữ các chức vụ quan trọng lãnh đạo Đảng và Nhà nước Xô-viết: Bí thư Cục Tây Bắc của Ban Chấp hành Trung ương, Chủ tịch Ủy ban Chấp hành Tỉnh, Chủ tịch Hội đồng Thành phố Leningrad, thành viên Đoàn Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Quốc dân Tối cao Liên Xô, Ủy viên Ủy ban Nhân dân Tiện ích Công cộng của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga.

Sự thật rất rõ, đồng chí Komarov tích cực đấu tranh chống lại những người theo chủ nghĩa Trotsky và Zinoviev, điều này từng được Stalin ghi nhận tại Đại hội Đảng lần thứ 14. Komarov không tham gia vào bất kỳ nhóm nào chống Đảng. Trong các bài phát biểu của mình tại các đại hội và hội nghị Đảng, ông luôn bảo vệ đường lối chung của Đảng.

Thế mà, tháng 6/1937, đồng chí Komarov bị bắt và ngày 27/11/1937, Tòa án Quân sự đã kết án tử hình ông với cáo buộc ông “là thành viên tích cực của một tổ chức cánh hữu phản cách mạng” và “đang chuẩn bị thực hiện các hành động khủng bố chống lại các nhà lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik) và chính quyền Xô-viết”.

Một trong những điều tra viên-giả mạo, sau này bị bắt và bị kết án vì tội ngụy tạo các vụ án, đã xác nhận rằng tất cả “lời khai” của Komarov đều do cựu phó giám đốc Dân ủy Nội vụ Stromin viết, vào thời điểm ông ta thậm chí còn chưa nhìn thấy Komarov bị bắt, “rằng bản thân Komarov lần đầu tiên biết được nội dung lời thú tội của mình khi Stromin đưa cho, sau khi thuyết phục ông ấy về những lợi ích của lời thú tội như vậy, rồi đưa cho Komarov kí một thứ gì đó do Stromin tự viết”.

Điều tra lại đã xác minh rõ, việc bắt giữ và kết án đồng chí Komarov là vô căn cứ, dựa trên các tài liệu là do nhân viên Dân ủy Nội vụ ngụy tạo.

Danh sách các cán bộ cao cấp của Đảng Cộng sản Liên Xô bị kết án tử hình dựa trên các tài liệu vô căn cứ, rõ ràng bị ngụy tạo, những người phải chịu tra tấn và đầy đọa trong quá trình điều tra, có thể được mở rộng hơn nữa.

Như vậy, dưới sự tổ chức và hành động kích động của Yezhov và Beria, các đồng chí Mezhlauk V.I., Kosarev A.V., Kabakov I.D., Knorin V.G., Kodatsky I.F., Mirzoyan L.I., Pyatnitsky I.A., Rukhimovich M.L., Khataevich M.M., Sheboldaev B.P., Kaminsky G.N., Smorodin P.I., Bykin Ya.B., Eliava Sh.E., Gikalo N.F., Pramnek E.K., Krinitsky A.I., Kolotilov N.N., v.v. đã chết một cách bi thảm.

Đáng lưu ý là, đồng chí Stalin và một số ủy viên Bộ Chính trị đã thường xuyên được gửi các biên bản thẩm vấn những người bị bắt, trong số đó có các thành viên và ứng cử viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, các thư ký Ủy ban Trung ương khu vực và địa bàn mình làm việc. Sau khi bắt giữ những cán bộ thuộc loại này, biên bản thẩm vấn của họ cũng được gửi đến các địa chỉ xác định.

Tổn thất của Đảng không chỉ giới hạn ở những người chết vô tội sau khi bị bắt, còn rất nhiều, rất nhiều đảng viên bị xâm hại một cách vô căn cứ và bị loại khỏi hoạt động xây dựng chủ nghĩa xã hội; một số người trong số họ, trước nguy cơ đe dọa bị bắt, không thể chịu đựng được sự rình rập, đã tự tử.

Hậu quả các vụ bắt giữ hàng loạt giai đoạn 1937-38 là hoạt động của các tổ chức Đảng và Nhà nước Xô-viết, cũng như ngành công nghiệp, cả ở trung ương lẫn địa phương bị tê liệt, gây thiệt hại nghiêm trọng cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta.

Khi tiến hành hàng loạt vụ bắt giữ vô cớ, Yezhov công khai tuyên bố tại các cuộc họp rằng ông đang hành động theo lệnh từ cấp trên.

Lulov, cựu giám đốc điều hành Tổng cục An ninh Nhà nước thuộc Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô, khi bị thẩm vấn, đã khai về việc này: “… Tại một trong những cuộc họp của các điều tra viên, do Yezhov triệu tập tại văn phòng của mình,… ông ta đã tuyên bố, gần như nguyên văn: “Trong khi chúng ta tiến hành cuộc đấu tranh đập tan thế lực phản cách mạng, chúng ta phải coi việc một số người vô tội cũng phải chịu đau khổ là điều không thể tránh khỏi.”… Nói “chúng ta phải coi là” và những người có mặt phải nghĩ tuyên bố về trách nhiệm như vậy được Yezhov đưa ra không phải dưới danh nghĩa của chính mình.” (Vụ án Lullov, Tập I, trang 183, 184).

Các nhà lãnh đạo Dân ủy Nội vụ đã phản ứng chỉ thị này của Yezhov.

Cũng chính Lulov đã khai trong cuộc thẩm vấn: “Năm 1937 và đầu 1938, các lãnh đạo Dân ủy Nội vụ, như Dmitriev, đã thực sự tấn công Yezhov bằng những bức điện tín dài, yêu cầu phê chuẩn lệnh bắt giữ… Những bức điện này chỉ toàn là những cái họ tên: hàng chục bí thư Komsomol, hàng chục bí thư đảng ủy quận, chủ tịch ủy ban điều hành quận, v.v.

Mặc dù trong các bức điện cho thấy nhu cầu bắt giữ những cá nhân này thiếu thuyết phục, Yezhov vẫn liên tục phê chuẩn lệnh bắt giữ một cách máy móc và bừa bãi…

… Bulakh – cựu lãnh đạo Dân ủy Nội vụ khu vực Ordzhonikidze cho biết : Khi báo cáo với Yezhov, ông đã phác thảo trước Yezhov “kế hoạch” thực hiện các chỉ thị của ông ta nhằm giáng một đòn “đập tan” lực lượng phản cách mạng. Kế hoạch này bao gồm một số giai đoạn… đầu tiên, các thư ký ủy ban đảng quận phải bị thanh trừng, tiếp theo là các chủ tịch ủy ban điều hành quận, sau đó là các cán bộ hợp tác xã, và tiếp theo là cán bộ các ngành công nghiệp khác. Và Yezhov đã phê duyệt kế hoạch này…” (Vụ án Lulov, Tập I, trang 184, 188, 189).

Từ các tài liệu sẵn có, cho thấy làn sóng vi phạm nghiêm trọng trong điều tra đã nhấn chìm tất cả các cơ quan ngoại vi của Dân ủy Nội vụ.

Sheludchenko, cựu giám đốc phòng điều tra Dân ủy Nội vụ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Tatar, khi thừa nhận đích thân đánh đập người bị bắt và ngụy tạo biên bản thẩm vấn, đã khai: “… Những người bị bắt hầu hết là lãnh đạo ủy ban khu vực Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik), Hội đồng Ủy viên Nhân dân và Ban Chấp hành Trung ương, và hầu hết họ là ủy viên nhân dân. Lepa, thư ký Ủy ban khu vực, 6 ngày liền giữ vững mình trong văn phòng Zedik, không khai lời nào, và chỉ đến ngày 6/11, ông ta mới bị tôi đưa vào phòng giam.” (Tài liệu điều tra vụ án của Lepa, trang 73).

Grishechkin, cựu nhân viên Dân ủy nội vụ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Tatar, khai: “… Sheludchenko đã tiếp nhận hơn 500 người bị bắt từ cựu giám đốc sở trở đi, phần lớn là thành viên của một tổ chức dân tộc chủ nghĩa, tức là hầu hết là lãnh đạo Đảng và nhà nước Xô-viết. Trong số những người bị bắt, không một ai nhận tội.

…Trong một cuộc họp chiến lược, Sheludchenko đánh giá tình hình này như sau: “họ đang mềm lòng với những người bị bắt, họ không muốn đấu tranh với lực lượng phản cách mạng, họ đang thể hiện chủ nghĩa cơ hội,” v.v. (Tài liệu điều tra vụ án Lepa, trang 77).

Có thể đưa ra hàng loạt bằng chứng về việc vi phạm luật pháp nghiêm trọng đối với bất cứ nước cộng hòa hoặc khu vực nào.

Ví dụ, đầu năm 1938, lực lượng đặc nhiệm đứng đầu là Kulvets, phó giám đốc Cục Dân ủy Nội vụ, đã đến Quận Bodaibo [thuộc Vùng Irkutsk] để hoạt động và tiến hành điều tra.

Lực lượng đặc nhiệm bắt giữ hàng loạt cán bộ và nhân viên Quận Bodaibo mà không có bất kỳ tài liệu nào, vẫn cáo buộc họ phạm những tội nghiêm trọng nhất chống phá nhà nước.

Về vấn đề này, nhân viên Dân ủy Nội vụ Komov khai: “Ngay trong ngày đầu tiên Kulvets đến, đã có tới 500 người bị bắt. Các vụ bắt giữ được thực hiện với lí do họ làm tổn hại quyền lợi quốc gia và xã hội, nhưng không có bất kỳ bằng chứng nào.

Theo quy định, tất cả người Trung Quốc và người Triều Tiên đều bị bắt, không có ngoại lệ, và bất kỳ ai có thể di chuyển đều bị đưa ra khỏi các khu định cư của kulak.” (Vụ án Kulvets, Tập I, trang 150–153).

Về điều này có lời khai của nhân viên Dân ủy Nội vụ Turlov: “Theo yêu cầu của Kulvets, toàn đội tác chiến trình báo cáo của mình. Tôi đưa cho Kulvets một danh sách những người có gốc nước ngoài, khoảng 600 người. Đó là người Trung Quốc, Hàn Quốc, Đức, Ba Lan, Latvia, Litva, Phần Lan, Hungary, Estonia, v.v.

Việc bắt giữ được thực hiện dựa trên các danh sách này…

 Các vụ bắt giữ người Trung Quốc và người Triều Tiên đặc biệt đáng xấu hổ. Họ bị đột kích tại thành phố Bodaibo, người ta phát hiện căn hộ của họ, cử người đến bắt, đem theo lệnh bắt giữ tất cả người Trung Quốc và người Triều Tiên, không có ngoại lệ… Tháng 3, Kulvets vừa bước vào văn phòng, nơi Butakov và tôi đang ngồi, đã nói: các anh báo cáo với tôi rằng tất cả người Trung Quốc đã bị bắt hết. Thế mà hôm nay tôi đang đi bộ trên phố, thấy hai người Trung Quốc và tôi đã ra lệnh bắt giữ họ.” (Vụ án Kulvets, Tập I, trang 156).

Bằng chứng về hoạt động của lực lượng tác chiến này là báo cáo của chính Kulvets gửi cho lãnh đạo Dân ủy Nội vụ, trong đó viết: “Vụ tình báo Đức này tôi thấy mình làm còn tệ. Đúng là đã phát hiện nơi cư trú của Schwartz… nhưng bọn Đức hẳn đang làm những việc nguy hiểm hơn. Tôi sẽ cố gắng đào bới. Tình báo Phần Lan – có. Tình báo Tiệp Khắc – có. Tôi chưa tìm thấy người Ý hay Pháp để có được một bộ sưu tập đầy đủ…

Tôi đã bắt hết người Trung Quốc. Chỉ còn lại những người già, mặc dù một phần trong số họ, 7 người, đã bị phát hiện là gián điệp và buôn lậu.

Tôi không nghĩ là không đáng lãng phí thời gian vào họ. Họ quá già yếu. Những tên khỏe mạnh hơn đã bị bắt.” (Vụ án Kulvets, Tập I, trang 192).

Những người bị bắt giữ đã bị đánh đập và buộc phải làm chứng chỉ điểm những người khác. Dựa trên những lời khai ấy, không cần bất kỳ xác minh nào, các vụ bắt giữ hàng loạt lại được thực hiện và những người mới bị bắt lại bị đánh đập.

Về cách thức điều tra, nhân chứng Gritskikh khai: “Kulvets đề xuất một phương pháp điều tra mới, cái gọi là ‘bắt đứng’. Khoảng 100–150 người bị dồn vào một căn phòng, bắt đứng quay mặt vào tường, không được phép ngồi hoặc ngủ trong nhiều ngày cho đến khi đưa lời khai.

Ngay tại đó, giữa những người bị bắt là một cái bàn và vật dụng để viết. Ai muốn khai thì tự tới, sau đó được phép ngủ.” (Vụ án Kulvets, Tập I, trang 142–143).

Cùng với sử dụng vũ lực là việc ngụy tạo trắng trợn tài liệu điều tra. Lời khai sau đây của Turlov là điển hình về vấn đề này: “Tình hình thậm chí còn tệ hơn khi thẩm vấn người Trung Quốc, người Triều Tiên và các quốc tịch khác bị bắt giữ hàng loạt tháng 3/1938. Hầu hết họ không nói được tiếng Nga. Không có phiên dịch viên, các biên bản được viết ra mà không có mặt của bị cáo, vì họ không hiểu gì cả…” (Vụ án Kulvets, Tập I, trang 157).

Công việc thực hành tương tự cũng được áp dụng tại Dân ủy Nội vụ Belarus, nơi ngụy tạo nhiều vụ án kích động, biên soạn lời khai cho bị cáo, giả mạo chữ ký, v.v. Đánh đập người bị bắt trong quá trình điều tra là hiện tượng phổ biến.

Về điều này, Sotnikov, người đứng đầu Tổng cục An ninh Nhà nước thuộc Dân ủy Nội vụ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô-viết Belaruss đã viết trong bản tường trình của mình: “Khoảng từ tháng 9/1937, tất cả người bị bắt đều bị đánh đập trong quá trình thẩm vấn… Diễn ra cuộc thi giữa các điều tra viên để xem ai “tẩn” nhiều hơn. Chỉ thị này đến từ cựu Ủy viên Nội vụ Belarus Berman, người đã phát biểu tại một cuộc họp các điều tra viên của Ủy ban Nhân dân: “Leningrad và Ukraine hàng ngày đều chấm công, chúng ta cũng phải làm như vậy, mỗi điều tra viên mỗi ngày ít nhất cũng phải làm xong một vụ vạch trần”.

Đánh đập, tra tấn tàn bạo người bị bắt đã trở thành phương pháp thẩm vấn chính. Bị coi là đáng xấu hổ nếu điều tra viên mỗi ngày không lấy được một lời thú tội nào.

Tại Ủy ban Nhân dân liên tục vang lên tiếng rên la và quát tháo, cách một dãy nhà với Ủy ban Nhân dân vẫn nghe thấy. Đặc biệt nổi bật là ở Cục Điều tra” (Lưu trữ Yezhov, kho số 13).

Đánh đập và tra tấn những người bị bắt trở thành phương pháp chính của điều tra.  Về điều này, Gepshtein, người đứng đầu phòng 3 Tổng cục An ninh Nhà nước thuộc Dân ủy Nội vụ của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Belaruss, đã tuyên bố: “Tháng 8, tại Belarus, theo lệnh của Dân ủy Nội vụ, một chiến dịch quy mô lớn đã được phát động chống lại các điệp viên Ba Lan… Khoảng nửa cuối tháng 10/1937, Berman từ Moskva về, nói rằng, hóa ra chúng tôi đã tụt hậu rất xa so với tất cả Dân ủy Nội vụ của Liên bang, rằng 2.000 người đã bị phát hiện ở Leningrad, 4.000 người ở Ukraine, do đó chúng tôi cần phải tái cấu trúc mạnh mẽ mọi công việc. Berman đề nghị tôi triệu tập một cuộc họp các điều tra viên, tại đó ông sẽ đưa ra chỉ thị…

Berman lắng nghe báo cáo của từng điều tra viên, và tại cuộc họp này, ông chỉ thị rằng có thể đánh đập người bị bắt, rằng các biên bản phải ngắn gọn, rằng đối với vụ án nhóm, phải xử lí thành hồ sơ từng người ngay, chứ không theo nhóm…

Chẳng mấy chốc, việc đánh đập người bị bắt theo bình quân đầu người diễn ra ở Minsk. Kiểu hành xử này lan rộng cực kỳ nhanh chóng trong tất cả các phòng ban khác của Ủy ban Nhân dân.” (Lưu trữ Yezhov, kho số 13).

Theo sự cho phép của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản (Bolshevik) Belarus, Konovalov – nhân viên Dân ủy Nội vụ thành phố Vitebsk, đã triệu tập người bị bắt và lấy cớ so sánh chữ ký của họ với chữ trên hộ chiếu, bắt họ ký sẵn lên một tờ giấy sạch, sau đó ông ta sẽ viết vào đó lời khai gì mà mình cần.

Điển hình cho điều này là bức thư của lãnh đạo mới được bổ nhiệm của Cục Dân ủy Nội vụ khu vực Ordzhonikidze gửi cho Bộ Dân ủy Nội vụ Liên Xô, báo cáo rằng trong quá trình thanh tra công tác của Cục Dân ủy Nội vụ đã phát hiện những vi phạm nghiêm trọng luật pháp, các vụ án ngụy tạo, chiểu theo đó đưa ra các quyết định xử bắn.

Trong thư có nêu: “… Kết quả cuộc điều tra cho thấy phần lớn hoạt động ngầm của cánh hữu Trotsky ở các quận đã tan rã, và sự tồn tại của các tổ chức Trotsky cánh hữu ở các quận khác cũng vậy, như ở Soldato-Aleksandrovsky (có 237 người bị bắt), Izobilensky (92), Shpakovsky (28), Staro-Marevsky (44), Novo-Aleksandrovsky (56) v.v. Không thể xác minh được bằng tài liệu điều tra…

… Những người được thả khỏi nơi giam giữ là ai? Phần lớn là những nhà hoạt động của Đảng và chính quyền Xô viết, nhân viên nông nghiệp của các cơ quan đất đai, trang trại tập thể và trang trại nhà nước.” (Lưu trữ Yezhov, kho số 13).

Ở tỉnh Chelyabinsk, do số lượng người bị bắt quá lớn và nhu cầu đẩy nhanh việc hoàn tất các án, quá trình điều tra đã được “hợp lý hóa” và bắt đầu, như cách nói ở Dân ủy Nội vụ, chuẩn bị “phụ tùng thay thế”.

Nhân chứng Pivovarov, người bị thẩm vấn về việc này, đã khai: “Ngoài ra, để đẩy nhanh quá trình điều tra, người ta còn thực hiện “phụ tùng thay thế”, theo thuật ngữ tồn tại thời điểm đó. Việc này được thực hiện như sau: một biên bản do điều tra viên viết sẽ được sao chép trên máy đánh chữ (11 người đánh máy làm việc cùng lúc). Các bản sao biên bản chỉ cần thay đổi một chút: sắp xếp lại dữ liệu nhận dạng, thay đổi hoàn cảnh tuyển dụng, sự kiện hoạt động gián điệp và phá hoại.

Những điều trên đã “đẩy nhanh” quá trình điều tra, kết quả là chúng tôi lập ra tới 8-10 biên bản, và mỗi người, như Grigoriev, đã viết tới 18 biên bản trong một ngày… Chernov, lãnh đạo cấp thành phố, tại các cuộc họp đã đưa biểu dương họ như tấm gương những người “thực sự biết cách chống lực lượng phản cách mạng”. (Vụ án Likholet I.D., trang 20).

Các biên bản thẩm vấn được chuẩn bị theo cách này đã được đưa cho người bị bắt, dưới áp lực tác động vật lý, họ bị ép ký, buộc tội bản thân và người khác, thường có cả những người mà họ không quen biết.

Tại một phiên tòa của Tòa án quân sự, cựu sĩ quan Dân ủy Nội vụ Bryalin đã khai: “Tại phòng số 61 cùng một lúc đưa tới 60 người… họ phải quỳ và giữ tư thế này suốt 5-7 ngày, bắt phải thú tội. Cá nhân tôi đã trực ở phòng 61, ở cùng những người bị bắt trong khoảng 7 ngày, canh không cho họ đứng dậy… Để moi lời khai từ người bị bắt, người ta nắm chân anh ta và lật ngược lên, đầu chúi xuống, giữ thế cho đến khi anh ta thú tội…

… Họ tách 2-3 người khỏe mạnh trong số những người bị bắt và buộc họ đánh những người khác.” (Vụ án Serdyuk M.I., trang 24).

Một số cựu nhân viên khác của Dân ủy Nội vụ cũng đưa ra lời khai tương tự.

Tắm nước lạnh cũng được sử dụng như một phương pháp tra tấn, tức là, người nào bị đòn roi mà vẫn không chịu ký vào biên bản có sẵn, sẽ bị dội nước lạnh trong tình trạng mặc nguyên quần áo và bị giữ thế cho đến khi họ đồng ý ký.

Về “các âm mưu” trong các cơ quan Dân ủy Nội vụ

Bắt giữ bất hợp pháp hàng loạt, sử dụng vũ lực tràn lan đối với những người bị bắt, ngụy tạo biên bản thẩm vấn, v.v. – tất cả đều là công việc của những cá nhân thù địch xâm nhập vào các cơ quan Dân ủy Nội vụ và của những kẻ cơ hội chủ nghĩa, nịnh hót vô nguyên tắc, là tình trạng chung nảy sinh trong nước.

Báo chí, đài phát thanh, áp phích có hình “nắm đấm sắt”, các bài phát biểu của quan chức cấp cao đã định hướng cho không chỉ tập thể Chekist (nhân viên Ủy ban đặc biệt toàn Nga chống phản cách mạng và phá hoại) mà còn cho cả ban lãnh đạo Đảng và các cơ quan Xô-viết thông tin về sự tồn tại của các tổ chức gián điệp-phiến quân và các tổ chức khác hoạt động trên phạm vi cả nước và về nhu cầu phải tiến hành một cuộc thanh trừng toàn diện. Hầu hết các cán bộ Chekist đã tiếp cận vấn đề này thiếu tinh thần phản biện và tin vào chỉ thị của Yezhov, lúc đó không chỉ là Ủy viên Nhân dân mà còn là Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên bang (Bolshevik). Sau khi tham gia vào các vụ việc lẻ tẻ vi phạm pháp luật, họ dần khuất phục trước xu hướng chung và thường bắt đầu thể hiện “sáng kiến” chủ động trong vấn đề này.

Cần lưu ý, nhiều đảng viên không liên quan đến công việc của Dân ủy Nội vụ cũng trở thành những kẻ trực tiếp tham gia sử dụng vũ lực đối với người bị bắt.

Trong thời kỳ diễn ra các chiến dịch quần chúng, khi quá tải người bị bắt, tại một số cơ quan Dân ủy Nội vụ, đặc biệt là ở các văn phòng thành phố và quận, cán bộ tác chiến không còn đủ sức điền vào bảng câu hỏi của người bị bắt, và lúc đó, các nhân viên từ các phòng ban được yêu cầu đến trợ giúp, và theo điều đình giữa các cơ quan đảng, nhiều đảng viên từ các ban ngành khác đã được huy động. Những người biệt phái này tham gia vào các vụ bắt giữ bất hợp pháp, theo dõi những người vị bắt “giữ vững lập trường”, và đôi khi thậm chí họ còn tham gia đánh đập.

“Sự rối loạn tâm thần” trong cuộc chiến với các điệp viên Trotsky cánh hữu, với những kẻ phá hoại và hai mang đã lan rộng khắp quần chúng.

Xảy ra không ít trường hợp, khi những nhân viên tỉnh táo phẫn nộ trước hành động phi pháp như vậy, và rồi chính họ cũng phải vào tù. Yezhov, trong bài phát biểu cuối cùng tại phiên tòa, tuyên bố rằng ông đã bắt giữ 14.000 Chekist.

Sau khi Beria lên nắm giữ chức vụ Ủy viên Nội vụ Liên Xô, một làn sóng thanh trừng rộng rãi chống lại Chekists đã diễn ra. Ngoại trừ một số ít trường hợp, những người lãnh đạo các Cục Dân ủy Nội vụ, hầu hết các phó cục và một số lượng lớn các trưởng phòng đã bị bắt. Ở nhiều khu vực và tỉnh thành, 2-3 nhóm lãnh đạo Dân ủy Nội vụ liên tiếp bbị bắt giữ.

Phần lớn các Chekists bị bắt đều bị cáo buộc tham gia khối cánh hữu Trotsky. Yezhov cáo buộc họ âm mưu với Yagoda. Beria bị bắt và khai ông ta đang trấn áp âm mưu phá hoại do Yezhov, Frinovsky và Evdokimov cầm đầu.

Phần lớn các Chekists bị bắt phải nhận án tử hình, và biện pháp trừng phạt này đã được thống nhất từ trước với đồng chí Stalin. Một danh sách họ tên được đệ trình chờ phê duyệt, mà không nêu rõ thực chất của các tài liệu “có sẵn” đó.

Tiếp xúc một loạt vụ án nhằm vào các cựu Chekists cho thấy không có bất cứ căn cứ nào khẳng định âm mưu của họ. Trong số những người bị bắt có kẻ địch – những người cánh hữu, những người Cách mạng Xã hội, nhưng âm mưu có tổ chức của họ không hề tồn tại.

Nhiều nhân viên Dân ủy Nội vụ bị bắt, đặc biệt là những người bị Beria bắt, đã phạm tội hình sự, vi phạm pháp luật và phải ra tòa, nhưng không phải vì tham gia vào âm mưu nào đó. Tuy nhiên, bản thân Beria, khi còn ở Georgia, cũng vi phạm luật pháp tương tự, và bên cạnh đó, ông ta không muốn đặt câu hỏi nghi ngờ trước đồng chí Stalin về các âm mưu, khối và các trung tâm được ngụy tạo. Cũng có thể “tội lỗi” của các nhân viên Dân ủy Nội vụ bị bắt giữ là do họ biết quá nhiều.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhiều lần cử hàng ngàn đảng viên đáng tin cậy nhất của Đảng tới làm việc tại các cơ quan an ninh nhà nước. Yezhov và Beria “đã biến nhiều người trong số họ thành kẻ thù” và xử bắn họ.

Các cựu nhân viên Dân ủy Nội vụ bị bắt, bị đánh đập hết sức tàn bạo, và hồ sơ của họ cũng bị ngụy tạo, giống như nhiều cán bộ hàng đầu của bộ máy Đảng và chính quyền.

This entry was posted in Tư liệu. Bookmark the permalink.