Đinh Thanh Huyền
Do nhiều cơ duyên, từ năm 2021 đến nay tôi được tiếp cận, tham gia khá sâu vào nhiều khâu trong sự kiện thay đổi chương trình (CT) và sách giáo khoa (SGK). Chỉ tính riêng dự giờ tư vấn (môn Ngữ văn), tôi dự khoảng gần 1000 tiết cho mọi nhóm giáo viên (GV), từ GV mới tốt nghiệp, vừa được các trường tuyển dụng, GV đã dạy được từ 2-5 năm đến GV dự thi Giáo viên giỏi (GVG). Độ tuổi của GV từ 22-45. Vì thế, tôi nhận ra được vài vấn đề:
Thứ nhất, mặt bằng năng lực của GV rất thấp, đặc biệt là nhóm mới tốt nghiệp đại học. hầu hết GV ở nhóm này yếu “toàn thân”: thiếu kiến thức khoa học cơ bản, thiếu kĩ năng sư phạm, thiếu kinh nghiệm thực tế (thực tập sư phạm quá ít và kém chất lượng). Một giờ dạy của họ thường bộc lộ đầy đủ những điểm yếu này. Họ không thể triển khai kiến thức khoa học trong một bài cụ thể, không đủ kĩ năng để vận hành một tiết dạy, nhìn các GV này lúng túng, xoay sở vã mồ hôi, có người hoảng hốt đến mức không biết mình nói gì mà tôi vừa thương vừa giận. Nhóm GV đã dạy học từ 2 năm trở lên và GVG không đến mức “thảm hại” như GV mới ra trường nhưng những nhược điểm cố hữu vẫn còn đó và biến tướng theo một cách còn “nguy hiểm” hơn: kiến thức, phương pháp vẫn yếu và thiếu nhưng do dạy quen nên tưởng rằng đã vững vàng. Áp lực công việc quá lớn nên GV không còn thời gian đầu tư cho môn dạy, chỉ đối phó với hồ sơ, sổ sách, thanh tra, kiểm tra, công tác chủ nhiệm và hầm bà lằng các loại việc không tên đã đủ để suy nhược cả thể chất lẫn tinh thần. Nghề giáo viên chưa bao giờ như lúc này: vừa độc hại vừa nguy hiểm. Tôi là một người trong số họ, ngụp lặn chung một cái ao giáo dục tù đọng, hít thở chung một bầu không khí giáo dục ô nhiễm, chịu đựng chung những xỉ vả, tấn công, nhục mạ, khinh khi. Tôi hiểu GV từ bên trong chứ không phải từ ngoài, từ bên trên. Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi đồng tình, chấp nhận sự yếu kém về nghề nghiệp. Công việc này liên quan đến trẻ em, vì thế bắt buộc phải làm tốt nhất trong khả năng có thể.
Trong những nguyên nhân dẫn đến sự yếu kém của GV Ngữ văn hiện nay, tôi cho rằng các trường Đại học Sư phạm (ĐHSP) phải nhận trách nhiệm trước. Thế hệ 7X đến 8X tuyển sinh sư phạm rất khó, chỉ những HS không thể thi được vào các ngành khác mới chọn sư phạm, chất lượng đầu vào quá thấp thì đầu ra cũng thấp, đó là thực tế (trừ trường hợp học sinh (HS) giỏi quốc gia bị buộc đi học sư phạm những năm 1985-1987). Nhưng từ lứa 9X trở đi, điểm tuyển sinh ngành sư phạm đã cao dần, khoảng gần 10 năm trở lại đây, điểm tuyển sinh ĐHSP gần như cao nhất, tức là tuyển được đầu vào chất lượng cao, vì sao sinh viên ra trường vẫn kém? Đó là lỗi của trường đại học, không thể nói khác. Tôi không cần biết nội dung giáo dục đại học ra sao, chỉ nhìn vào chất lượng đầu ra là đủ thấy. Rõ ràng đưa quặng vàng vào lò luyện, sản phẩm ra lò vẫn là cục quặng đó, không những không luyện thành vàng ròng mà còn làm cho tạp chất lặn sâu vào nguyên liệu. Nhưng hình như các trường sư phạm vẫn “ung dung” lắm. Ngự trên đỉnh cao vời vợi của chuỗi đào tạo, có vẻ như các trường sư phạm vẫn rất yên tâm với mô hình của mình. Tôi có nhiều bạn đang dạy đại học, kì lạ là họ đều nhận ra những bất cập của giáo dục đại học, thế thì lỗi nằm ở đâu, chắc là ở hệ thống. Mà nói đến hệ thống thì tôi thua, tôi chỉ là con ong cái kiến, nói lắm nói nhiều lại ăn cú phạt 7 triệu rưỡi.
Suốt tháng 11 này, tôi ăn rồi chỉ đi dự giờ tư vấn cho GVG. Điều khiến tôi ức chế nhất là sự vênh lệch giữa phương pháp và nội dung trong một tiết dạy Ngữ văn. Phần lớn các tiết dựng để thi GVG chỉ đầu tư xây dựng các hoạt động. Hãy hình dung một tiết dạy Ngữ văn “chuẩn” như sau: Khởi động bằng một hoạt động (diễn tiểu phẩm, chơi trò chơi) rất sôi nổi. Phần hình thành kiến thức mới sẽ có hoạt động nhóm, mỗi nhóm sẽ cắm đầu viết trên giấy A0 hoặc làm slide trình chiếu, hết 5-7 phút hoạt động nhóm, HS bắt đầu thuyết trình, phản biện, GV nhận xét, kết thúc phần trọng tâm. Cuối giờ bắt buộc phải có luyện tập, vận dụng (chỗ này cực kì méo mó vì bài chưa hết, có khi phải kéo đến 2-3 tiết nữa, không biết luyện tập vận dụng cái gì). Cách luyện tập, vận dụng là lại tổ chức một hoạt động gì đó, có thể tiếp tục thảo luận/thuyết tình/tranh biện/chơi trò chơi, có thể xem một video ngắn rất cảm động rồi cùng nhau sụt sùi, có thể lại diễn tiểu phẩm, kết thúc thì GV cố ép kéo vào một bài học đạo đức nào đó mà dạo này thì toàn chiếu các video về lũ lụt và lại tiếp tục sụt sùi. Cấu trúc này phù hợp với Thực hành tiếng Việt, Nói và Nghe, nhưng dạy Đọc và Viết thì “chết” luôn. Thế mà tất cả các giờ dạy Đọc tôi được dự đều dựng bài như vậy. Đúng là muốn phát rồ! Đến đây, tôi lại quay về giáo dục đại học. Hiện nay, ĐHSP đang dạy theo mô hình phân lập, khoa học cơ bản và phương pháp tách riêng. Các giảng viên khoa học cơ bản chỉ dạy kiến thức hàn lâm, giảng viên phương pháp chỉ dạy phương pháp. Nhưng vấn đề là hầu hết giảng viên phương pháp rất yếu về khoa học cơ bản, ít nghiên cứu học thuật, thiếu trải nghiệm phổ thông lâu dài nên chỉ mạnh về kĩ thuật tổ chức lớp học mà yếu về nội dung môn học. Phương pháp mà thiếu nền tảng học thuật thì có tác dụng gì? Trước đây, khi dạy học theo CT cung cấp nội dung, khoa học cơ bản rất phát triển, phương pháp mờ nhạt. Nhưng theo xu hướng đổi mới giáo dục, môn phương pháp trở thành thời thượng, thậm chí che lấp cả khoa học cơ bản. Người ta tưởng chỉ cần giỏi phương pháp (mà chủ yếu là các kĩ thuật dạy học) là đủ. Một nền giáo dục thiếu triết lí, chỉ ngả nghiêng chạy theo hết trào lưu này đến xu hướng kia là vậy, nó cho phép công cụ thay thế toàn bộ. Hậu quả rất rõ: sinh viên ra trường giỏi tổ chức hoạt động nhưng không biết các hoạt động đó liên quan thế nào đến kiến thức cơ bản và năng lực của người học.
Cuối cùng, tôi thấy cần phải nói về việc tập huấn cho GV, một hoạt động diễn ra thường xuyên, trở nên đặc biệt sôi nổi từ khi SGK theo CT 2018 được triển khai. Báo cáo viên trong các cuộc tập huấn cấp tỉnh là giảng viên các trường ĐHSP. Trong số đó, có tác giả SGK (F0), có người được Nhà xuất bản trưng dụng (F1), có người được trường đại học chỉ định (F2), có người được các địa phương mời do quan hệ sẵn có… Trừ các tác giả SGK, số còn lại đều tập huấn theo kiểu hiểu thế nào thì làm thế ấy. Có người làm đúng tinh thần của CT và SGK mới, có người nói lệch, nói sai, có người chém gió, có người chỉ đọc lại các tài liệu mà GV đều có. Cứ thế, từ báo cáo viên đến chuyên viên Sở, đến GV, chúng ta có “tam sao thất bản”. Nhìn chung hiệu quả tập huấn rất thấp. Vấn đề lớn nhất nằm ở chỗ phần lớn giảng viên đại học không có kinh nghiệm dạy học phổ thông. Họ giỏi học thuật, nhưng không trải nghiệm lớp 40-45 HS, không hiểu rõ đặc thù trường phổ thông Việt Nam, không nắm được một lớp học phổ thông thực sự vận hành ra sao, có những khó khăn nào khi tổ chức hoạt động giáo dục, áp lực thời lượng CT, các kiểu HS “khó”, “im lặng”, “ngại tham gia”… Vì vậy, khi tập huấn, họ chỉ nói “nên làm thế này, thế kia” nhưng không biết làm thế nào trong điều kiện thật.
Các buổi tập huấn thường gồm giảng bài PowerPoint, giới thiệu khái niệm mới, phân tích CT – logic học thuật. Tất cả đều hay nhưng xa rời thực tiễn lớp học. Trong khi đó, GV phổ thông cần mẫu tiết dạy thật, ví dụ thực tế, cách xử lí tình huống cụ thể, hướng dẫn thiết kế bài giảng trong nhiều điều kiện lớp học,… CT 2018 đưa vào thực hiện theo kiểu ngắt khúc giữa, giáo dục đại học và phổ thông đang chạy theo mô hình nội dung, đùng cái bắt trường phổ thông chạy mô hình phát triển năng lực, GV lần mò hết hơi không biết phải dạy thế nào. Thực tế đó dẫn đến sự kháng cự ngầm của GV. Họ cảm thấy tập huấn không sát thực tế, không ai hiểu khó khăn của mình, họ làm với tâm lí chống đối hoặc làm cho có. Vì thế, CT thì đúng, cách thực thi sai dẫn đến thất bại từng phần. Chuyển đổi một mô hình dạy học là chuyển đổi cả một hệ hình giáo dục, thay SGK chỉ là thay công cụ, vậy mà người ta tưởng chỉ cần dí cuốn sách cho GV là họ sẽ tự động chuyển đổi hệ hình được mới tài. Trong điều kiện đó, giảng viên đại học đi tập huấn CT và SGK mới chỉ là “cưỡi ngựa xem hoa”, sau đó Bộ mặc kệ GV “sống chết mặc bay”, “tập huấn rồi, cứ thế mà làm đi”, nhưng làm thế nào thì Bộ không nói, Sở không nói, chuyên viên không nói, trường ĐHSP không nói. Chỉ có bọn thấp cổ bé họng ngồi bệt dưới đất là GV “ăn đủ”.
Từ năm học 2026-2027, cả nước sẽ quay về một bộ SGK, nhưng tinh thần của CT 2018 không đổi, và sẽ tiếp tục tập huấn. Theo tôi, đợt tập huấn này không nên dùng giảng viên đại học nữa. Nên chọn GV phổ thông giỏi, tập huấn cho họ để tránh tình trạng chia sẻ kinh nghiệm cá nhân. Với 5 năm thực chiến với CT và SGK mới, chính GV phổ thông là những người hiểu rõ hơn ai hết mọi vấn đề cần tập huấn. Sau 5 năm dạy theo CT mới, GV phổ thông mới là người biết lớp 40-45 HS vận hành thế nào, biết đặc điểm của các loại HS (mạnh, yếu, im lặng), biết tổ chức hoạt động nhóm trong phòng chật ra sao, biết phải giảm/tăng mức độ nội dung thế nào, họ hiểu áp lực kiểm tra – thi cử và biết cách biến yêu cầu CT 2018 thành bài giảng khả thi. Đây là ưu thế mà giảng viên đại học hoàn toàn không có. Một người thực dạy phổ thông mới biết chính xác những điểm khó – điểm nghẽn: bài nào khó dạy nhất, kĩ thuật nào dễ thất bại, năng lực nào yếu nhất ở HS, phần nào SGK viết “trên mây” cần điều chỉnh, cách phân hoá trong bối cảnh lớp đông. Đây chính là kiến thức mà giáo viên phổ thông đánh đổi bằng kinh nghiệm thật. Khi tập huấn, một GV phổ thông giỏi có thể dạy mẫu thật trong điều kiện lớp học thật. Họ có thể có được sự đồng cảm bởi “người trong nghề dạy người trong nghề”. Từ góc độ tâm lí, giáo viên phổ thông sẽ tin người “đã từng đứng lớp phổ thông” hơn người chưa từng, họ muốn nghe người giống mình nói bằng “ngôn ngữ của mình”, hiểu áp lực của mình. Vì thế GV phổ thông giỏi tập huấn sẽ giúp giảm kháng cự.
Tất nhiên, để sử dụng GV phổ thông cần phải sàng lọc đúng, phải huấn luyện họ, phải trả phụ cấp và ghi nhận chuyên môn, phải có cơ chế đồng hành với giảng viên đại học để đảm bảo chất lượng học thuật,… Nói chung là tôi nghĩ ra được thì các nhà quản lí cũng nghĩ ra được. Họ có làm hay không mà thôi!